GIAI THOẠI LÀNG NHO
Nhân vật : PHẠM SƯ MẠNH
( 1300- ?)
Lê Hoàng
Sưu tầm, tham khảo
( Giai thoại làng nho )
Sinh vào đời nhà Trần , khoảng năm 1300 , tự là Nghĩa Phu , hiệu là Úy Trai , người làng Hiệp Thạch , huyện Hiệp Sơn , nay còn gọi là phủ Kinh Môn , Tỉnh Hải Dương ( Trước kia , bây giò đổi lại nữa rồi ) .
Thuở nhỏ theo học Chu Văn An thường lấy Động Kính Chủ làm nơi đọc sách , sau đổ tiến sĩ , làm đến chức Hành Khiển ( Thượng Thư ) . Ông có lần cầm đấu một ph1i bộ sang sứ Trung Hoa . Người Tàu thấy tên ông có vẻ khác thường , hỏi ông , ông mới trả lời : Vì thán phục Mạnh Tử nên mới lấy tên là Sư Mạnh ( bắt chước thầy Mạnh ) . Do vậy họ ( người Tàu ) thách đố ông ám tả đủ 7 thiên sách Mạnh Tử . Ông viết không sai một chữ . cử tọa dều lấy làm kinh dị .. Có người muốn thử tài ông nên lấy tên trong sách mạnh Tử thành vế đối ra cho ông như sau :
- Lương huệ Vương mệnh Công Tôn Sửu , thỉnh Đằng văn ư Ly Lâu Thượng , tận tâm cáo tử độc vạn chương .
( Nghĩa : " Vua Lương Huệ Vương sai Công Tôn Sửu mời Đằng Văn ở trên lầu Ly Lâu , để hết lòng dạy con học hàng vạn bài ) .
Nguyên sách Mạnh Tử có 7 thiên là : Lương Huệ Vương, Công Tôn Sửu ,Đằng Văn, Ly Lâu , Tận Tâm, Cáo Tử, Vạn Chương .
Ông liền lấy tên những thiên sách Luận ngữ mà đối :
-Vệ Linh Công Sử Công dã tràng , Tế Thái Bá ư hương - đảng trung,tiên tiến lý nhân vũ bát dật .
( Nghĩa: Vệ Linh Công sai Dã Tràng tế Thái Bá ở trong hương đẳng ( đám trong làng) những người tiến lên múa điệu bát dật ) .
Luận ngữ có những thiên : Vệ Linh Công, Công Dã Tràng, Thái Bá, Hương đảng, Tiên Tiến, Lý Nhân, Bát dật .
****
Đến đời Dụ Tông ( 1341-1369) Ông lên chức " Hữu Thừa Tướng " coi luôn cả chính trị lẩn quân sự .
.
Khi qua núi Dương Nham gần làng ông , ông cảm hứng viết lên đá núi bài thơ sau này đuợc khắc đề ghi lại cả văn lẫn bút tích .
" Nguyên tác : " Hành dịch đăng gia sơn
Kiều thủ vạn trùng thiên
Đổ bằng nam minh ngoại
Tân nhật đông nhạc tiền
Yên phụ thiên nhất ác
Tượng đầu nhận cửu thiên
Tằng tằng Tử tiêu vân
Hội phóng An kỳ tiên
Hung hung Bạch đàng đào
Tưởng tượng Ngô vương thuyền "
Bản dịch ( cũ) : Duyệt binh lên núi nhà chơi
Ngảnh đầu : muôn đợt mây trời mênh mang !
Chim bằng bay tít biển Nam
Chầu vừng nhật,trái đông nham, đứng nhìn ...
Yên Sơn trời thấp muốn vin
Núi Đầu Voi vút chín nghìn nhận cao .
Tầng tầng mây phủ Tử Tiêu
An Kỳ Sinh , biết tìm theo chốn nào ?
Bạch Đằng cuồn cuộn sóng đào
Nhớ thuyền Ngô chúa ào ào chạy thua .
Lòng nhớ quê hương , không lúc nào nguôi , ông ngồi thuyền chơi trăng trên sông Nhị bâng khuâng ngoảnh mặt về làng Hiệp Thạch . Ngâm thơ :
Chu trung tức sự
Sĩ hoạn tam triều bị tỉnh quan
Thương đầu bạch phát vị hoàn sơn .
Mộng hương tọa đối Nhị Hà nguyệt
Trù trướng yên khê Hiệp Thạch gian .
Bản dịch : Ngồi thuyền tức sự
Ba triều đài tỉnh lạm ngôi quan
Đầu bạc chưa mua được chữ nhàn .
Bến Nhị trông trăng mơ chốn cũ
Sương mờ khe nước dạ bàng hoàng .
Hiện nay chưa có biết rỏ ông mất vào năm nào và hưởng thọ bao nhiêu tuổi ? Gia cảnh, vợ con tất cả đều chưa tìm ra bản ghi chú cụ thể .
(Còn tiếp )
Ngày mai : Trương Hán Siêu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét