ĐÀO VĂN BÌNH
H.
-Hải cảng trở thành cảng biển
cũng
giống như phi cảng trở thành cảng bay.
-Hạm
đội trở thành đội tàu. Thí dụ: Hạm Đội
7 trở thành Đội Tàu Số 7
-Hầm
trú ẩn trở thành Bunker/Boong-ke
-Hàng
đầu, đứng đầu trở thành top. Chữ này thấy nhan
nhản trên các diễn đàn ở hải ngoại.
-Hành
động, chuyển động (move) trở thành động
thái trong khi tử điển Việt Nam trước và sau 1975 không hề có hai chữ
“động thái”. Đây là sự bịa đặt chữ nghĩa một cách bát nháo.
-Hành
trình khám phá các vụ án trở thành hành
trình phá án tức bác bỏ bản án của tòa dưới. Lên kế hoạch, lập kế hoạch truy bắt/truy
nã hung thủ/bắt trọn ổ trở thành lên kế hoạch phá án.
-Hào
hứng, hấp dẫn, sôi nổi (cuộc đua, trận đá bóng, trình diễn
văn nghệ…) trở thành kịch tính. Rồi giá vàng lên xuống
cũng “kịch tính”. Thậm chí vụ thảm sát tại tòa soạn báo hí họa Charlie Hebdo
(Paris) cũng “đầy kịch tính”. Có lẽ phải cho ông nào sáng chế ra hai chữ “kịch
tính” này vào bệnh viện tâm thần để chữa trị mới được.
-Hay
đẹp trở thành kinh điển. Một trận đấu hay, đẹp trở
thành một trận đấu kinh điển. Đau đầu quá!
-Hết
hàng trở thành cháy hàng. Hết vé trở thành cháy vé. Hết phòng trở
thành
cháy phòng, trình diễn hết mình trở thành cháy hết mình. Hết săng
trở thành cháy săng! Đúng là loại ngôn ngữ đường phố và bát nháo quá đỗi.
Cả nước có mấy chục ngàn ông “Tiến Sĩ”, bao nhiêu viện ngôn ngữ, bao giải thưởng
văn chương….mà không thấy ai lên tiếng về vấn đề này.
-Hiện
ra (trên màn ảnh) trở thành hiển thị. Tôi không hiểu
sao trong nước thích dùng tiếng Tàu, trong khi bao tiếng thuần Việt lại không
dùng.
-Hiểu
ngầm trở thành mặc định. Sao dùng chữ khó quá? Giới
bình dân chịu sao thấu? Hơn thế nữa, từ điển Việt Nam trước và sau 1975, kể cả Hán-Việt Từ Điển của Đào Duy Anh cũng
không có hai chữ “mặc định”.
-Hình
ảnh lấy ra từ máy thu hình biến thành hình ảnh
chiết
xuất từ camera. Sao dùng chữ lai căng và khó khăn quá vậy? Hai chữ “chiết
xuất” được dùng cho phòng thí nghiệm.
-Hình
dáng trở thành ngoại hình. Có hình dáng đẹp trở
thành
Có ngoại hình đẹp. Hình như những người sáng chế ra những từ ngữ lạ
lùng này không được đi học từ thuở nhỏ hoặc không hề đọc văn chương, sách truyện
Việt Nam.
-Hỗ
tương, qua lại, lẫn nhau trở thành tương
tác. Thích dùng chữ cầu kỳ, khó khăn trong khi kiến thức chẳng bao
nhiêu.
-Hồi
đáp, trả lời trở thành phản hồi. Phản là quay ngược, hồi
là lui lại, trả lại. Hai chữ này ghép với nhau không hề có nghĩa là trả lời
hay hồi
đáp mà chỉ là dùng chữ kiểu cọ, hoàn toàn vô nghĩa.
-Hợp
chất, vật liệu tổng hợp/hỗn hợp trở thành composite
-Hợp
tác,người hùn hạp, cùng đứng chung, cùng làm ăn buôn bán với mình
(partner) trở thành đối tác (làm việc đối nghịch
với mình) như đối phương, đối thủ, đối đầu, đối thoại, đối lập, đối kháng...
Từ điển Việt Nam trước và sau 1975 đều không có hai chữ “đối tác”. Tự Điển
Hán-Việt của Đào Duy Anh cũng không có hai chữ “đối tác”. Chỉ vì ngu dốt tiếng
Việt cho nên đã dịch “partner” thành “đối tác”.
-Hư
hỏng, xập xệ, đã cũ, không được như trước nữa
trở thành xuống cấp. Thí dụ: Bộ ngực bà ta đã xệ, không còn căng nữa
trở thành bộ ngực bà ta đã xuống cấp. (Nếu dùng hai chữ này trong các màn
diễu cợt, chọc cười khán gỉa hoặc chuyện tiếu lâm thì được)
-Huy
hiệu
trở
thành logo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét