SỰ SAI BIỆT GIỮA BỘ TIỂU THUYẾT TAM QUỐC DIỄN NGHĨA
CỦA LA QUÁN TRUNG VỚI BỘ CHÁNH SỬ TAM QUỐC CHÍ CỦA SỬ GIA TRẦN THỌ.
Thái Quốc Mưu
Lời giới thiệu của Giáo sư,
Hiệu trưởng La Ngạc Thụy:
Tam Quốc bao quát cả một thời
kỳ lịch sử gần một thế kỷ (từ 184 đến 280 sau công nguyên), tại đó, ba nước
Ngụy, Thục, Ngô đã hình thành thế chân vạc trong quá trình đánh dẹp cuộc khởi
nghĩa nông dân và trong cuộc chiến tranh giữa các chư hầu với nhau. Bắt đầu từ
cuộc khởi nghĩa của ba anh em Trương Giốc mà lịch sử gọi là cuộc khởi nghĩa
Hoàng Cân (Khăn vàng) cho tới khi Tư Mã Viêm, cháu Tư Mã Ý, tướng Ngụy, thống
nhất được Trung Quốc để lập nên nhà Tấn và chấm dứt cục diện tam quốc phân
tranh.
Căn cứ vào bộ tiểu thuyết giả
sử Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung và bộ Chính sử Tam Quốc Chí của Trần
Thọ, nhà văn, nhà nghiên cứu Thái Quốc Mưu đã phân tích, lý giải với quan điểm
hoàn toàn mới để chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về những nhân vật chủ chốt
của bộ Tam Quốc Chí.
La Ngạc Thụy
(Giáo sư, Hiệu trưởng trường
trung học Tây Ninh
Chủ nhiệm trang nhà
datdung.com)
huy ba 6 Tháng Chín, 2016 at
6:46 chiều
Tơi mong cĩ nhiều bậc trí
nhân nghiên cứu về lịch su63 Việt Nam sâu như bài này. Học người một , học mình
mười.
***
Tác giả Bộ Chánh Sử Tam Quốc
Chí là Trần Thọ (陈寿), tự Thừa Tộ, sanh năm 233, mất năm 297, nguyên quán
ở quận Ba Tây (nay thuộc đô thị Nam Sung, tỉnh Tứ Xuyên), làm quan Nhà Thục
Hán, khi Thục Hán diệt vong, ông làm quan Nhà Tây Tấn. Trần Thọ thuở nhỏ hiếu
học, bái Tiều Chu làm thầy, sau đó giữ chức Quan Các Lệnh Sử triều đình Thục
Hán.
Trần Thọ vốn người ngay
thẳng, trung thực được người đương thời tôn là bậc chính nhân quân tử, không
theo phe phái nào, nhất là bọn hoạn quan Hoàng Hạo.
Trong thời gian đó, Trần Thọ
khi làm Trước Trác Lang bắt đầu biên soạn Thục Tướng Gia Cát Lượng Tập dâng lên
triều đình, nhờ đó được thăng chức Trung Chính ở quận Dương Bình. Từ đó, Trần
Thọ dồn hết tâm huyết để biên soạn tác phẩm Tam Quốc Chí, ghi chép lại lịch sử
Trung Quốc thời kỳ Tam Quốc, tổng cộng 65 thiên, trở thành một trong 24 bộ
chính sử lớn của Trung Quốc.
Dưới đây là danh sách Nhị
Thập Tứ Sử Trung Hoa, gồm có:
1. Sử ký, của Tư Mã Thiên,
130 cuốn.
2. Hán thư, của Ban Cố, 100
cuốn.
3. Hậu Hán thư, của Phạm
Diệp, 120 cuốn.
4. Tam quốc chí, của Trần
Thọ, 65 cuốn.
5. Tấn thư, do Phòng Huyền Linh chủ biên, 130 cuốn.
6. Tống thư, của Thẩm Ước,
100 cuốn.
7. Nam Tề thư, của Tiêu Tử
Hiển, 59 cuốn.
8. Lương thư, của Diêu Tư
Liêm, 56 cuốn.
9. Trần thư, của Diêu Tư
Liêm, 36 cuốn.
10. Ngụy thư, của Ngụy Thâu,
114 cuốn.
11. Bắc Tề thư, của Lý Bách
Dược, 50 cuốn.
12. Chu thư, do Lệnh Hồ Đức
Phân chủ biên, 50 cuốn.
13. Tùy thư, do Ngụy Trưng
chủ biên, 85 cuốn.
14. Nam sử, của Lý Diên Thọ,
80 cuốn.
15. Bắc sử, của Lý Diên Thọ,
100 cuốn.
16. Cựu Đường thư, do Lưu Hú
chủ biên, 200 cuốn.
17. Tân Đường thư, của Âu
Dương Tu và Tống Kỳ, 225 cuốn.
18. Cựu Ngũ Đại sử, do Tiết
Cư Chính chủ biên, 150 cuốn.
19. Tân Ngũ Đại sử, do Âu
Dương Tu chủ biên, 74 cuốn.
20. Tống sử, do Thoát Thoát
chủ biên, 496 cuốn.
21. Liêu sử, do Thoát Thoát
chủ biên, 116 cuốn.
22. Kim sử do Thoát Thoát chủ
biên, 135 cuốn.
23.Nguyên sử, do Tống Liêm
chủ biên, 210 cuốn.
24. Minh sử, doTrương Đình
Ngọc chủ biên, 332 cuốn.
Ngoài 24 bộ chánh sử nêu
trên, về sau còn có thêm 2 bộ sử nữa:
- Tân Nguyên sử, do Kha Thiệu
Văn chủ biên, 257 cuốn.
- Thanh sử cảo, doTriệu Nhĩ
Tốn chủ biên, 529 cuốn.
Trong Tấn Thư chép, khi Tam
Quốc Chí ra đời được đánh giá rất cao. Đương thời và cùng lúc với Hạ Hầu Trạm
biên soạn cuốn Ngụy Thư. Khi Hạ Hầu Trạm xem Tam Quốc Chí của Trần Thọ, Hạ Hầu
Trạm thấy mình viết không bằng Tam Quốc Chí của Thọ, liền tự tiêu hủy tác phẩm
của mình.
Lưu Hiệp, người thời Lương
(Nam, Bắc triều) trong cuốn Văn Tâm Điêu Long, tại mục Sử Truyện chép rằng:
“Duy Trần Thọ Tam Quốc Chí, văn chất biện hiệp, Tuân, Trương tỷ chi ư Thiên,
Cố, phi vọng dự dã” (Dịch: Tam quốc chí của Trần Thọ thấm nhuần chất văn, như
Tuân, Trương so sánh với Thiên, Cố, chẳng phải khen quá lời).
Tam Quốc Chí của Trần Thọ
không những chỉ chép khái quát tình hình chính trị, kinh tế, quân sự thời Tam
Quốc mà còn đề cập đến nhiều nhân vật xuất sắc trong các lĩnh vực văn học, nghệ
thuật, kỹ thuật..., đồng thời ghi chép về một số dân tộc thiểu số ở Trung Hoa
và viết thêm về các nước láng giềng của Trung Quốc (như Nhật Bản, Triều Tiên, Ấn
Độ, Việt Nam...)
Tính trung thực của Trần Thọ
khi viết bộ Tam Quốc Chí cũng có nhiều ý kiến phê bình khác nhau.
Theo Tấn Thư chép lại, thì
Trần Thọ từng nói với Đinh Nghi, tự Chính Lễ, Đinh Hạo, tự Đinh Dị, có sách
chép là Đinh Dự (con của Đinh Xung, bạn thân của Tào Tháo), cả hai người đều có
tiếng tăm ở nước Ngụy, rằng: "Khả mịch thiên hộc mễ kiến dữ, đương vị tôn
công tác giai truyện" (Dịch: Nếu tìm cho ta được nghìn hộc lương - khoảng
10 ngàn kgs gạo, ta sẽ vì tôn phụ mà viết truyện cho hay). Kết quả bị từ chối,
Trần Thọ cũng không viết truyện về người cha của hai anh em họ Đinh nữa.
Câu chuyện cho rằng Trần Thọ
ra điều kiện với anh em họ Đinh hoàn toàn bia đặt, sai sự thật, vì Đinh Nghi (丁仪), tự Chính Lễ, làm quan Ngụy Tào, mất năm 220, trong
khi Trần Thọ sanh năm 233, nghĩa là Đinh Nghi chết trước khi Trần Thọ chào đời
13 năm. Còn Đinh Hạo, tuy trong sách sử không nói rõ ràng, nhưng ta có thể hiểu
Hạo cũng thuộc tầng lớp trước Trần Thọ thì lấy ai để Trần Thọ đặt điều kiện như
trên mô tả? Điều nầy có thể bởi những kẻ cùng thời với Trần Thọ vì ganh ghét
nhân cách, đố kỵ tài năng mà ngậm nọc độc phun vào tên tuổi Trần Thọ? Thời nào,
ở đâu mà chẳng có loại người vô liêm sỉ?
Ngoài ra cũng có ý kiến cho
rằng, do cha của Trần Thọ bị Khổng Minh GIA Cát Lượng xử tội, nên trong quyển
35 Tam Quốc Chí phần viết về “GIA Cát Lượng Truyện”, Trần Thọ đánh giá Chư Cát
Lượng là “danh quá kỳ thực” (Dịch: tiếng tăm vượt quá sự thật) là Thọ dùng việc
công để báo thù riêng. (thực tế, Khổng Minh không phải họ GIA Cát mà là họ CHƯ
Cát. Từ đây, đến kết thúc bài nầy, khi đề cập đến họ GIA Cát – tôi viết lại là
CHƯ Cát – để chỉnh lại cho hoàn chỉnh và đúng với nguyên tác).
Để quý độc giả biết rõ vì sao
từ họ GIA Cát, tôi (TQMưu) chỉnh thành họ CHƯ Cát, người viết xin mạo muộâi nói
về nguồn gốc của họ “Chư Cát”. Có 2 thuyết:
(1). Trong cuốn "Phong
Tục Thông Nghĩa" của Ứng Thiệu đời Đông Hán (25-220), phần “Dật văn” nói
về các tên họ, như sau:
- Chư Cát thị: “Cát Anh vi
Trần Thiệp tướng quân, hữu công phi tội nhi tru, Hiếu Văn đế truy lục phong kỳ
tôn Chư huyện hầu, nhân tính thị yên.” Dịch: “Họ Chư Cát: Cát Anh là tướng của
Trần Thiệp, có công, không có tội mà bị giết, Hiếu Văn đế truy tìm những ghi
chép trong sách vở (về sự việc đó), rồi phong cháu nội của tướng Cát Anh cai trị
huyện CHƯ, nhân đó ghép tên huyện với tộc họ chính với địa danh CHƯ thành ra họ
CHƯ Cát.
(2). Trong phần chú thích
tiểu sử (GIA) CHƯ Cát Cẩn (bào huynh CHƯ Cát Lượng), trong bộ Chính Sử “Tam
Quốc Chí”. Sử gia Bùi Tùng Chi (372-451) ghi về nguồn gốc họ "CHƯ
Cát" ở chú thích như sau:
- Ngô Thư viết: “Kỳ tiên Cát
thị, bản Lang Nha CHƯ huyện nhân, hậu tỉ Dương Đô. Dương Đô tiên hữu tính CÁT
giả, thời nhân vị chi Chư Cát, nhân dĩ vi thị. / Tam Quốc Chí. Qu. LII - Ngô
Thư. Qu. VII.
Dịch: Ngô Thư nói: “Tiên tổ
của (GIA) CHƯ Cát Cẩn vốn là người huyện CHƯ, quận Lang Nha, về sau dời đến
(huyện) Dương Đô. Ở huyện Dương Đô, trước đó đã có họ CÁT, người thời đó gọi
tiên tổ của GIA Cát Cẩn là “CHƯ Cát”, nhân đó lấy địa danh CHƯ làm họ chính.
Để rõ hơn, người viết xin
giải thích một chút về câu “người thời đó gọi tiên tổ của CHƯ Cát Cẩn là “CHƯ
Cát” - tức câu “Thời nhân vị chi CHƯ Cát”.
Trước đó ở lãnh thổ huyện
Dương Đô đã có giòng họ CÁT, bây giờ tiên tổ của (GIA) Cát Cẩn cũng họ CÁT từ
huyện CHƯ dọn tới, để phân biệt gốc gác của hai nhánh họ CÁT người huyện Dương
Đô mới thêm tiếng CHƯ trước chữ CÁT của giòng họ (GIA) CÁT Cẩn là "CHƯ
CÁT", ý nói rằng giòng họ CÁT này từ huyện CHƯ dọn tới, chứ không phải là
giòng họ CÁT có gốc tại Dương Đô. Tóm lại, có đến 2 thuyết về họ CHƯ Cát của
CHƯ Cát Lượng như tôi đã dẫn ở trên.
Tuyệt nhiên không có nói gì
đến họ GIA. Vì sao từ họ CÁT của tướng CÁT ANH (Nội tổ của Khổng Minh) bỗng
nhiên có chữ “GIA” đứng trước chữ CÁT để tạo thành họ GIA CÁT? Phải chăng do
người dịch bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa đầu tiên do nhận mặt chữ sai lầm? Tôi (TQMưu)
không lý giải được.
Thân phụ của Trần Thọ là Trần
Thức (陳式) làm tướng của
Hoàng Trung, sau chiến dịch Hán Trung và trận Hào Đình, Trần Thức được phong
làm Đại Tướng Quân, phục vụ dưới trướng Lưu Bị. Trần Thức (Cha của Trần Thọ)
làm Tham Quân cho Mã Tốc. Mã Tốc trái lệnh làm mất Nhai Đình bị Gia Cát Lượng
xử chém.
Sau khi Đinh Xung mất, Tào
Tháo nghe con của Xung là Đinh Nghi có tài, định gả con gái là Tào Thanh Hà
(sau là công chúa Thanh Hà) cho Nghi. Nhưng Tào Phi vin cớ, mắt phải của Đinh
Nghi bị dị tật, “tướng mạo bất giai” ngăn cản. Sau cùng, Tháo gả Thanh Hà cho
Hạ Hầu Mậu.
Để giữ tình nghĩa với Định
Xung, Tháo phong cho Đinh Nghi làm Tây Tào duyện.
Bởi hụt làm rể của Tào Tháo,
Đinh Nghi cùng em là Đinh Dị quyến định kết thân với người con thứ ba của Tào
Tháo là Tào Thực. Mỗi khi đối diện với Tào Tháo, anh em Đinh Nghi thường nói
tốt Tào Thực trước mặt Tào Tháo. Đồng thời dâng ý kiến lên Tháo nên chọn Tào
Thực làm thế tử. Còn Tào Phi lên làm Ngụy công. Do đó, khi Tào Tháo mất, Phi
lên làm Ngụy Vương, nhớ lại chuyện nầy bèn xử trảm hai anh em Đinh Nghi cùng
gia đình vợ con của anh em họ Đinh.
Phần Tào Thực, tự Tử Kiến,
thụy là Trần Tư Vương, sanh năm 192 mất 27 tháng 12, 232. Thọ 40 tuổi. Tào Thực
có tên trong Văn Học Kiến An là nền văn học bộc phát thời Hán Hiến Đế, nên dùng
niên hiệu Kiến An của Hán Hiến Đế. Đặt tên cho nền văn học nầy. Hán Hiến Đế là
vị vua cuối cùng của Hán trào.
Ban đầu nền Văn Học Kiến An
có bảy văn, thi nhân nổi danh, được xưng tụng là Kiến An Thất Tử, gồm có:
1. Vương Xán (177-217), tự
Trọng Tuyên, người Cao Bình, Sơn Dương, nay ở Tây nam huyện Trâu, tỉnh Sơn
Đông. Vương Xán hình dung bên ngoài xấu xí, cao khoản 1.50mét, nhưng ông nổi
tiếng hay chữ, là người uyên bác, giỏi văn học, giỏi toán, đặc biệt trí nhớ rất
tốt. Vung bút thành văn, múa bút thành thơ, sau khi viết rồi không hề sửa một
chữ. Trong Kiến An Thất Tử, Vương Xán là người nổi tiếng nhất, làm thơ nhiều
nhất, và tiêu biểu nhất. Tác phẩm của ông để lại có thi, phú, luận gồm 60
thiên; trong số đó có bài phú Đăng Lâu, danh rền thiên hạ.
2. Khổng Dung (153 - 208)
nhiều tuổi hơn cả, là người giao thiệp rộng, hay châm chọc Tào Tháo, nên bị Tào
Tháo vừa ghét vừa ghen tài nên tìm cách giết ông chết. Sau khi Tào Phi tức vị,
cho gom góp những di văn của ông được 25 thiên.
3. Trần Lâm (? -217): lúc đầu
phục vụ cho Viên Thiệu, ông đã làm bài hịch mắng Tào Tháo. Bài hịch này rất nổi
tiếng trong văn học cổ đại Trung Quốc. Về sau, khi về với Tào Tháo, vì yêu tài
ông, Tào Tháo đã bỏ qua chuyện cũ.
3. Lưu Trinh (170 - 217) làm
thơ tỏ lòng tiết tháo, không thoả hiệp với thế lực đen tối, biểu hiện chân tính
“Phong Cốt Kiến An.”
Ngoài ra còn có ba người nữa,
là Nguyễn Vũ (?-212), Từ Cán (170-217) và Ứng Sướng. Đáng tiếc người viết chưa
tìm được sử liệu của ba nhân vật nầy.
Về sau ba cha con Tào Tháo,
Tào Phi, Tào Thực cũng nằm trong nền Văn Học Kiến An và được gọi là Tam Tào. Từ
đó người ta gọi là, Kiến An Thập Nhất Tài Danh.
Nói về Văn Học Kiến An, Học
giả Dịch Quân Tả viết trong thiên “Luận văn”, trong “Điển luận” của Tào Phi,
đều có phê bình Kiến An Thất Tử. Chẳng hạn, Tào Phi viết: “Vương Xán sở trường
về từ phú, Từ Cán có phong khí... Trần Lâm, Nguyễn Vũ là những nhân tài xuất
chúng. Ứng Sướng hòa mà không tráng, Lưu Trinh tráng mà không mật, Khổng Dung
thì thể cao khí diệu có chỗ hơn người”...
Sau khi Tào Tháo mất (220),
Tào Phi được thừa kế chức Ngụy Vương của cha. Không lâu sau, Phi soán ngôi Hán
Hiến Đế (189-220) và tự xưng Ngụy Hoàng Đế. Đồng thời cùng con trưởng là Tào
Tuấn (205-239) tìm mọi cách đè bẹp, áp đảo Tào Thực. chỉ phong cho Tào Thực các
chức vụ cai quản ở những vùng đất xa xôi kinh thành. Từ năm 221, Phi cùng
trưởng nam là Tào Tuấn thay đổi chức danh và và địa điểm cai quản của Tào Thực
10 lần:
1. Bình Nguyên hầu (平原侯; 211 - 214).
2. Lâm Tri hầu (临菑侯; 214 - 221).
3. An Hương hầu (安乡侯; 221).
4. Quyên Thành hầu (鄄城侯; 222).
5. Quyên Thành vương (鄄城王; 222 - 223).
6. Ung Khâu vương (雍丘王; 223 - 227).
7. Tuấn Nghi vương (浚仪王; 227 - 228).
8. Ung Khâu vương (雍丘王; 228 - 229).
9. Đông A vương (东阿王; 229 - 232).
10. Trần vương (陈王; 232).
Khiến học giả Trung Quốc là
Dịch Quân Tả, phải than: “Tội nghiệp Tử Kiến (Tào Thực) phải chạy ngược chạy
xuôi, lo buồn tiều tụy, không có được một ngày yên tĩnh, nghỉ ngơi, và ông chết
trong sự uất hận đó khi tuổi vừa 40.”
Mã Tắc (馬謖 – thường gọi Mã Tốc), tự Ấu Thường (幼常), người Nghi Thành, Tương Dương, là tướng của Thục
Hán, sinh 190, mất 228, ông có 5 anh em trai, tất cả đều học cao, hiểu rộng,
nhưng người giỏi nhất là Mã Lương, anh của Mã Tắc. Mã Lương đi theo Lưu Bị, khi
Lưu Bị đang trấn giữ Kinh Châu. Mã Tắc theo người anh đến phục vụ dưới cờ Lưu
Bị. Ông được bổ nhiệm làm Tòng Sự Kinh Châu.
Năm 214, Lưu Bị đánh chiếm
Tây Xuyên của Lưu Chương, Mã Tắc được gọi vào Thục giữ chức Thành Đô Lệnh, Thái
Thú quận Việt Tuyển.
Mã Tắc là người tài cao, học
rộng, thấy xa, thích bàn luận mưu mô, chiến lược, chiến thuật. Ông được Khổng
Minh Chư Cát Lượng rất trọng vọng. Nhưng, Lưu Bị trước khi mất (223) lại khuyên
Chư Cát Lượng không nên trọng dụng Mã Tắc, vì, theo nhận xét của Lưu Bị thì Mã
Tắc vốn là kẻ hay cường ngôn (nói quá trớn).
Chư Cát Lượng bỏ ngoài tai
lời Lưu Bị, thăng Mã Tắc làm tham quân, và thường gọi ông đến thảo luận việc
quân cơ, thường Mã Tắc bàn luận rất sâu sắc. Khổng Minh tỏ ra trọng nể và tỏ ra
rất hợp ý nhau. Nhưng lòng luôn e ngại tài của Mã Tắc tương lai sẽ làm lung lay
đia vị, quyền lực của họ Khổng.
Năm 225, Chư Cát Lượng xua
quân đánh lực lượng quân nổi dậy của Ung Khải tại Nam Trung (đã phản Thục theo
Ngô). Mã Tắc ở lại Thành Đô. Trước khi chia tay lên đường, Chư Cát Lượng hỏi kế
sách, Mã Tắc khuyên Chư Cát Lượng:
- “Hôm nay ngài dùng vũ lực
dẹp họ, thì mai có cơ hội họ lại làm phản. Muốn diệt sạch chúng để trừ hậu họa
thì kẻ nhân từ không nên làm thế, mà trong lúc vội vã càng khó làm được. Đạo
dùng binh nên, công tâm là thượng sách, công thành là hạ sách; tâm chiến là
thượng sách, binh chiến là hạ sách, hy vọng ngài có thể khiến chúng tâm phục,
Nam Trung tự nhiên yên định.” (hai chữ công tâm trong đoạn trên, không có nghĩa
là ngay thẳng, nên hiểu là dùng tấm lòng của ta để lay chuyển đối phưong.)
Khổng Minh trố mắt ngạc
nhiên, trong lòng vô cùng e ngại lẫn thán phục, nhưng ngoài mặt vẫn giữ nét
điềm nhiên.
Trong cuộc Bắc phạt lần thứ
nhất, Mã Tắc là người đã bày kế ly gián để Ngụy Đế Tào Duệ cách chức đại đô đốc
của Tư Mã Ý, khiến quân Ngụy thua hết trận này đến trận khác. Điều này, khiến
Chư Cát Lượng càng nể trọng, tin cậy nhưng không khỏi lo ngại về tài năng của
Mã Tắc sẽ đe dọa đường danh vọng của ông ta.
Năm 228, Chư Cát Lượng mang
quân đánh Ngụy lần thứ nhất. Ngụy Minh Đế Tào Tuấn sai Tư Mã Ý và Trương Cáp
mang quân ra chống địch.
Để chống với danh tướng
Trương Cáp, mọi người đều cho rằng nên dùng mãnh tướng Ngụy Diên hoặc Ngô Ý vì
họ đã dày dạn kinh nghiệm trận mạc, nhưng Chư Cát Lượng lại quyết định chọn Mã
Tắc làm tiên phong. Mã Tắc được lệnh cùng Vương Bình cầm quân khẩn cấp trấn thủ
Nhai Đình. (Sự kiện nầy cho ta thấy, Khổng Minh cố ý sai Mã Tắc là người giỏi
mưu lược nhưng không có kinh nghiệm chiến trường. Việc Khổng Minh buộc Mã Tắc
cầm binh ra trận với ý đồ mượn tay giặc giết Mã Tắc, vì Khổng Minh đã biết chắc
người như Mã Tắc không thể nào thắng được danh tướng lão luyện chiến trường như
Trương Cáp của Ngụy.)
Đến Nhai Đình, Mã Tắc làm
ngược lại chiến lược của Chư Cát Lượng đã dặn. Mã Tắc không đóng quân ở nơi
đường cái, gần sông là chỗ có nước cho quân sĩ dùng, trái lại mang 2 vạn quân
trấn giữ trên núi với chiến thuật “Trên núi đánh xuống, thế như chẻ tre”. Vương
Bình nhiều lần phản đối, nhưng Mã Tắc không nghe. Cuối cùng, Vương Bình đành
xin Mã Tắc cho 5.000 người ngựa ra đóng trại dưới chân núi.
Trương Cáp theo sự chỉ đạo
của Tư Mã Ý đã mang quân vây trại của Mã Tắc trên núi, rồi cắt đứt đường nước.
Quân Thục thiếu nước, hoảng loạn. Trương Cáp dồn sức tấn công phá tan quân Mã
Tắc. Cánh quân Mã Tắc bỏ chạy tán loạn. Nhai Đình thất thủ. Đại quân Thục không
thể tiến nữa, buộc phải lui về Hán Trung.
Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, La
Quan Trung viết: “Để giữ nghiêm quân pháp, Chư Cát Lượng hạ lệnh bắt giam Mã
Tắc vào ngục đợi ngày xử tử hình. Trước khi bị chém, Mã Tắc viết thư cho Gia
Cát Lượng, xin hãy nâng đỡ cho vợ con mình. Tướng sĩ nước Thục đều thương xót
ông. Khi bị chém, Mã Tắc mới 39 tuổi. Sau nầy, Chư Cát Lượng giữ lời hứa với Mã
Tắc vẫn trợ cấp cho gia đình Mã Tắc như lúc ông còn sống.” (Việc Khổng Minh cho
trợ cấp nuôi dưỡng vợ con của Mã Tắc chẳng khác nào hành vi của Tào Tháo. Sau
khi giết Dương Tu, Tào Tháo bèn cho cấp dưỡng nuôi nấng con cái của Dương Tu.
Mục đích là để cho người đời “thấy ta rất yêu mến họ nhưng buộc lòng phải giết
họ để răn đe hầu bảo vệ quân pháp.” Hành động của Khổng Minh, chỉ xảy ra ở hạng
người ngụy quân tử, luôn giả nhân, giả nghĩa, để che dấu dã tâm.)
Sau khi Mã Tắc chết rồi,
Tưởng Uyển thắc mắc hỏi Chư Cát Lượng: “Lẽ ra nên để Mã Tắc sống để có ngày lập
công chuộc tội.” Chư Cát Lượng nói rằng, “Bản thân ta cũng rất thương xót Mã
Tắc, nhưng vì giữ nghiêm mệnh lệnh nên phải thực thi.” Khổng Minh, nói: Giết Mã
Tắc là để giữ nghiêm mệnh lệnh, mà cái mệnh lệnh “làm không đúng sẽ bị tử
hình”, Khổng Minh không công bố cho bất cứ người nào trong cuộc chiến đó biết.
Điều nầy, chứng tỏ Khổng Minh đã có ý định giết Mã Tắc từ trước.
Về việc Mã Tắc bị xử tử, sử
gia Tập Tạc Xỉ không đồng tình với Chư Cát Lượng. Ông dẫn trường hợp vua nước
Tấn không giết tướng Tuân Lâm Phủ khi bại trận, nên về sau có ích cho nước. Còn
Sở Thành vương không biết tài năng của Thành Đắc Thần vì một trận thua mà xử
tử, nên sau nầy thất bại.
Sau đó Tập Tạc Xỉ phân tích
thêm: “Nước Thục hẻo lãnh một phương, nhân tài vốn ít hơn nước khác mà lại giết
kẻ tuấn kiệt, coi minh pháp quan trọng hơn nhân tài… muốn thành đại nghiệp há
chẳng phải rất khó sao? Huống hồ Lưu Bị vốn đã nói rằng Mã Tắc không nên trọng
dụng, Chư Cát Lượng không nghe vẫn dùng ông, bản thân điều này đã cho thấy Mã
Tắc là nhân tài không thể xếp xó, không thể khinh sát.”
Đồng thời, Tập Tạc Xỉ phê
phán: “Chư Cát Lượng là người điều khiển thiên hạ mà không lượng tài tiết kiệm,
trái lời răn của minh chủ, quyết đoán sai lầm, đặt người sai vị trí, giết người
tài ba, hữu ích.”
Qua lời của Tập Tạc Xỉ, chứng
minh cho ta thấy Khổng Minh giết Mã Tắc chỉ vì muốn bảo vệ danh vọng và quyền
lực của y.
Và căn cứ theo lời của Khổng
Minh trả lời Tưởng Uyển (trên đây): “Bản thân ta cũng rất thương xót Mã Tắc
nhưng vì giữ nghiêm mệnh lệnh nên phải thực thi.”
Thực ra, lời nói nầy chứng
minh họ Khổng chỉ là kẻ ngụy quân tử, hoàn toàn giả dối để che đậy lòng dạ hiểm
độc của kẻ giả nhân, giả nghĩa, hầu che dấu dã tâm. Đã thương tại sao giết?
Không còn cách nào khác sao? Còn cho rằng giết để giữ nghiêm quân lệnh thì đó
chỉ là cái cớ trong ý đồ thực hiện dã tâm cùng tham vọng chánh trị của Khổng
Minh.
Trong khi ngay bản thân Khổng
Minh Chư Cát Lượng, cũng đã trái lệnh Vua, khi Lưu Bị răn đe Khổng Minh không nên
dùng Mã Tắc. Lưu Bị trước khi mất (223) khuyên Gia Cát Lượng “... không nên
trọng dụng Mã Tắc vì ông (Mã Tắc) là người hay cường ngôn” (nói quá trớn).
Nhà vua (Lưu Bị) đã nói
trước. Khổng Minh đã trái lệnh vua, còn bất chấp lời khuyên can của các hạ tướng
“là nên dùng mãnh tướng Ngụy Diên hoặc Ngô Ý để chống Trường Cáp, vì họ đã dày
dạn kinh nghiệm trận mạc.” Rồi tự dùng Mã Tắc theo ý ông ta.
Việc dùng một kẻ chưa có kinh
nghiệm chiến trường như Mã Tắc, vô hình trung Khổng Minh đã gián tiếp qua tay
Mã Tắc đã làm tan rã gần hai mươi vạn quân Thục bởi tay Trương Cáp giết chết.
Thử hỏi, tại sao Khổng Minh không thấy được cái lỗi nầy của y?
Vì vậy, sau cái chết của Mã
Tắc, Nhà Sử Học Tập Tạc Xỉ phê phán và Tưởng Uyển đã “chất vấn” Khổng Minh như
trên, ta có thể hiểu Tạp Tạc Xỉ và Tưởng Uyển đã biết rất rõ lòng dạ sâu hiểm
của Khổng Minh trong việc ông ta giết Mã Tắc!
Khổng Minh e ngại Mã Tắc, vì
biết Mã Tắc là kẻ tài ba xuất chúng, lại trẻ tuổi, đường tương lai sẽ xán lạn
hơn, rất dễ dàng thăng tiến trên đường danh vọng, trong tương lai có thể sẽ lấn
át quyền lực và làm giảm địa vị, danh vọng, uy quyền của Chư Cát Lượng, cho
nên, nhân dịp Mã Tắc thi hành sai quân lệnh bèn giết trước để giữ thế đứng
chánh trị cho bản thân y.
Suy cho cùng cái tội của
Khổng Minh bất chấp lời khuyên của vua không nghe lời khuyên của Lưu Bị, còn
nặng gấp trăm ngàn lần hơn khi so sánh với tội của Mã Tắc chỉ vi phạm quân lệnh
của quân sư. Trong khi về chiến thuật, thì tướng ngoài trận địa đôi khi cũng
không thể tuân hành lệnh vua.
Trong đời sống của con người,
chúng ta vẫn thấy có những kẻ bề ngoài cố tình tạo dáng đạo mạo, tập tành cốt
cách của nhà mô phạm, nói năng chắt lọc, chừng mực, nghiêm chỉnh, đôi khi còn
một kính hai thưa, nhưng trong lòng khát khao danh vọng, chất chứa gươm đao
chẳng phải là ít!
Cái chết của Mã Tắc, cách
hành xử của Khổng Minh, chẳng những cho ta chiêm nghiệm, hiểu biết thêm lòng dạ
của con người... Về phần Khổng Minh, hắn ta rất hoàn chỉnh trong vai trò của
ngụy quân tử.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét