TÔI ĐẾN
VỚI PHẬT (CVM Blogs - 4)
Tiểu
Luận & Tạp Bút
MANG
VIÊN LONG
Bài 7
& 8
HOA MAI ĐÂU DỄ NGÁT MÙI
HƯƠNG
Tạp bút
MANG VIÊN LONG
Đúng chu kỳ, mùa Xuân lại đến. Cách đây mấy
hôm, một người bạn văn - cũng là bạn đạo, có biếu cho tôi một cành hoàng mai.
Cành mai khá lớn, hoa lá chen lẫn trên cành khúc khuỷu tạo thành một sự sắp xếp
rất tinh tế, mỹ thuật của thiên nhiên.
T
|
ôi
trang trọng đặt cành hoa vào bình sứ lớn, chưng ngay phòng nhà giữa - là bàn
thờ Tổ. Hằng ngày, theo dõi từng chùm hoa vàng nở, nghe thấy một mùi hương
thoang thoảng dìu dặt, tôi thầm chiêm phục và biết ơn loài hoa cao quý ấy.
|
Cành hoa mai đã khiến tôi
chợt nhớ tới bài “Tụng” của ngài Hoàng Bá Hy Vân (1) đã đọc trong một buổi thượng đường, chỉ dạy đại chúng:
Trần
lao quýnh thoát sự phi thường
Hệ bã thằng đầu tổ nhất trường
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc hoa mai phốc tỷ hương.
Bài dịch (2)
:
Vượt cõi trần lao việc chẳng
thường
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường
Chẳng phải một phen xương lạnh
buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Quả thật, cây mai đã phải trải qua cái giá
lạnh, mưa bão của mùa Đông dài dặc đen tối, để chớm Xuân trổ lá, kết hoa… Hoa
mai là loài hoa tượng trưng rõ nét và đầy đủ nhất cho cái đẹp và ý nghĩa của
mùa Xuân. Những chùm hoa vàng tinh khiết, mầu nhiệm kia như được tích tụ từ nỗi
giá lạnh, giông bão vùi dập mà không hề nao núng; để mở sáng một mùa Xuân ấm
áp, hạnh phúc cho muôn loài.
“Chẳng phải một phen xương lạnh
buốt”.
Nếu cây mai không chịu được một mùa Đông
với bao vùi dập tan tác của cái lạnh, của gió, của mưa dầm, thì làm sao kết tụ được
những cánh hoa mới lạ tinh anh kia - và nhất là, làm thế nào mà ấp ủ một mùi
hương thanh quý riêng biệt như thế?
“Hoa mai đâu dễ ngửi mùi
hương”
Người học Phật cũng được ví như cây mai.
Như hoa mai. Như mùi hương thiêng liêng của hoa. Nghĩa là người tu cũng phải
trải qua kiên tâm vững bước trên tám con đường đạo Phật (Bát chánh đạo) “mùa
đông” của sự mài giũa Giới Định Tuệ; của lòng trì niệm không ngưng nghỉ bốn
câu kệ trong kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, dũng mãnh và tinh tấn để tự thắng
mọi chướng nghiệp - và luôn xả thân vì Đại Nguyện, thì “Hoa Tâm” mới
sanh, mới “ngửi” được mùi hương nhiệm mầu của đạo pháp.
Người học Phật không thể không có “một phen xương lạnh buốt” mà
có thể “ngửi thấy mùi hương” An Lạc, Giải thoát chơn chính của pháp Phật
được.
Sự nhiệm mầu vô tận “bất khả tư nghì”
của Hoa Đạo đến với Tâm người tu, để “Hoa Tâm” nở ra tỏa ngát hương,
càng phải cần có những “mùa- Đông- không - ngày-tháng” nhiều hơn thế
nữa…
Nhớ Tổ Huệ Khả xưa, suốt đêm dầm mình trong
mưa tuyết lạnh thấu xương, chờ mặt trời rạng lên, chặt đứt một cánh tay để được
Tổ Đạt Ma nhận làm đệ tử.
Và Lục Tổ Huệ Năng:
… Tám tháng
Đeo đá giã gạo nhà trù
Mười lăm năm
Trú ẩn rừng sâu
Ngày xuống núi tóc râu bạc
thếch (3)
…
Những tấm gương cầu học đạo, xả thân vì
đạo, vì đại nguyện của các bậc Tổ, của chư vị Pháp sư, Thiền sư, Giảng sư… luôn
là nguồn sáng soi dắt người học Phật chúng ta luyện tâm, bền chí…
Hoa Mai - Hoa Tâm - Hoa Đạo của mùa Xuân
trọng đại ấy có thể sẽ rất gần, và cũng có thể sẽ rất xa. Một sát na. Hay trọn
một đời. Nhiều đời. Chúng ta - những người học Phật, chỉ nên biết luôn giữ sáng
Tâm mình và tinh tấn mà tiến bước…
Hoa Tâm ắt sẽ nở hoa, đượm hương bất tuyệt
trong lòng mọi người.
(Báo Giác Ngộ Xuân Bính Tý-PL
2539-1996)
HÃY SUY NGHĨ GIỐNG NHƯ
TÔN GIẢ PHÚ LÂU NA
T
|
rong
quyển “Tăng Già Thời Đức Phật” do Hòa
Thượng Thích Chơn Thiện biên soạn (Viện nghiên cứu PGVN ấn hành 1991) đã có ghi
lại qua một mẫu chuyện về Tôn giả Phú Lâu Na (Punna) mà trong các kinh Tạp A
Hàm, Trung Bộ Kinh, Trưởng Lão Tăng Kệ đều có đề cập đến: “… Đức Phật dạy : “Người dân ở xứ
Sronàparanta nóng nảy, bạo lực, dữ dằn. Họ nói những lời dữ dằn, thô lỗ. Nếu họ
nói với ông những lời dữ dằn, thô lỗ, hỗn láo thì ông nghĩ thế nào ?”. Punna :
“Con sẽ nghĩ rằng người dân ở Sronàparanta quả thực là những người tốt bụng
và hiền lành, vì họ không đánh con bằng tay, cũng không ném đá vào con”.
Đức Phật : “Nhưng nếu họ đánh ông bằng tay hay ném đá vào ông thì ông sẽ nghĩ
thế nào?. Punna: “Con sẽ nghĩ rằng họ là những người hiền lành và tốt bụng
vì họ không đánh con bằng gậy, không đâm con bằng gươm”. Đức Phật : “Nhưng nếu
họ đánh ông bằng gậy hoặc đâm ông bằng gươm thì ông sẽ nghĩ thế nào?”. Punna:
“Con sẽ nghĩ họ là những người hiền lành và tốt bụng vì họ không giết
chết con!”. Đức Phật: “Nhưng nếu họ giết ông, này Punna, ông sẽ nghĩ thế nào?”.
Punna: ”Con sẽ nghĩ rằng họ là những người hiền lành và tốt bụng vì họ
giải thoát cho con khỏi cái thân xác thối tha này môt cách dễ dàng. Con biết
rằng có nhiều tu sĩ đã hổ thẹn vì cái thân xác của mình, đã bối rối, chán nản,
và các vị ấy đã tự tử bằng khí giới, đã dùng thuốc độc, đã tự treo cổ bằng dây
thừng hay lao mình vào vực sâu !?
Đức Phật: “Này Punna, ông có thiện
tâm, nhẫn nhục cao nhất. Hãy đi đi mà dạy cho họ làm sao để họ được giải thoát
như chính ông - ông đã giải thoát”.
Qua mẫu chuyện nhỏ thuật lại cuộc trò
chuyện giữa Đức Phật và Tôn giả Phú Lâu Na - một đệ tử lớn của Phật, khi Tôn
giả cầu xin được đến xứ Sronàparanta để dạy đạo cho người xứ này; chúng ta vô
cùng cảm phục đức hảo tâm và lòng nhẫn nhục cao cả của Tôn giả.
Sở dĩ Phú Lâu Na có được suy nghĩ, lời
nói, và việc làm chân chính, kiên cường như thế, là vì Tôn giả đã sẵn có cái
tâm trong sáng, cái trí bền vững; lòng tin bất thối chuyển vào Đạo pháp; nhất
là có đầy đủ thiện tâm, có cái đức mạnh nhất trong tất cả là sự “nhẫn nhục”;
luôn nghĩ tốt về mọi người bằng tình thương yêu vô bờ.
Một vị Sa môn hỏi Phật ”Cái gì là mạnh
nhất?”. Đức Phật đã dạy : “Đức nhẫn nhục là mạnh nhất, nhẫn nhục thì không
có ác tâm, lại có tâm yên vui, bền vững”(1). Chính vì Tôn giả
Phú Lâu Na có được cái “sức mạnh” vô song kia, mà ông vượt qua mọi gian nan khi
đến xứ Sronàparanta để truyền bá Đạo pháp… Suy nghĩ của Tôn giả về mối quan hệ
giữa ta và người, gợi nhớ lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Chớ nên biết lỗi
người, hãy nên biết lỗi mình” (2). Nếu cứ mãi theo dòm ngó, bới
móc, chấp chặt vào lỗi của người, thì trước tiên, chúng ta lại là người có lỗi,
có tâm không yên vui, có lòng oán giận, tâm địa hẹp hòi; mãi mãi tạo ra oán thù
không bao giờ dứt. Cả ta và người đều khổ. Đó là đầu mối của bao bất hạnh trong
gia đình, ngoài xã hội… Lời Phật dạy như một chân lý bất biến ai cũng có thể
thuộc lòng, nhưng có lẽ ít khi đem ra ứng dụng, thực hành: “Ở thế gian này,
chẳng phải hận thù trừ được hận thù. Đó là định luật của ngàn thu”.(Pháp cú
5 - phẩm Song yếu).
Vậy điều gì sẽ trừ được tận gốc rễ của
hận thù? Đó là tình thương, là lòng từ bi. Sở dĩ Tôn giả Phú Lâu Na truyền Đạo
đạt kết quả ở xứ Sronàparanta có nhiều kẻ ác tâm - cải hóa và giáo huấn được họ
- cũng chính là nhờ vào tấm lòng từ bi vô lượng của Ngài. Sở dĩ Phú Lâu Na
không sợ hãi, oán phiền, thối chí, dầu cho phải nghe những lời dữ dằn, thô lỗ
hỗn láo đến có thể sẽ bị giết chết bằng gươm ở xứ Sronàparanta; chỉ vì Tôn Giả
đã là “người có tâm thanh tịnh, không còn các lâu hoặc, vượt trên thiện và
ác”. (P.C 39).
Muốn suy nghĩ và hành động giống như
Tôn giả Phú Lâu Na thì chúng ta phải làm
thế nào ? - Trước hết, và quan trọng hơn cả là phải có “Thiện Tâm” (hay
hảo tâm), bởi vì : “Trong các pháp, tâm dẫn
đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác” (P.C 2).
Thiện Tâm là gì ?
Đức Phật đáp : “Hai chữ hảo tâm rất ít ai làm được. Nếu thật là hảo tâm thì làm việc
lợi ích cho người không cầu mong người trả lại. Cung cấp việc cho người không
cần người trả quả. Cúng dường cho người không cầu phước báo. Làm lợi ích cho
người không cần người báo ơn, tự hạ tâm mình xuống cho người được thỏa lòng;
cũng như khó xả mà xả được, việc khó nhẫn mà nhẫn được, việc khó làm, hay làm được;
việc khó cứu hay cứu được - không phân biệt oán thân, bình đẳng tế độ; chân
thật làm như thế chứ không phải nói suông” (3).
Nhìn lại, cái Tâm của Tôn giả Phú Lâu
Na như cõi đất bằng, mặc tình cho nắng mưa, giông bão - có gì có thể làm đổi
thay lay động được Ngài ? Lấy việc lành để tiêu trừ việc ác; lấy tình thương để
xóa bỏ hận thù; lấy không giận thắng giận; lấy bố thí thắng xam tham, lấy chơn
thắng hư ngụy… đó chính là những “cái tâm” trong sáng, luôn luôn được yên vui,
hạnh phúc - mà người học Phật, cần phải ghi nhớ, hành trì để được giác ngộ, cảm
nhận được hương vị giải thoát ngay trong cuộc sống hiện tại.
Thành kính cảm phục Tôn giả Phú Lâu Na
qua mẫu chuyện ngắn vừa nêu trên, chúng ta cần phải luôn làm theo lời căn dặn
của Đức Từ Phụ trước lúc vào Niết Bàn : “Người nào chưa có thể vui mừng chịu
nghe các điều chửi rủa tệ ác như là được uống nước cam lồ, thì chưa gọi được là
người có trí tuệ nhập đạo” (4). Chúng
ta hãy hoan hỉ, vui sướng, vì “chúng ta sống không thù oán giữa những người thù
oán, giữa những người thù oán , ta sống không thù oán” (Kinh Pháp cú 197).
Ngay từ lúc này, chúng ta hãy học tập,
rèn luyện “suy nghĩ giống như Tôn giả Phú Lâu Na” để bắt đầu một đời sống mới,
chuyển biến mới, để đón nhận bao nhiêu an lạc nhiệm mầu mà không thể có một
niềm hoan lạc nào có thể so sánh được…
PL 2552
(1) Ngài Hoàng Bá là đệ tử của Bá
Trượng. Bá Trượng là đệ tử của Mã Tổ. Mã tổ là đệ tử Hoài Nhượng.là đệ tử của
Lục Tổ Huệ Năng.
(2)
“Luận Tối Thượng Thừa” của TT Thanh Từ – do Thiền học xuất bản, 1970.
(3)
Thơ của Huệ Thành
(1)Kinh Bốn mươi hai chương
(2)Kinh pháp Bảo Đàn
(3) Phật Thuyết Đại Thừa kim cang
kinh luận
(4) Kinh Di Giáo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét