“CẢI TIẾN CHỮ QUỐC NGỮ”.
“CẢI TIẾN CHỮ QUỐC NGỮ”.
Nguyễn Xuân Quang.
Tôi chỉ xin chú trọng góp ý bàn về cách thức cải tiến chữ Quốc ngữ của tác giả Bùi Hiền.
Chữ Quốc ngữ nằm trong hệ thống mẫu tự ABC Latin nhưng rất đặc biệt ‘không giống ai’ vì mang tính đặc thù, sắc thái Việt. Các nhà truyền giáo Tây phương trong đó nhân vật trọng yếu là Alexandre de Rhodes đã làm ra một hệ thống chữ ABC riêng cho Việt Nam dựa vào các qui luật, nguyên tắc dùng ghi âm tiếng nói của hệ thống chữ viết ABC trong đại tộc Latin đã sẵn có. Tiếng Việt có 6 thanh điệu, các nhà truyền giáo đã dùng chữ Latin để ghi âm tiếng Việt nên chữ Quốc ngữ có 5 dấu giọng thể hiện các thanh điệu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Ngoài ra còn có dấu thể hiện các âm đọc của riêng từng mỗi mẫu tự có những âm khác nhau như a có ă, â; o có ô ơ; u có ư và d có đ. Nhờ vậy, chữ Quốc ngữ ghi được hầu hết ngữ âm tiếng Việt. Do đó chữ Quốc ngữ mang tính chính xác rất cao so với các chữ viết khác của thế giới và là chữ dễ phổ biến, dễ học.
Như thế một sự cải tiến lý tưởng chữ Quốc ngữ là sự một cải tiến nào đó phải phù hợp với các qui luật ngôn ngữ Việt và Latin thế giới, phù hợp với tiếng Việt, hồn Việt, tâm Việt, văn hóa Việt, sắc thái Việt.
Tiếng Việt có những âm riêng, nhất là thay đổi theo từng địa phương, từng vùng rất đặc thù. Nếu bỏ các âm này thì chữ Việt không còn mang sắc thái Việt nữa. Chữ Quốc ngữ không còn là Chữ (của cả) Nước Việt nữa.
Cải Tiến Chữ Quốc Ngữ của Tác Giả Bùi Hiền.
Trước hết tác giả Bùi Hiền vẫn giữ hệ thống mẫu tự ABC. Như thế thì cải tiến của ông bắt buộc phải dựa theo các qui luật ngôn ngữ, phát âm của hệ thống chữ viết ABC Việt và Latin (đã có từ hàng ngàn năm nay).
Tôi chưa được đọc toàn bộ tài liệu giải thích cách Cải Tiến Chữ Quốc Ngữ của tác giả Bùi Hiền, chỉ nhặt được một số dữ kiện trên mạng mà thôi.
Xin tóm tắt lại, theo tác giả Bùi Hiền:
‘Tôi đề xuất bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành và bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z. Bên cạnh đó, thay đổi giá trị âm vị của 11 chữ cái hiện có trong bảng trên, cụ thể:
C = Ch, Tr; D = Đ; G = G, Gh; F = Ph; K = C, Q, K; Q = Ng, Ngh; R = R; S = S; X = Kh; W =Th; Z = d, gi, r. Vì âm “nhờ” (nh) chưa có kí tự mới thay thế nên tạm thời dùng kí tự ghép “n’” để biểu đạt’.
Tác giả Bùi Hiền cho rằng cách cải tiến chữ Quốc ngữ của ông nhằm mục đích ‘giản tiện, dễ nhớ, dễ sử dụng, tiết kiệm thời gian, vật tư…giúp giảm tiền bạc xuống 8%’ trong một trang giấy’.
Bây giờ ta hãy đi vào chi tiết cải tiến của từng chữ cái một:
-C = Ch, Tr.
Tác giả Bùi Hiền dùng C thay cả cho Ch và Tr, loại bỏ chữ Ch, Tr. Chữ Hán không có âm Tr.
Ta thấy âm chữ Hán hiện đại chỉ có âm Ch. Âm này bằng âm Hán Việt Tr. Như:
長 /Cháng/ = Hán Việt Trường, dài.
悵 /Chàng/ = Hán Việt Trướng, buồn bã.
池 /Chí/ Hán Việt Trì, ao.
Chữ cái C, Ch, Tr ta có ba âm khác nhau. Ví dụ: C trong Co (co quắp), Ch trong Cho (cho quà) và Tr trong Tro (tro than). Bây giờ thay C cho Ch và Tr và chỉ còn một chữ Co thì dựa vào mấu hốt nào để biết ngay tức khắc khi nào Co là Co quắp, khi nào Co là Cho, khi nào Co là Tro. Khi nhìn C, Ch và Tr là nhận biết ngay lập tức phát âm như thế nào và có nghĩa ra sao. Rất giản dị và chính xác. Còn C= Ch = Tr rất phức tạp. Ta rơi vào trường hợp một âm có nhiều nghĩa. Phải vận dụng đầu óc tìm tòi. Zắc Zối cuộc đời.
Một chữ ghi ba âm không còn đơn giản, trong sáng nữa.
Tiếng Việt mất hai âm Ch, Tr và mất địa phương tính, vùng tính.
Tác giả Bùi Hiền theo âm chữ Hán không có âm Tr nên bỏ Tr tức Hán hóa chữ Việt.
-D = Z
Ví dụ Dục thành Zụk, Giáo Dục thành Giáo Zụk. Trong mẫu tự ABC Việt ngữ hiện nay không có Z.
Trường hợp này tác giả Bùi Hiền dựa theo cách pinyin Trung Quốc.
Ông Hồ Chí Minh cũng đã dùng chữ Z thay cho chữ D, ông Hồ viết Nhân Dân thành Nhân Zân.
Ở đây nói lơ lớ ngọng ba Tầu.
Tác giả Bùi Hiền muốn Hán hóa chữ và tiếng Việt. Người Việt sẽ nói lơ lớ hay ngọng như người Trung Quốc nói tiếng Việt hiện nay.
-Đ = D.
‘Tôi đề xuất bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành’.
Tác giả Bùi Hiền cũng theo pinyin Trung Quốc bỏ chữ đ này. Chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại không có chữ đ.
Như thế nếu bỏ đi chỉ còn d thay cho đ ta lại phải chọn phát âm lúc thì âm đ lúc thì âm d. Ví dụ Za (cây) người Bắc phải chọn phát âm cây Đa, người Trung, Nam chọn phát âm cây Da.
Trường hợp không có đ này cũng giống như trong mẫu tự Anh, Pháp, Ý… Các tộc này thường phát âm D là Đ như Anh ngữ Day phát âm là /đây/. Còn D có khi dùng J thay thế như xe Jeep phát âm là /Dip/, /Zip/ hoặc /Dep/, /Zep/.
Theo tôi chữ Đ, đ là một nét đặc thù trong chữ Việt. Hầu hết các mẫu tự ABC của dòng Latin không có chữ Đ, ngoại trừ thấy rất ít trong chữ ABC của một vài nước như trong mẫu tự Bồ Đào Nha. Các nhà làm ra chữ Quốc ngữ đã lấy chữ Đ, đ này của Bồ Đào Nha đem vào tiếng Việt. Vì sao? Vì mục đích chính là phân biệt ngay khi nào thì d phát âm theo d khi nào thì phát âm theo đ không phải bận tậm suy nghĩ gì như khi chỉ có một chữ d thôi, làm cho tiếng Việt dễ học, đơn giản, nói thế nào thì có thể viết đúng như thế và ngược lại viết thế nào thì có thể đọc, nói đúng như thế.
Đây là một chữ cái mang tính đặc thù Việt và hữu dụng giúp chữ quốc ngữ chính xác hơn, dễ đọc, dễ học hơn các chữ viết khác không có chữ đ. Không nên bỏ đi.
-G = G = Gh.
Biến âm này có trong Việt ngữ. Ví dụ gành = ghềnh; gác = ghếch; gảnh = ghểnh (đánh cờ)…
Chữ Hán không có Gh nên ông bỏ Gh đi.
-F = Ph.
Tác giả Bùi Hiền muốn đổi f = ph theo pinyin Trung Quốc. Chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại không có Ph chỉ có F nên ông bỏ Ph dùng F. Ông muốn Hán hóa chữ Việt (hơn là Tây phương hóa).
Thật ra chữ Ph tương đương với f là chuyện ai cũng đã biết. Trước đây đã có người đề nghị thay ph bằng f. Điểm này không trở ngại gì mà tiết kiệm được một chữ h. Tuy nhiên Ph cũng là một nét đặc thù của chữ viết Việt Nam nên giữ lại dù có tốn kém tí công tí mực. Đây là lý do những người muốn đổi ph = f trong đó có ông Hồ Chí Minh đã thất bại (bây giờ dùng chính sách độc tài đảng trị ép buộc thì sẽ thành công ).
-K = C = Q = K.
C = K không trở ngại gì. Một số quốc gia phương Tây dùng K thay cho C. Ông Hồ Chí Minh cũng đã dùng chữ K thay cho chữ C, ông Hồ viết Kách Mạng thay vì Cách Mạng.
Nhưng K= Q là chuyển âm khá phổ thông giữa chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại và Hán Việt ví dụ như /qílin/ = kỳ lân.
Tác giả Bùi Hiền cho C = Q = K là dựa theo âm K Hán ngữ.
-M.
Giữ nguyên như cũ.
-N.
Giữ nguyên như cũ.
-Ng = Ngh = Q.
.Ng = Q.
Tiếng Việt = Tiếq Việt.
Chuyển âm Ng = Q này không thấy có trong tiếng Việt. Nhưng có biến âm Ng = Ngh = K. ví dụ như Mường ngữ K = Việt ngữ Ng: kuôi, kom, kươi = người, kơng, keng = ngẩng, ken = nghẹn… (Diệu Tần, Sơ Lược Về Ngôn Ngữ, San Jose, CA 2.000).
Theo Trung Quốc tác giả Bùi Hiền thay K = Q (xem dưới) nên Ng = K = Q.
. Ngh = Q.
Chuyển âm này thấy qua trung gian n không trực tiếp ví dụ con nghê và con kì.
麑 /ní/, nghê.
1: Con hươu con.
2: Cùng nghĩa với chữ nghê 猊. Toan nghê 狻麑 là con sư sử.
Kì lân 麒麟 ngày xưa gọi là giống thú nhân đức. Con đực gọi là kì, con cái gọi là lân (http://www.vietnamtudien.org/thieuchuu/).
Việt ngữ gọi con nghê là con kì ( thường nói chung là kì lân), vì nghê và kì đều phát âm /ní/ theo phát âm Hán ngữ hiện đại. Ta có nghê = kì tức Ngh = K.
Biến âm này có trong Việt ngữ như nghều = kều (cao); nghẹt = kẹt (mũi); nghịt = kịt…
Như thế Ng = Ngh = Q cũng dây mơ rễ mái với Hán ngữ.
-Nh = N’.
Tác giả Bùi Hiền cho rằng: ‘Vì âm “nhờ” (nh) chưa có kí tự mới thay thế nên trong bản trên tạm thời dùng kí tự ghép N’ để biểu đạt’.
Tôi đề nghị có thể lấy mẫu tự N có dấu ngã ở trên Ñ, ñ của mẫu tự ABC Tây Ban Nha: Ñ = Nh. Mẫu tự này đã có sẵn không làm mọi người thắc mắc hay khó hiểu. Ñ coi như một chữ đơn nên thảo chương (program) trong vi tính chỉ phải đánh chữ có một lần, còn dùng N’ như của tác giả Bùi Hiền thì phải đánh chữ hai lần. Tốn thì giờ và tốn mực hơn.
-Q = Ng, Ngh.
Đã nói ở trên.
R = R.
Vẫn giữ nguyên.
-X = Kh.
Tại sao tác giả Bùi Hiền lại cho X = Kh nhỉ? Eureka! Tôi đã tìm ra! Ông đã ‘cuỗm’ mẫu tự X = Kh này của chữ viết Cyrillic, ngày nay dùng ở Nga và Đông Âu.
Chữ Cyrillic phát triển ra từ chữ Hy Lạp vào khoảng năm 900 (Sau Dương Lịch) bởi St Cyril và St Methodius. Chữ X của Hy Lạp phát âm là Chi nên các vị Thánh này biến Chi thành Kh (Ch = Kh = X).
Tác giả Bùi Hiền lại muốn Nga hóa chữ Quốc ngữ, Nga hóa người Việt nói ngọng theo giọng Nga?
Ông quả thật là giỏi cóp nhặt của Tầu, của Nga để làm ra chữ Quốc ngữ mới.
-W = Th.
Sự thay thế này ai cũng cho là quái lạ. Nhưng với tôi chẳng lạ chút nào! Đây là cách phát âm w = th thấy rõ trong tiếng Gwóngdōngwá = 廣東話 = Quảng Đông thoại (Wikipedia) ví dụ như tìnwá = điện thoại.
Rõ như ban ngày wá = thoại tức ta có w = th.
Tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây nguyên trước kia là đất của Bách Việt. Ngày nay còn gọi hai tỉnh này là Lưỡng Việt.
Tác giả Bùi Hiền dùng chuyển âm này làm phương tiện hữu hiệu để Hán hóa chữ Việt, người Việt qua Bách Việt?
–Z = d, gi, r.
-Z = d.
Đã nói ở trên.
-Z= gi.
Alexandre de Rhodes dùng Gi thay cho J trong chữ Việt cổ ví dụ như Jà = già; jó = gió; jờ = giờ. . . (Từ Điển Việt Bồ La, Alexandre de Rhodes). Nếu tác giả Bùi Hiền dùng Z = gi mà còn dùng J nữa sẽ bị các âm chồng chéo lên nhau.
Chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại không có âm Gi. Việt ngữ có biến âm với gi = d tùy theo vùng miền như dàn = giàn; dăng = giăng; duộc = giuộc (thuộc, cái múc dầu)… Tác giả Bùi Hiền lấy âm Hà Nội làm chuẩn chắc chọn Gi = D nên mới có Gi = D = Z.
Chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại không có âm Gi nên ông lấy Z của Hán ngữ thay cho Gi Việt ngữ.
-Z = r.
Việt ngữ cũng có biến âm d = r như dắn = rắn; dàn = ràn; dựt = rựt… Tác giả Bùi Hiền lấy âm Hà Nội làm chuẩn chắc chọn D = r nên mới có Z= D = r. Người Trung Quốc thường phát âm r là nh như /rén/ là Hán Việt nhân (người), /rì/ là Hán Việt nhật (ngày), /ròu/ là Hán Việt nhục (thịt)… nhưng họa hoằn cũng phát âm r là D như 容 /róng/ là Hán Việt dong, dung (bao dong, bao dung).
Như thế ta có Z = D = r.
Như đã nói ở trên dùng Z là theo ghi âm chữ Hán.
Cũng nên nói thêm là ở đây Z= r (chữ r thường không viết hoa) như thế phải phân biệt Z (= r) với R viết hoa. Thật là phiền phức.
-‘Bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z’.
Tác giả Bùi Hiền: “bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z” mới nhìn qua chúng ta và nhất là người Tây phương, lầm tưởng là Tây phương hóa chữ Việt, nhưng thật ra là Hán hóa. Những chữ này đều dùng trong pinyin của Trung Quốc. Ông cải tiến chữ Quốc ngữ theo cách pinyin Trung Quốc.
NHỮNG TAI HỌA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét