Bài 1 & 2
TÔI ĐẾN VỚI PHẬT
Tạp Bút
MANG VIÊN LONG
Tôi đến với Phật do những gặp
gỡ tình cờ - mà sau nầy ngẫm lại, tôi gọi là “duyên ngẫu nhiên mầu nhiệm”!
Tôi mồi côi cả cha mẹ từ thuở lên
tám, nên không có ai dạy dỗ nhiều điều, lại gặp thời kỳ kháng chiến với Pháp
(1945 - 1952) gian khổ, nghèo đói. Cơm không đủ no, quần áo không đủ mặc, sinh
mạng luôn bị đe dọa ngày đêm bởi những trận bom, trận càn của giặc Pháp từ mạn
biển Qui Nhơn, Đề Di…Đình chùa vắng hoe, tiêu điều, không ai dám lui tới. Mọi
sinh hoạt tôn giáo đều bị gạt bỏ. Chúng tôi sống ngơ ngác từng ngày…
Trong hoàn cảnh ấy, lên tám tuổi - tôi
đã kịp học được ở Mẹ tôi câu niệm Phật đầu đời trước khi bà mất, trong căn hầm
trú ẩn sau nhà: “Nam mô Quan thế âm Bồ Tát”.
Ngồi trong hầm núp, nghe tiếng máy bay gầm rít trên đầu, nghe tiếng súng đại
bác bắn liên thanh, và những tiếng ì ầm của những trái bom đang rơi xuống ở đâu
đó, quanh vùng; ai cũng đọc lớn câu niệm Phật ấy. Tôi đã đọc theo Mẹ tôi khi bà
ôm tôi vào lòng…
Sau năm 1954, thỉnh thoảng, tôi có thầm
đọc lại câu niệm Phật ấy, mỗi lúc buồn đau, vì nhớ Mẹ, hay gặp cảnh bất hạnh!
Anh cả của tôi đã “tạo duyên” cho tôi thường xuyên niệm Phật, bởi sự nghiêm
khắc, đến cộc cằn của anh với chị em tôi! Cha mẹ mất, chỉ còn lại ba anh em, lẽ
ra anh phải yêu thương, an ủi, che chở chị em tôi, thì anh đã không làm vậy, và
không quan tâm chia sẻ, an ủi, chăm sóc
- mặc dầu cha mẹ tôi khi mất đi đã có để lại bốn gian nhà ngói, và một mẫu
ruông loại tốt!
Trong những tháng năm mồ côi cô độc, và nghéo
khó; năm tôi 12 tuổi - cũng “có duyên” để xuôi tôi chạy lạc vào một ngôi chùa,
tránh một trận đòn của anh. Sau khi đã “dạy” tôi bằng tay, anh bắt tôi nằm dài
xuống nền nhà, vội ra sau lấy chiếc roi mây gác sẵn ở mái hiên. Tôi vùng dậy,
bỏ chạy ra đường. Trong đêm tối, tôi đã cố sức chạy - không biết chạy đi đâu
cho yên, nhưng trước mắt tôi là một ngôi chùa cổ bên đường hiện ra; tôi đã vội
lẻn vào chùa, và lần đầu tiên quỳ lạy trước nhiều tượng Phật ở chánh điện, sau
đó chui ngay dưới gầm bàn thờ Phật, để trốn!
Trong một ghi nhận ngắn về mình ở bìa
một tập truyện - tác phẩm thứ ba của tôi ( Tập “Phố Người” Xb năm 1971), năm 27 tuổi; tôi đã viết, “(…) Đã sống qua một thời tuổi nhỏ vô vàn
đau xót: Cha mất khi còn là một bào thai non yểu quằn quại trong bụng Mẹ. Tám
năm sau, một giờ sáng ngày 27 tháng 10 (âm lịch) giữa mùa mưa bão mù trời thời
kháng chiến, người Mẹ đã thở hơi cuối cùng vì bệnh lao bởi đã sống khổ nhục và
cô độc trong nửa cuộc đời góa bụa bị lường gạt. Từ đó, sống quấn quít nghèo khó
bên anh và chị. Sống ngơ ngác lạc lõng giữa bà con họ hàng. Lớn lên như một
thân cây rừng cô tịch (…)”. Quả đúng là tôi đã lớn lên trong “tình cờ & ngẫu nhiên” giữa đời!
Không hề dám (và biết) nghĩ đến tương lai…
Vào tuổi ấy, rất diễm phúc - tôi đã
“biết” có Phật, nhưng “không biết” tìm Phật nơi đâu?
Thời gian dạy học ở Tuy Hòa, tôi được
Thầy Giác Lượng thường ghé nhà trọ thăm, trong mỗi chuyến Thầy đi công tác ở
các ngôi tịnh xá thuộc các tỉnh Miền Trung và cao nguyên, trong đó có Phú Yên.
Thầy tìm đến thăm tôi vì là tình đồng hương, cũng vì Thầy là một nhà thơ! Mỗi
lần ghé, Thầy đều mang đến cho tôi vài tập Kinh, một tập thơ mới xuất bản. Bộ
Kinh Thầy cho tôi đầu tiên là “Kinh Hoa
Nghiêm”. Tôi đã đọc. Nhưng, chỉ hiểu lờ mờ; duy chỉ có một niềm vui lớn
đọng lại trong tâm tôi, là lần đầu đã được đọc chính những lời Phật nói…Sau đó
không lâu, cũng nhờ Thầy Giác Lượng “tạo duyên” - tôi đã được “tháp tùng” đoàn
Quý Sư đi xã đảo Nhơn Châu (Cù lao xanh) một tuần; đã được nghe những bài giảng
pháp đầu tiên của Quý Thầy…
Thời gian đó, lại do một “ngẫu nhiên
tình cờ” không nhớ rõ - tôi được hân hạnh gặp Thầy Thiện Đạo lúc ấy đang dạy và
làm Giám học của trường Trung học Bồ Đề Hiếu Xương - rồi gặp Thầy Minh Tâm
(cũng đang làm Giám thị của Trường Trung học Bồ Đề Tuy Hòa)…Tôi vẫn sống bình
thản “như một thân cây rừng” trong những tháng năm tuổi trẻ, với những ước
mơ - như bao người tuổi trẻ có chí hướng
khác. Tôi đam mê văn học, sống hết lòng cho thơ văn - coi đó là niềm vui và an
ủi còn lại cho cuộc đời côi cút gian khó của mình. Tôi đã trải lòng với văn
chương, với bằng hữu, với học trò - cho đến năm 1973, tôi đã xuất bản được bốn
tập truyện ngắn và một tập tùy bút - cọng tác với vài tờ tạp chí, tuần báo văn
học ở Saigon, và các tỉnh, thành phố khác…
Tháng Tư năm 75, trong không khí căng
thẳng, bất an của thị xã ngày càng vắng - tôi đã đưa bà Ngoại các cháu, và vợ
con vào tạm trú ở Viện Đại Học Duyên hải Nha Trang. Một buổi sáng, sau đêm cả thành
phố rối bời trước giờ được tiếp quản - từ viện đại học Duyên Hải, tôi nhìn thấy
đám đông đã phá cổng, cửa rào, tràn vào Tòa Lãnh sự Mỹ bên kia đường, tranh
nhau thu dọn đồ đạc còn bỏ lại của nhân viên sứ quán, kể cả xe hơi, nhiều xe
Honda, vật dụng…Tôi băng qua dường, đi dần vào bên trong, ghé nhìn các phòng
của tòa Lãnh sự; chứng kiến một cảnh tượng tang thương, dâu biển - đau lòng!
Trước khi quay về, thoáng nhìn ở khung gỗ gắn trên vách tường một căn phòng đã
trống trơn, tôi thấy bức tượng Phật Di lặc bằng đá trắng, cao khoảng một gang
tay, còn nằm ở một góc - tôi đã bước vào, và đã có “tượng Phật đầu tiên” cho
đời mình…
Sau năm 1975 - tôi “quên bẳng” cây bút
(thực ra là chiếc máy chữ Brother de lux), để cầm…nhiều thứ khác, kiếm ăn. Sinh
hoạt gia đình tạm ổn với những thiếu hụt phải lo toan hằng ngày. Năm 78 và 81,
chúng tôi có thêm hai con, một gái và một trai (út) - đời sống thêm vất vả,
nhiêu khê! Tuy vậy, gia đình chưa có những xáo trộn gì lớn lao, đáng kể cả!
Sau năm 85, nghĩa là sau biến cố 75
được 10 năm - những “rạn nứt” tình cảm vợ chồng, bắt đầu xuất hiện, nhưng tôi
không thể hiểu rõ nguyên nhân. Gia đình dần dần bất ổn, năm sau thêm nhiều phức
tạp rối reng hơn năm trước! Không một ai trong họ hàng hai bên có thể “biết chắc”
là do đâu, tại sao? Dần về sau, sau nhiều năm tháng lang bạt đó đây, tôi tin là
“nhân duyên” của chúng tôi đang đến thời không thuận nữa.
Trong một dịp đi hành nghề mở khóa, làm
chìa - tôi đã đến mở một khóa tủ cho cậu bạn quen đang công tác ở Phòng Văn hóa
Thông tin huyện. Khi mở xong, tôi nhìn thấy bên trong có nhiều đồ vật, tranh
ảnh, chuông mõ, cờ phướng vất bừa bộn một bên. Tôi chợt nhìn thấy một tượng
Phật nhỏ, cao gần hai gang tay, sơn phết rất đẹp. Tôi moi lên, biết là tượng
Phật bổn sư Thích Ca - bằng gỗ, có lẽ cũng vừa được làm xong không lâu. Nhìn
kỹ, nét chạm khắc không điêu luyện, nhưng tôi nhận ra ở đó là cả một tấm lòng
kính ngưỡng, trải qua một thời gian chăm chút đáng trân trọng. Tôi đã hỏi xin
người bạn. Sau phút do dự - cậu ấy đồng ý cho tôi, nhưng bảo nên cất kỹ trong
xách đồ nghề…Đó là bức tượng Phật Thích Ca đầu tiên tôi có - hiện vẫn còn tôn
trí ở bàn thờ Phật trong nhà…
Mỗi khi gia đình không được thuận hòa,
căng thẳng gay gắt - tôi thường rời nhà, bỏ đi lang thang nhiều miền, làm nhiều
nghề để sống - nhưng, cũng từ đó, tôi lại có dịp nhớ nghĩ đến câu niệm Phật mà
Mẹ tôi đã dạy lúc 8 tuổi trong hầm trú ẩn nhiều hơn. Nơi nào đang sống có chùa
ở gần, tôi thường vào ngồi hằng đêm, không biết đọc Kinh - chỉ biết yên lặng
với câu niêm Phật cũ, và học thêm những câu niệm Phật nghe được…
Phải trở về nhà sau vài tháng “sóng
gió” yên lặng, để tiếp tục lo lắng, chăm sóc các con còn tuổi đi học - tôi
quyết đinh đưa cả gia đình đến chùa Ngọc Lộ, xin quy y. Tôi chính thức có Pháp
danh là Sơn Thành, được nghe giảng năm điều răn dạy, được nhận tập Kinh nhật
tụng khai tâm.
Lại thêm một “ngẫu nhiên tình cờ” đến
với tôi trong hoàn cảnh quá u ám lúc nầy, là chị Diệu Thuần ở Gò Vấp (chị ruột
nhà văn Y Uyên) - tự nhiên gởi cho tôi liên tiếp mấy tập Kinh sách rất quý, dầu
tôi không ngỏ lời xin: Đó là bộ Kinh Pháp Hoa, Lăng Già Tâm Ấn, Kinh Kim Cang,
Sáu Cửa Vào Động Thiếu Thất của Tổ Bồ Đề Đạt Ma (…).Tôi vui mừng như nhận được
bảo vật, bởi vì - từ ấy, ngày đêm tôi đều hướng tâm đọc khi được rỗi rãnh việc
kiếm sống, việc nhà - phát tâm biên chép Kinh Pháp Hoa vào mỗi tối, như một
niềm an ủi, một niềm tin duy nhất cho đời mình, để tạm quên bao nỗi phiền muộn
đang dai dẳng đeo bám lấy tôi!
Về sau, mỗi khi phải xa nhà, tôi
không đi lang thang, mà đến xin “sống tạm” ở các ngôi chùa. Một lần ra đi, cuối
đông năm 1993 - tôi quyết đinh tìm đến thăm Thầy Thiện Đạo ở chùa Phi Lai,
thuộc thôn Hòa Mỹ, xã Hòa Thịnh, quận Tây Hòa (Phú Yên) vì đã hơn hai mươi năm
chưa được gặp lại Thầy. Chuyến đi sau mùa lũ lụt lớn nhất từ nhiều chục năm,
rất khó khăn - cách trở, nhưng rất may, nhờ anh Trần Huiên Ân cùng đi luôn
“nhắc nhở”, cuối cùng chúng tôi cũng đã vượt qua hơn 30 km đường lầy lội, bị
xoáy lở nhiều đoạn - để đến Phi Lai, gặp được Thầy - và cũng bắt đầu từ “nhân
duyên” ấy - tôi đã gắn bó với Phi Lai, được nhận nhiều lời khuyến dạy, trợ
duyên của Thầy và đã “gặp Lục Tổ Huệ năng”…
Bên cạnh những “gặp gỡ tình cờ” ấy, là
những giấc mơ kỳ diệu khó nghĩ bàn thường đến bất chợt với tôi trong thời gian
trước và sau khi được quy y, đã “ngẫu nhiên” góp phần vun quén cho niềm tin của
tôi với Phật, ngày càng vững chãi - đến nổi, tôi đã có lần tâm sự với các bạn
thân: “Nếu tôi không gặp được Phật, có lẽ
- tôi đã chết vì nhiều lý do, từ lâu rồi!”.
Ngồi mà nghĩ nhớ lại quãng đời có mặt
của mình ở cõi tạm nầy, tôi tin rằng - những điều mà tôi gọi là “duyên ngẫu nhiên mầu nhiệm” - chính là “nhân duyên” kết thành từ “nhân quả” của tôi (cũng như của mỗi
người), kiếp này và các kiếp trước! Có điều - lẽ huyền vi ấy, chúng ta không
thể biết trước được mà thôi! Tôi “không
ngẫu nhiên” mà có được hai tượng Phật, có được những bộ Kinh tạng quý, gặp
được các bậc Chân tu, Thiện trí thức đã hết lòng cưu mang, giúp đỡ tôi (…)
trong hoàn cảnh u tối của đời mình: Đó là “duyên
lành” của những “nhân lành”
chăng? Tôi cũng từng nghĩ, trước là anh trai tôi, và sau là người bạn đời của
tôi và (…) - tất cả đều là những vị “Bồ
tát nghịch hạnh”, đã giúp tôi vượt qua bao nỗi khổ đau, buồn phiền, nổ lực nhẫn nhục - để có thể gặp được Phật
chăng?
Từ dạo ấy, cho đến hôm nay - đang ở vào
tuổi “xưa nay hiếm”, tôi vẫn luôn nghĩ rằng, tôi sẽ sống mãi với Phật trọn kiếp
này, và hy vọng cũng sẽ được “gần Phật” trong những kiếp sau…Một ngày được niệm
Phật, được đọc một trang Kinh, được làm một việc thiện lành - đó là một ngày
Hạnh Phúc của tôi…
Mùa Vu lan, Pl 2558
KHỔ ĐAU LỚN NHẤT LÀ GÌ?
Trong đời sống thường nhật, có đôi
lúc “trà dư tửu hậu” hay ngồi suy
nghiệm một mình, chúng ta cũng thường thắc mắc tự hỏi: “Khổ đau lớn nhất của đời người là gi?” - và có lẽ, sẽ có nhiều câu
trả lời, đại loại là do tình dục ( & tình yêu), do sân giận, do đói khát,
do bệnh tật hay do sự sợ hãi (vvv). Những lời giải đáp đơn giản, tùy theo mỗi
hoàn cảnh, và sự nhận thức của mỗi người như vậy, không phải là không đúng. Nó
chỉ đúng với một mặt nào đó, của mỗi người, khi đứng trước “nỗi khổ đau” đang
xảy ra trước mắt của mình mà thôi. Nhưng tất cả những nguyên nhân gây tạo khổ
đau cho đời sống vừa nêu, chưa phải là “nguyên
nhân cốt lõi sau cùng” của nỗi khổ đau lớn nhất mà kiếp người đã phải gánh
lấy!
Trong “Cung Oán Ngâm Khúc”, Nguyễn Gia Thiều đã từng than rằng:
“Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt
trong bể khổ, bèo đầu bến mê!”
Câu hỏi nầy (và cả những câu trả
lời) không có gì lạ, bởi vì từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước đã được các Tỳ
kheo ở trong tịnh xá thành Xá Vệ thời Đức Phật còn tại thế đã “thắc mắc” (và
tranh cãi) rồi; nhưng cũng chưa tìm ra câu trả lời chân xác! Vì bất đồng ý
kiến, nên họ cứ tranh luận mãi không thôi…
Biết được chuyện nầy, Đức Phật liền
đi đến thăm hỏi; các Tỳ Kheo đã đồng đứng lên đãnh lễ Thế Tôn, rồi trình bày
điều mình đang tranh luận.
Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo! Các thầy bàn luận chưa đến chỗ cùng tột ý nghĩa của
khổ đau. Khổ đau trong cuộc đời không gì hơn sự hiện hữu của thân nầy. Tất cả
những nỗi khổ đau đói khát, nóng lạnh, sân giận, sợ hãi, sắc dục, tai họa…đều
bắt nguồn từ thân nầy!(…)”(1)
Có phải vì “thân nầy”, mà con người đã luôn nuôi dã tâm tàn hại lẫn nhau, để
giành mọi ưu thế, quyền lợi cho mình? Sự mù quáng vì quá tham đắm “thân nầy” đến nổi nhà văn Nicolas
Chamfort (1741 - 1784) đã phải kêu lên: “Người
ích kỷ sẽ đốt nhà bạn để luộc một quả trứng” (L”egoiste brulerait votre
maison pour se faire cuire un neuf”. Cung phụng
những đòi hỏi, ham muốn cho “thân nầy” như vậy, là hết chỗ nói! Tuy vậy,
“thân nầy” chưa bao giờ chịu dừng lại, mà những đòi hỏi của nó, ngày càng
nhiều, không bao giờ hết.
Nhìn lại thực tế trong đời sống,
chúng ta càng thấy rõ, chỉ vì “thân nầy” mà nghĩa tình ruột thịt đã phải chia
cắt, bằng hữu xóm giềng phải xa nhau, đạo lý luân thường bị đảo lộn! Hằng ngày,
tin trên các báo đều có ghi lại: Con đánh cha, giết hại mẹ vì gia sản, tiền
bạc. Vợ xa chồng vì đòi hỏi cho “thân mình” hơn tình yêu thương. Chồng bạo hành
vợ con vì tham đắm cho thân. Anh chị em đâm chém nhau vì hơn thua gia tài phải
vào tù. Trò hành hung, vô lễ với thầy cô, vì “ham danh” (cho thân) mà tài đức
không có. Bè bạn thù oán nhau vì quyền lợi, địa vị; vì chỉ muốn tóm thu về cho
riêng mình. Xã hội rối ren, bất an triền miên, chỉ vì ai ai cũng lo “chụp giựt,
tranh giành”, chỉ mong o bế cho “thân mình” trước mọi nỗi bất hạnh của kẻ khác
(…)
Nếu con người sống ở cõi tạm nầy
biết được rõ rằng, cái “thân nầy” chỉ
là bóng mây, bọt nước, là pháp hư huyễn, có không vô thường, mà “biết đủ”; đem
tâm từ của “thân nầy” hướng về kẻ khác, nuôi lớn mối cảm thông để chia sẻ với
mọi cảnh đời bất hạnh chung quanh, có trách nhiệm đối với xã hội đất nước - thì
chắc chắn, nỗi khổ đau “thân nầy” cũng sẽ được xoa dịu, chuyển hóa, giảm đi rất
nhiều - cho chính bản thân mình, và cho người khác.
Suy cho cùng, cội nguồn của các khổ
đau, manh mối của tai họa, lao tâm, khổ trí, sợ hãi - cũng chính bởi “thân nầy” mà ra cả!
Ai cũng quý trọng thân, cũng muốn được
sống hạnh phúc, sung sướng, ham sống sợ chết, thì tại sao lại dẫm đạp lên thân
người, đời người khác, để tạo nghiệp khổ đau cho đời nầy, đời sau? - Đức Phật
đã dạy rõ: “Người nào cầu yên vui cho
thân mình mà lại lấy dao gậy não hại kẻ khác, thì sẽ không bao giờ được yên
vui” ( PC 131). Lời nói đơn giản nầy ai cũng có thể thuộc, nhưng có rất ít
người làm được là: “Hạnh phúc chính là
ban phát hạnh phúc” (Francoi
Coppesee - 1842 - 1908).
Tham chấp thân tạm hư huyễn mà gây
tạo nghiệp ác, là sẽ chìm đắm trong vòng sinh tử luân hồi triên miên đau khổ!
Biết “quên” thân nầy, mượn thân giả
tạm để sống vì người, vì đời; rời xa vọng tưởng mê lầm, hướng tâm an tĩnh vì
Đạo mầu, thì chắc chắn sẽ đạt được niềm
vui lớn nhất trong nhiều đời nhiều kiếp vậy…
(1) Kinh Pháp Cú Thí Dụ ( Viện Nghiên Cứu
Phật Học VN)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét