Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Đôi Điều về Chữ Kệ

                     ĐÔI  ĐIỀU  VỀ  CHỮ    “ KỆ” TRONG KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO

                                                                                 


        Lời  nói đầu  :  Kính thưa qúy vị trưởng thượng , kính thưa quú vị  huynh trưởng  và các bạn hữu  xa gần . Tình cờ , tôi có đọc được một vài bài viết trên mạng  như trong  Có rất nhiều bài  bình luận đến  chữ “ Kệ “ trong  Phật  Giáo .Tuy nhiên, tôi cảm thấy có phần lệch lạc , khác với ý tưởng trong kinh điển và lời của đức Thế Tôn  giảng dạy . Hôm nay, tôi mạo muội viết thêm một lời  tham luận cùng với chư vị  huynh trưởng cùng bằng hữu xa gần , để nói rõ thêm  chữ “KỆ” trong kinh điển Phật Giáo . Nếu có điều gì không đúng , hoặc sai sót , kính xin quý vị chỉ giáo   hay cải chính giúp . Tôi hoàn toàn lắng nghe …
                                                                 Trân trọng ,
                                                              LÊ  HOÀNG


     Chương  I  : Kinh Pháp Cú là một trong 15  quyển  kinh thuôc   tiểu bộ kinh trong kinh tạng PaLi . Đây là một   quyển kinh Phật Giáo , rất phổ thông và đã được dịch ra  nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới .
  Nhiều tác giả coi bộ kinh này  như là “ Thánh Thư “ của đạo Phật .
Pháp , có nghĩa là: Chân lý, đạo lý,, giáo lý. CÚ : là lời nói , câu Kệ . “Pháp Cú” : là những câu nói về chánh pháp . Những lời dạy của đức Phật . Nên, kinh Pháp Cú còn được gọi là Kinh “ Lời Vàng” .
     Kinh Pháp Cú là một tập hợp , những câu dạy ngắn, gọn nhưng đầy ý nghĩa  của đức Phật Thích  Ca  trong ba trăm trường họp giáo hóa khác nhau . Những câu này do chính đức Phật , khi còn tại thế nói ra trong suốt gần nữa thế kỷ  thuyết pháp của ngài .Các câu này về sau đuợc các vị đại đệ tử của ngài , sắp xếp lại thành 423 bài  gọi là “ KỆ” , chia làm 26 phẩm và đã tụng đọc trong đại hội kết tập kinh điển , lần đầu tiên , sau khi đức Phật nhập diệt .
       Kinh Pháp Cú tóm thâu  tinh hoa giáo lý của Đức Phật . Đọc những bài kệ trong kinh này , người  đọc cảm thấy như  chính mình được trực tiếp nghe lời Phât dạy từ hơn 2500 năm trước  vọng lại .. Mỗi bài kệ có thể xem  chứa đựng một cách súc tích và trung thành nhất những lời dạy, giáo lý căn bản  nguyên thuỷ của đức Phật .
    Nhiều học giả quốc tế , chuyên về tôn giáo và thần học đã từng nói đại ý rằng “ Kinh điển của Phật Giáo , thật quả là nhiều . nếu giả dụ , một ngày nào đó , tất cả các kinh điển  bị thất lạc  hoặc bị thiêu huỷ , chỉ cần giữ lại bộ kinh Pháp Cú không thôi , thì cũng đủ cho chúng ta tạm coi như đủ , những gì cần thiết , để noi theo  giáo lý của đức Phật . Một trong những  bài Kệ  của đức Phật mà sau này rất nhiều học giả và c ác vị chân tu hoặc người đời  đọc đến suy luận và bình luận rất nhiều .
-       Thiên thượng, thiên ha,
-        Duy ngã đôc tôn
-       Nhất thiết thế gian
-       Sinh lão bệnh tử .

      Một bài kệ  phải it nhất là đủ 4 câu  mới gọi là bài KỆ hoàn chỉnh đầy đủ. Nếu ai đó chỉ đọc 2 câu đầu mà “quên” 2 câu sau  để bình luận thì hoàn toàn tối nghĩa và lại càng sai ý của đúc Phật dạy .
      Trong kinh Pháp Cú dùng để dạy cho hai giới :  Xuất  gia  và Tại gia .Lẻ dĩ  nhiên hai lối dạy này ở hang xuất gia không bao hàm cho hàng  tại gia . Cho nên , kinh Pháp Cú là kinh điển Phật Giáo  thường chỉ nêu ra chân lý  cho toàn thể  nhân loại chứ không mang tính chất giáo điều .
    Đức Phật   đã từng nói rằng : “ Ngài chỉ là người hướng dẩn , chỉ nẽo , chứ ngài không thể “ cứu rỗi” hay tu thay cho ai được cả . Tất cả hàm chứa trong câu : … Các ngươi hảy nhìn theo ngón tay ta thì sẽ thấy trăng , chứ ngón tay ta không phải là trăng “Tức là tự mình tu để giaỉ thoát  cho chính mình .
 Người đời sau mới chuyển thể  các bài kệ thành những loại thơ  lục bát hay  tự do trong kinh Pháp Cú để cho người thường dể hiểu hơn mà thôi ‘  KỆ không phải là thơ . Đức Phật cũng không phải là một thi sĩ   để làm thơ như một vài  vị gắn cho đức Phật làm thơ hay giảng THƠ . Đó là một điều NGỘ NHẬN không thể chấp nhân được.
         Thực chất các soạn giả , muốn các Phật Tử  hay đại chúng đọc thơ này để dể hiểu hơn là đọc bài KỆ mà thôi .
     Tôi xin minh chứng một vài bài sau đây :
     
       1/       NHẬN LỖI  MÌNH

               -“ Chúng sinh thường chẳng có thành thật đâu
                    Cho rằng mình đúng trước sau
                    Lỗi lầm nếu có đổ mau cho người
                    Khi ta chối lỗi than ôi !
                    Chính là lỗi lớn nhất đời của ta !

       2/    NHU   HÒA :

                  “ Răng thời rất cứng, lưỡi ta mềm
                     Cuối đời răng sẽ rụng liền
                     Trong khi lưởi  vẫn  còn nguyên cơ mà
                     Nên cần mềm mõng   NHU HÒA
                     Đường TU tiến bộ đời ta lâu dài !

       3/ NHẨN NHỤC

                    Nhẩn thời song lặng từng yên bình
                    Đồng thời vạn sự an lành
                    Nhẩn là dùng trí tuệ  của mình mà thôi
                    Để mà hóa giải việc đời
                    Chuyện to hóa nhỏ, nhỏ thời thành không .
     
        4/            THẤU HIỂU

                   Khi ta hiểu rõ nguồn đầu đuôi
                   Sai lầm   sẽ chẳng mắc rồi
                    Sẽ mau thông cảm hết thời thị phi
                   Nghi ngờ tranh chấp tiêu đi
                   Kề vai chung sức thực thi hòa bình .

        5/   BUÔNG BỎ

                 Cuộc đời như một tuí hành trang thôi
                  Lúc cần thì vác trên người
                  Không cần thì đặt xuống nơi bên lề
                  Đừng nên cố vác nặng nề
                  Đời người có hạn,có gì dài lâu
                  Buông xong tự tại biết bao
                  Hòa cùng nhân thế ai nào trách chê .

          6/       CẢM  ĐỘNG

                  Với tâm Bồ Tát, Bồ Đề thương yêu
                  Vui vì ưu điểm người nêu
                   Buồn khi người gặp phải điều không may
                  Cõi lòng rung động đẹp thay
                  Dạt dào tình cảm , tràn đầy từ tâm
                 

           7/     SINH  TỒN

                  Giữ cho mạnh khoẻ mãi luôn  thân mình
                  Bản thân được lợi đã đành
                  Khiến cho bè bạn gia đình yên tâm
                  Giữ cho thân thể trường tồn
                  Cũng là hiểu với người thân của mình .

 Chương I I  : 
                      Trong kinh A Hàm , lúc đản sanh . Đức Phật đã nói một bài KỆ bốn câu như sau :
                           Thiên thượng, thiên hạ
                            Duy ngã độc tôn
                            Nhất thiết thế gian
                            Sanh lão bệnh tử .

Nghĩa là :  Nếu hiểu theo một cách nhầm lẫn : Trên trời, dưới trời . Ta là trên hết . Tất cả thế gian : Sanh, Già , Bệnh , Tử .
     Người ngoại đạo hoặc chưa học Pháp  thường hay hiểu sai như thế . Có nghĩa là hiểu sai chữ “ NGÔ  cho là  Ngã là TA ( le moi) hoặc ám chỉ đức Phật  cho rằng chỉ có đức Phật là đấng tôn sùng  nhất , vì ngài đã thoát vòng sinh tử luân hồi . Còn tất cả thế gian còn bị trong luân hồi sinh tử  khống chế . Nghĩ như thế tức là dành cho đức Phật một sự độc đoán , độc tôn . Thật là tội nghiệp cho những ai có ý nghĩ như thế và cũng  đem đến cái suy nghĩ  vu vạ cho đức Phật quá đáng .
    Khi nói “ DUY NGÃ ĐỘC TÔN “ : Không có nghĩa là người quá tự phụ , không tự xưng mình là trên hết , mà đức Phật muốn nói  đến cái  NGÃ ở tầng cấp cao hơn.
     Phàm những kẻ không phải là phật tử , hoặc không am hiểu đạo Phật nhiều thì cứ nghĩ rằng  bài kệ đó đồng nghĩa với một vị chúa tể trên trời là ông PHẠM THIÊN chúa của bản thân- thường trụ- cho nên bị MÊ CHẤP của bản ngã thuộc về mình .
    Như ông Phạm Thiên là cái ĐẠI NGà là duy nhất (độc tôn) có quyền định đoạt đời sống của chúng sinh ? Cai quản con người . Thật ra cái NGà đó là VỌNG NGà . Thân này chỉ là giả hợp . Có DUYÊN thì TỤ, hết duyện thì TAN . Như  TCS  trong nhạc phẩm  CÁT BỤi :  cũng nhằm trong ý nghĩa đó : “ Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi ….   Một mai tôi trở thành CÁT BỤI ….. “ .
     Đức Phật thì không , ngài nói đến CHƠN NGÃ . Tức là cái NGÃ bất sanh, bất diệt , cái ngã tự chủ, tự giác , tự ngộ việc tu hành  đắc đạo  ngự phục được : Tham, sân, si tiến đến CHÚNG TA ( DUY NGÃ)  chứ không phải đức Phật định đoạt chúng sanh .
      Mặt khác chúng ta có thể hiểu câu “ Thiên thượng thiên ha,duy ngã độc tôn ở một ý nghĩa bình giảng khác như  sau : Câu nói nhằm mang lại lợi ích cho người nghe , cho người thức tỉnh tự giác , tự ngộ về giá trị làm người . Cho nên ta hiểu thêm rằng :” Trên trời , dưới trời này, đời sống của con ngưòi  có giá trị tự mình định đoạt . Hảy tự tìm hiểu giá trị của mình , chứ đừng tìm hiểu giá trị nào nằm ngoài con người của mình , trước nhất là  cần tìm giá trị nơi chính mình , chứ đừng tìm hiểu giá trị nằm ngoài con người . Khi mình đã tìm thấy giá trị trí huệ nơi chính mình , thì hảy đem giá trị ấy để ứng dụng vào cuộc sống hiện hữu . Nếu chúng ta không hiểu được giá trị  trí huệ sẳn có của mình , thì mình sẽ bị lầm lạc trong cuộc sống đời thường . Đó là cái “VỌNG NGÔ từ bản thân mà có .
                 Hiểu được ý nghĩa trên, chúng ta không cần tự hạ thấp gíá trị  con người sinh ra trong cuộc sống  mà cuộc sống đó do chính mình  định đoạt , chứ không phải do thần linh nào có thể định đoạt  cho chúng ta được cả .
            Cho nên nhất thời đời sống thường trụ của con người thế gian hiện tại vẫn trầm  lụy trong :” Sinh .Lão, Bệnh Tử  chính là vậy .


                                                                                     LÊ HOÀNG .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét