A. Bộ Ngụy thư của Ngụy Thâu
THÁI QUỐC MƯU
Ngụy Thâu (魏収), 506–572, tự Bá Khởi, thụy Văn Trinh, là con trai
của Thái học Bác sĩ (Bác sĩ ở đây xin hiểu là Tiến sĩ của ta, không là Bác sĩ
như của ta) Ngụy Tử Kiến, người Hạ Khúc Dương huyện Cự Lộc, Hà Bắc (nay thuộc
Bình Hương, Hà Bắc) là Nhà văn, Nhà sử học thời Bắc Tề, chủ biên bộ chính sử
Ngụy Thư, năm Thiên Bảo thứ 5 (năm 554), đến năm Thiên Bảo thứ 10 (năm 559) mới
hoàn thành.
Bộ Ngụy thư có 114 quyển, gồm
Đế kỷ 12 quyển, Liệt truyện 92 quyển, Chí 10 quyển, chép về lịch sử hưng thịnh
và suy vong của Bắc Ngụy thời Nam Bắc Triều từ khi Đạo Vũ Đế kiến quốc năm 386
cho đến khi Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế bị phế truất năm 550.
Khi viết, Ngụy Thâu ví nặng
tình phe phái, có lòng thiên vị, thiếu trung thực, phán xét sai lầm, lệch lạc
nên đây là bộ Sử bị phê phán nhiều nhất. Chẳng hạn, với chủ đích tâng bốc tổ
tiên của tác giả qua hình thức ca ngợi Bắc Ngụy quá trớn, mà hạ nhục tổ tiên
đối thủ chính trị với tổ tiên mình và bản thân tác giả. Người đương thời gọi
Ngụy Thư là “Uế thư” (Sách nhơ bẩn như rác rưới).
Ngoài ra, còn viết sai lầm
lịch sử, cụ thể, trước Bắc Ngụy nước Đại chỉ là tiểu quốc, từng là chư hầu của
các nước Tiển Yên, Tiền Tần, Tây Tấn, Hậu Triệu nhưng, trong Ngụy Thư lật ngược
lại cho rằng nước Đại là một cường quốc, từng làm bá chủ các nước nêu trên,
những nước mà trước kia nước Đại chỉ là chư hầu của họ.
Ngoài ra, tác giả chỉ đưa tên
hoàng đế Đông Ngụy là Hiếu Tĩnh Đế vào bộ Ngụy Sử mà cố tình “bỏ quên” không
viết tên tuổi các vị hoàng đế phía Tây Ngụy chỉ vì nước Tây Ngụy vốn là kẻ thù
địch của Đông Ngụy, trong khi tác giả Ngụy Thâu làm quan ở triều Đông Ngụy. Mặt
khác, trong Ngụy Sử, Ngụy Thâu không trung thực khi gọi các nước thuộc Nam
Triều và các quốc gia lâng bang bằng quốc hiệu, mà chỉ viết các quốc gia ấy là
thứ man di, mọi rợ,… Vì thế, đến đời Tùy, Tùy Văn Đế sai thuộc hạ soạn lại tòan
bộ, bộ Ngụy Thư,
Tùy Văn Đế (隋文帝), 541-604 tên thật Dương Kiên (楊堅), tự Na La Diên (那羅延), Tây Ngụy Cung Đế ban cho họ Phổ Lục Như (普六茹), là con của Dương Trung. Ông là người sáng lập triều
đại nhà Tùy, ở ngôi từ năm 581 đến năm 604. Sau khi xem xong bộ Ngụy Sử (hay
Ngụy Thư) của Ngụy Thâu, thấy Ngụy Thâu viết không chính xác, thiếu trung thực,
ông không hài lòng bèn truyền lệnh cho Nhan Chi Suy cùng Ngụy Đạm soạn lại,
chưa xong thì Tùy Văn Đến bị chính con ruột của mình là Dương Quảng, dùng độc
tửu giết chết!
Những năm cuối đời, tính tình
Tùy Văn Đế thay đổi thất thường, giết người một cách tùy ý. Có lần đến kho vũ
khí tuần tra, thấy trong kho hơi dơ bẩn, ông ra lệnh bắt trưởng kho, hạ lệnh tử
hình.
Lại còn nghe lời gièm pha của
người con thứ là Dương Quảng phế con trưởng là Thái tử Dương Dũng, lập con thứ
là Dương Quảng làm Hoàng Thái Tử.
Tháng 7 âm lịch năm Nhâm Thọ
thứ 4 (604), khi Tùy Văn Đế đang bệnh, bị Hoàng Thái Tử Dương Quảng hại chết,
thọ 64 tuổi,
Dương Quảng (楊廣) hay Dương Anh (楊英), tự A Ma (阿), sau khi giết chính cha ruột của mình là Tùy Văn Đế,
để soán ngôi, xưng là Tùy Dạng Đế (隋炀帝), 569 đến 11/4/618) (có sách viết là Tùy Dượng Đế).
Sau khi soán ngôi của vua
cha, Tùy Dạng Đế sai Dương Tố, Phan Huy, Trử Lượng, Âu Dương Tuân cùng Nhan Chi
Suy, Ngụy Đạm họp thành nhóm chủ biên, nghiên cứu, viết tiếp Ngụy Thư, đến khi
hoàn tất, có 114 quyển.
Tùy Dạng Đế có công hoàn tất
Ngụy Thư (hay Ngụy Sử), nhưng y sớm trở thành tên bạo chúa. Giết anh ruột
nguyên là Thái Tử bị phế Dương Dũng, rồi giết tất cả con cái của Dương Dũng.
Hãm hại em trai là Dương Tú, Dương Lượng. Bức tử em gái là Công chúa Lan Lăng.
Lại bắt xây thành quách, cung điện ở Đông Đô vô cùng xa xí.
Về sau Đường Trường Nhụ chủ
trì tu chỉnh, nhuận sắc lại bộ Ngụy Thư (Ngụy Sử) mới được hoàn chỉnh như ngày
nay.
B. Bộ Tấn Thư của Phòng Huyền
Linh và Lý Diên Thọ.
- Tấn thư (晋書) là 1 trong 24 Bộ Chánh Sử của Trung Hoa, do Phòng
Huyền Linh và Lý Diên Thọ biên soạn năm 648, do lệnh Đường Thái Tông Lý Thế
Dân.
Đường Cao Tổ (唐高祖), 566 đến 25 tháng 7 năm 635, tục danh là Lý Uyên (李淵), tự Thúc Đức (叔德), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường. Ông ở
ngôi trên 8 năm (618-626). Trước, Lý Uyên là tôi thần Nhà Tùy, cai quản khu vực
tỉnh Sơn Tây ngày nay.
Lợi dụng khi triều đại Nhà
Tùy mục nát, Năm 617, Lý Thế Dân khuyên cha là Lý Uyên chống lại Nha Tùy. Khởi
đầu đánh chiếm kinh đô Trường An. Xong, Lý Uyên tự phong là đại thừa tướng,
hưởng tước Đường Vương. (Người viết, mạo muội giải thích. Thừa tướng với Đường
vương khác nhau như thế nào? Thừa Tướng là chức danh (chức vụ). Đường Vương là
ngạch trật để hưởng lương. Giống như sau nầy, một vị tốt nghiệp Quốc Gia Hành
Chánh, ngạch Đốc sự được bổ nhiệm làm Phó Tỉnh Trưởng. Phó Tỉnh ở đây là chức
vụ. Còn ngạch trật là để hưởng lương. Trường hợp cả hai vị đều ngạch trật bằng
nhau, nhưng chức vụ họ khác nhau. Một vị được bổ nhiệm làm Phó Tỉnh, còn vị kia
làm Trưởng ty. Cả hai vị đều hưởng lương bằng nhau. Chỉ có phụ cấp chức vụ khác
nhau mà thôi, nhưng phụ cấp chức vụ thì chẳng bao nhiêu.) Để che dấu ý đồ, Lý
Uyên tôn Dương Hựu lên ngôi làm hình nộm, tức là Tùy Cung Đế.
Tùy Cung Đế 隋恭帝, 605-14 tháng 9 năm 619, tên húy là Dương Hựu (杨侑), là hoàng đế thứ 3 của triều Tùy. Theo truyền thống,
ông được xem là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại do là người đã chính thức
thiện nhượng cho. Lý Uyên, là hoàng đế khai quốc triều Đường, mặc dù sau đó,
Dương Đồng đã xưng đế và tiếp tục tại vị cho đến năm 619. (Theo Tùy Thư
Dạng Đế Truyện chép rằng”: “Ban đầu Dương Hựu được phong là Trần vương
và sau được cải phong là Đại Vương, song trong Cung Đế Bản Kỷ cải chính rằng
Dương Hựu ngay từ lúc đầu đã được phong là Đại Vương. Tức là Dương Hựu không có
thọ chức Trần Vương).
Sau khi cướp ngôi Nhà Tùy, Lý
Uyên xưng đế hiệu là Lý Cao Tổ, phong vợ là Đậu thị làm Thái Mục Hoàng Hậu. Con
trưởng là Lý Kiến Thành làm Đông Cung Thái Tử.
Đậu Thái Mục Hoàng Hậu ở với
Đường Cao Tổ Lý Uyên, có 4 người con trai và một người con gái, theo thứ tự: Lý
Kiến Thành, Bình Dương Chiêu công chúa, Lý Thế Dân, Lý Huyền Bá và Lý Nguyên
Cát.
Lý Thế Dân nghĩ mình có nhiều
công lao với vua cha, nên tranh giành ngôi vị Thái Tử với anh trưởng là Thái Tử
Lý Kiến Thành. Vào ngày 2 tháng 7 năm 626, Lý Thế Dân cho phục kích tại Huyền
Vũ Môn giết chết người anh ruột của mình là Thái tử Lý Kiến Thành và người em
trai ruột là Lý Nguyên Cát.
Biết rõ tâm địa của Lý Thế
Dân, Đường Cao Tổ Lý Uyên (có lẽ sợ chết mà cũng không thể bắt tội con) bèn
truyền ngôi cho Lý Thế Dân.
Đường Cao Tổ Lý Uyên lên làm
Thái Thượng Hoàng, an hưởng tuổi già đến cuối đời. Lý Thế Dân tức vị, xưng đế
hiệu là Đường Thái Tông. Đường Thái Tông (唐太宗), sanh 23 tháng 1-598 chết 10 tháng 7-649. Ông là con
trai thứ 2 cũng là người nối ngôi Đường Cao Tổ Lý Uyên.
Đường Thái Tông là vị vua thứ
2 của triều đại Nhà Đường. Ông trị vì được 24 năm (626-649) niên hiệu là Trinh
Quán (貞觀). Suốt thời gian
tại vị Đường Thái Tông chỉ dùng duy nhất niên hiệu nầy.
Thuở nhỏ, Lý Thế Dân đã biểu
lộ tài hoa, giỏi thư pháp, âm nhạc, tinh thông thậpâp bát ban võ nghệ, có tài
cầm quân, thạo binh pháp, rất can đảm, không nề những việc hiểm nguy. Khi tấn
công thì như thác trào nước lũ, ào ạt như vũ bão,… đối phương luôn kiêng dè, nể
sợ.
Lúc 18 tuổi, đã nắm binh
quyền, được nhiều danh tài tìm đến đầu phục. Có những kẻ giàu khả năng, thiện
chí như Lý Tĩnh, Uất Trì Kính Đức, Tần Thúc Bảo, Từ Mậu Công, Trình Giảo Kim...
Ông được xem là Khai Quốc Hoàng Đế, đồng sáng lập Nhà Đường với vua cha là
Đường Cao Tổ Lý Uyên.
Đường Thái Tông là một vị vua
tài ba, đem cường thịnh tột đỉnh đến Nhà Đại Đường. Ông được coi là một trong
những vị hoàng đế vĩ đại nhất trong đất nước Trung Hoa, không kém gì các vì vua
như Tần Thủy Hoàng Doanh Chính, Hán Cao Tổ Lưu Bang, Tống Thái Tổ Triệu Khuông
Dẫn.
Bộ Tấn Thư có 132 quyển gồm
Mục Lục 1 quyển, Đế Kỷ 10 quyển, Chí (ghi chép) 20 quyển, Liệt Truyện 70 quyển,
Ký Tái 30 quyển. Phần Mục Lục có 2 quyển, bị mất. Hiện nay chỉ còn lại 130
quyển. Sách kể về lịch sử các sự kiện bắt đầu từ Tư Mã Ý thời Tam Quốc đến khi
Lưu Dụ phế Tấn Cung Đế lập nhà Lưu Tống năm 420, đồng thời sách còn bổ sung
thêm hình thức "Ký Tái" (ghi chép thêm), dùng để tường thuật tình
hình chính quyền của 16 nước.
Nhóm tác giả "Tấn
Thư" tổng cộng có 21 người bao gồm:
– Ba người trông coi việc tu
sửa: Phòng Huyền Linh, Chử Toại Lương, Hứa Kính Tông.
– Tác giả của ba chí Thiên Văn,
Luật Lịch, Ngũ Hành: Lý Thuần Phong
– Thể lệ tu sử đã định: Kính
Bá (chú thích: không có lưu truyền lại)
16 người khác: Lệnh Hồ Đức
Phân, Lai Tế, Lục Nguyên Sĩ, Lưu Tử Dực, Lư Thừa Cơ, Lý Nghĩa Phủ, Tiết Nguyên
Siêu, Thượng Quan Nghi, Thôi Hành Công, Tân Khâu Ngự, Lưu Dận Chi, Dương Nhân
Khanh, Lý Diên Thọ, Trương Văn Cung, Lý An Kỳ và Lý Hoài Nghiễm.
Ngoài ra Đường Thái Tông Lý
Thế Dân còn viết thêm bốn thiên bàn luận lịch sử trong phần Tuyên Đế Kỷ Tư Mã
Ý, Vũ Đế Kỷ Tư Mã Viêm, và hai phần liệt truyện là Lục Cơ, Vương Hi Chi, cho
nên mới có tựa đề là “Ngự Soạn” (do vua soạn thảo).
Tam Quốc Chi của Trần Thọ ra
đời cùng lúc Hạ Hầu Trạm biên soạn cuốn Ngụy Thư. Sau khi ông đọc Tam Quốc Chí
của Trần Thọ rồi, tự thấy không bằng liền tự đem đốt bản thảo của mình. Điều
nầy cho chúng ta thấy, sự xuất hiện tác phẩm Tam Quốc của Trần Thọ đã khiến
nhiều học giả đương thời nể trọng. Còn giới quan lại Thục Hán chê Trần Thọ là
kẻ vô tình, bất trung, tuyệt Hán!
Tam Quốc Diễn Nghĩa, được La
Quán Trung viết vào đầu Nhà Minh. (Nhà Minh hay triều Minh (明朝) từ 23 tháng 1 năm 1368 đến 25 tháng 4 năm 1644, là
triều đại cuối cùng do người Hán trong lịch sử Trung Quốc. Năm 1368, Hàn Tống
Ngô vương Chu Nguyên Chương sau khi tiêu diệt Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành
và Phương Quốc Trân cùng các thế lực quần hùng, cùng năm ngày 4 tháng Giêng âm
lịch đăng quang tại phủ Ứng Thiên, lấy quốc hiệu Đại Minh. Đầu thời kiến quốc,
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương định đô tại phủ Ứng Thiên (nay là Nam Kinh), đến
năm Vĩnh Lạc thứ 19 (1421), Minh Thành Tổ Chu Lệ dời đô đến phủ Thuận Thiên
(nay là Bắc Kinh) Khoảng cách giữa chánh sử Tam Quốc Chí của Trần Thọ ra đời
với bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung khoảng trên 1 ngàn
năm. Trong thời gian đó bộ chánh sử Tam Quốc Chí đã được quần chúng lưu truyền
và các giới văn học nghệ thuật đã tiếp tay phổ biến qua hình thức kịch, ca hát,
tuồng tích, văn thơ... Tất nhiên, những thể loại đó được thêm thắt, hư cấu
không ít và La Quán Trung cũng đã dựa vào các giả thuyết, hư cấu ấy để viết Tam
Quốc Diễn Nghĩa, làm sao tránh khỏi sơ xuất?
Chính việc biên chép Tam Quốc
Diễn Nghĩa của La Quán Trung sai sót, thiếu trung thực, đề cao quá đáng những
vật của Hậu Hán mà đè bẹp những nhân vật chống Nhà Hán. Cho nên, về sau, rất
nhiều người chỉnh sửa, nhuận sắc lại nguyên bản của La Quán Trung cho đúng sự
thật. Những bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa ra đời sau đó được lưu trữ đến ngày nay, gồm
có: Tam Quốc Diễn Nghĩa năm Dần với niên hiệu Hoằng Trị đời Minh (1494) / Tam
Quốc Diễn Nghĩa năm Nhâm Ngọ với niên hiệu Gia Tĩnh (1522) gồm có 24 cuốn 240
tiết. Những bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa đã lưu hành trước đây, nội dung đều có chỉnh
sửa, nhưng không khác nhau nhiều.
Bản gốc, Tam Quốc Diễn Nghĩa
của La Quán Trung so với bản của đời Nhà Nguyên, có những khác biệt:
– Loại bỏ một số phần mê tín,
nhân quả báo ứng và những tình tiết hoang đường.
– Viết thêm, nội dung làm cho
nội dung bộ truyện thêm phong phú.
– Tô vẽ tính cách và hình
tượng nhân vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.
– Nâng cao ngôn ngữ, tăng
cường thêm sức hấp dẫn của nghệ thuật.
– Làm nổi bật lên một cách
minh bạch và mãnh liệt mang tính văn học.
Tuy nhiên vẫn còn nhiều điều
sai sót.
Đến đầu đời Thanh, 1664, Mao
Luân cùng con trai là Mao Tôn Cương, người Tràng Châu tỉnh Giang Tô, bắt đầu tu
đính lại truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa. Phải mất 15 năm, đến đời Khang Hy thứ 18
(1678) mới hoàn tất.
Trọng tâm của Mao Tôn Cương
trong việc chỉnh sử Tam Quốc Diễn Nghĩa gồm thêm bớt, nhuận sắc, sắp xếp lại
các hồi mục, câu đối, câu văn, câu thơ lẫn lộn, lời trùng, sai sót,… và tước bỏ
các chương tấu không cần thiết, dồn 240 tiết vào 120 hồi và thêm vào đó những
lời bàn... Từ đó bản Tam Quốc Diễn Nghĩa do Mao Tôn Cương nhuận sắc được lưu
truyền rộng rãi.
Đến năm 1958, nhà xuất bản
Văn Học Xuất Bản Xã ở Bắc Kinh lại thêm một lần hiệu đính lại từ bản của Mao
Tôn Cương. Công việc chỉnh sửa, hiệu đính lại lần nầy rất kỹ. Họ dò lại, đối
chiếu từng câu, từng chữ, từng tên riêng với bản của La Quán Trung. Sau đó, đem
sửa chữa ấy đối chiếu lại với bản của Mao Tôn Cương để tìm những chỗ chữ sai,
hỏng mà hoàn chỉnh lại. Tóm lại, vẫn giữ gần như nguyên bản của họ Mao.
Đa số, những bản in gần đây,
đều theo bản hiệu đính của nhà xuất bản nầy.
Như vậy, ta có thể hiểu, ban
đầu bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa do La Quán Trung viết, về sau, Tam Quốc
Diễn Nghĩa trở thành bộ sách của rất nhiều tác giả.
***
Tham khảo có trích đoạn:
– Kể chuyện Tam Quốc, của Lê
Đông Phương
– Tướng soái cổ đại Trung
Hoa, của Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân
– Khổng Minh Gia Cát Lượng đại
truyện, của Trần Văn Đức
– Tam Quốc Chí của Trần Thọ.
– Bách Khoa Toàn Thư
– Trần Thọ, Tam Quốc chí, do
Bùi Tùng Chi chú
– Kể chuyện Lưỡng Tấn Nam Bắc
triều, của Thẩm Khởi
– Kể chuyện Tam Quốc, Nhà
xuất bản Đà Nẵng, 2007 của Lê Đông Phương
– Kể chuyện Tần Hán, Nhà xuất
bản Đà Nẵng, 2007 của Lê Đông Phương, Vương Tử Kim.
- Nguyễn Hiến Lê, Đại cương
Văn học sử Trung Quốc, Nhà xuất bản Trẻ, 1997.
Nguyễn Khắc Phi, Từ điển Văn
học (bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
- Dịch Quân Tả, văn học sử
Trung Quốc quyển I. GS. Huỳnh Minh Đức dịch, Nhà xuất bản Trẻ, 1992.
- Tam Quốc bình giảng, Nhà
xuất bản tổng hợp An Giang, 1989 của Nguyễn Tử Quang (1989),
- Tướng soái cổ đại Trung
Hoa, Nhà xuất bản Lao động, 2006 của
Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân
- Kiến Thức net.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét