MANG VIEN LONG
Buổi
sáng mưa sương, mù khắp cánh đồng; những đọt cau vươn cao bên những lũy tre đen
thẫm; phía sau hiện lờ mờ dãy núi không đậm hơn màu xám bầu trời dày mây. Lằn
mức dãy núi vẽ nhẹ nhàng dưới khoảng chân trời trông tựa nét vẽ phác bằng chì
mỏng. Trong cánh đồng cao gió làm bay bay những tấm áo nylon trắng, xanh, của
những hình nộm giữ chim như những người con gái xõa tóc đi dạo chơi ngoài đồng
mờ sương của một thời thái bình hạnh phúc. Lão Năm Lực tự dưng cảm thấy lòng
mình cũng thanh thản dễ chịu, hiếm hoi. Từ cái chòi lá che tạm giữa gò, Lão Năm
Lực nhìn lơ đãng khắp cánh đồng có ý tìm kiếm thêm những hình nộm. Trông những
hình nộm để nhớ tưởng tới bóng người đông đảo rộn rịp trong những vụ gặt. Những
mùa cày cấy, tát nước, đổ phân. Lão nhớ quá chừng những buổi sớm mai mặt trời
ửng đỏ bên kia hàng tre chiếu le lói xuống cánh đồng rộn rã tiếng nói cười hò
hát. Ngồi xoay mặt trông cánh đồng từng ngày trống vắng lẻ loi dần dần lão thấy
thương cánh đồng như thương cho thân mình. Cánh đồng cũng trơ vơ buồn bã với
những bàn tay chăm sóc vội vàng, ra đi vội vã. Cánh đồng vì thế cằn khô còi cọt
như những người đã bỏ nó ra đi, cắt lìa sự sống. Nghĩ thế, Lão Năm Lực lại nhớ
tới lão Mậu hôm trở về thăm làng gặp lão ở giữa mương. Lão đã chẳng nói nhớ thương
đồng ruộng là gì? lão bảo cực chẳng đã phải bấm bụng mà xa lìa ruộng đất. Sống
xa cánh đồng đời như buồn tẻ quá mức. Thiệt lâu không thấy mặt đám ruộng, miếng
vườn, tôi bồn chồn lắm. Anh nghĩ coi, làm sao không nhớ khi chiều nào cũng đủng
đỉnh ra đồng xăm soi từng gốc lúa? Tôi bây giờ chỉ mong được trở về sống lại
với ruộng vườn mà dễ gì được. Anh tính thử, tôi về thế nào cũng bị kết tội bỏ
làng mà đi. Trời ơi, không đi ở nhà chịu bom chịu đạn hả anh?
Lão
Năm Lực cúi xuống nhìn điếu thuốc bị ướt nước tắt lụn trong tay. Lão móc túi
lấy diêm quẹt lửa, đốt lại. Đám khói lơ lửng trước mặt lão rồi bay vuột ra
ngoài theo hơi gió thoảng vào, cuốn trôi. Ngoài trời mưa sương vẫn còn giăng mờ
cánh đồng. Lão nhìn sững lên màn mưa bụi nghĩ mùa mưa này tới thực chậm. Và êm
ả. Bấy mùa, tháng này trời đổ mưa tối tăm mày mặt. Mưa đen kịt cánh đồng trông
không thấy nổi bầy vịt. Trước mặt lão, lúc này điều gì cũng đổi thay chóng mặt
khiến lão càng thêm ngơ ngác. Như những bận lão sững sở giữa những mảnh giấy
truyền đơn rải trắng cánh đồng. Trường hợp của lão Cửu bị bắt giam ở quận cũng
chỉ vì nhặt những mảnh giấy trắng vô tích sự bỏ rải rác khắp ngõ hẻm khiến lão
phân vân, sợ hãi. Sống bám riết vào đàn vịt ở mãi trong xóm này qua bao lần
nhìn thấy đã dạy lão một điều: Có miệng như câm, có mắt như mù, có tai như
điếc. Lão thường nói với con gái lão, con Lạc, muốn sống được yên mày phải giữ
câm cái miệng mày lại. Thời này tao coi có mắt cũng như mù. Và lão đã sống với
nỗi tàn tật chưa tới đó trong mấy năm nay. Lúc đầu lão thấy thật là khó phải
sống với nỗi tối tăm bưng bít của đời tàn tật. Lão uất nghẹn ray rức từng ngày
với cuộc sống mình. Bà Năm Lực câm lặng phiền muộn bên lão bởi nỗi bực dọc của
lão thường đổ xuống cho bà và Lạc. Bà chỉ thấy chồng thay đổi kỳ quặt với nỗi
trầm ngâm cô quạnh không thốt được nửa lời, rồi bà cũng không dám tìm biết; bà
nghĩ, sợ chỉ khơi dậy những lo lắng buồn bã cho chồng. Một năm trôi qua với nỗi
im lặng cam chịu tàn tật đó đã khiến lão dễ chịu hơn… Thân thể lão như trơn tuột hết mọi vướng bận, rã
rời hết mọi âu lo. Có lúc lão cười vu vơ với ý nghĩ rằng lão nhẹ nhàng chơi vơi
lên trên hết mọi sự - lão ưng bụng với ý nghĩ đó. Lão nói thầm: « Đời mình
giờ chỉ biết có đàn vịt ».
Nghe
tiếng bầy vịt con mới nở kêu ríu rít phía trong chòi, Lão đứng dậy chui sâu
vào. Lão bắt bỏ từng con sang một khu lưới khác, đếm lại, chia làm hai. Những
con vịt con mịn lông tơ yếu ớt rút đầu vào nhau kêu rộn ràng. Đôi chân non chưa
xuống nước không đỡ nổi thân khi chúng lộn xộn chạy long tong trong khu lưới khiến
chúng ngã lăn xuống nền cỏ rẫy kêu ồn ào hơn. Lão nhẹ nhàng chia chúng ra từng
khu cho đỡ dẫm vào nhau mà chết. Trông bàn tay lão êm dịu như sợ đụng mạnh vào
bộ lông tơ giống người tưng tiu những con vịt bằng bông gòn, chưng bán ngoài
phố. Với vợ con có nhiều lúc lão cộc cằn, nóng nảy, nhưng với bầy vịt, ít khi
thấy lão khó chịu bao giờ. Cái tính coi vịt trọng hơn vợ con của lão đã nhiều
lần bà Năm Lực phàn nàn, giảng giải nhưng lão không bỏ. Trong đầu lão, lão
nghĩ, chính những con vịt này đã nuôi sống gia đình lão vừa ở nhà giam ra xơ rơ
không biết bám vào công việc gì để sống. Bà Năm Lực cũng bó tay sau gần một năm
chạy lo cho lão mà bỏ hết công ăn chuyện làm. Lão ngồi nhà giam nhưng y như cả
gia đình đều bị cột chân một chỗ không yên dạ để làm một việc gì. Chỉ trừ Lạc,
nàng còn ngồi đạp máy được, may vá chút đỉnh. Tới lúc làng bị chộn rộn, người
dần dần vắng, may vá ế ẫm, lão hối Lạc bán chiếc máy để hùn vốn nuôi vịt lại
với Gượng. Lúc làm ăn khấm khá, có vịt đàn nọ đàn kia; Gượng phải bỏ con ghe,
chiếc sào, rời bầy vịt để vào lính. Nhờ những bầy vịt của Gượng để lại, lão
thêm nghề ấp trứng, bán con; một mình lão làm nuôi vợ nuôi con. Chính vì tin
vào những bầy vịt, lão nhất quyết không để cho con Lạc lên phố xin làm trong sở
Mỹ với lũ con Hiệp, con Nhiên. Lão nói với Lạc, tao đã nuôi mày từ lúc chưa
biết bò, biết lật; nay nuôi mày thêm năm mười năm nữa cũng không đến nổi. Tao
có chết đi, bầy vịt này mày hưởng, nhà cửa này mày ở, còn thằng Nha… Lão bỏ
lửng câu nói mỗi khi lỡ nhắc tới tên đứa con đầu đã tập kết ra Bắc mười mấy
năm. Lão không dám nhắc tới tên Nha, như sợ nó là mối dây buộc trói lão lúc bị
giải lên quận. Tên Nha thành một cái tên kiêng cữ, chính ông đặt ra mà không
dám gọi, nhắc nhở. Từ cái tên đó, khiến lão nhớ miên man những chuyện đã đi qua
đời lão như một con sóng ngầm, có lúc dữ dằn, có lúc âm thầm buồn bã. Sự nhớ
tưởng nào cũng gây cho lão nhiều hoang mang, bàng hoàng cay đắng. Sau ngày đình
chiến Nha trở về cao lớn lạ lùng dưới mắt lão làm lão đâm ngượng ngùng với
nhiều lúc nghĩ rằng Nha là một kẻ nào xa lạ, không chút dính dấp với lão và gia
đình. Lão sửng sốt, xốn xang, còn bà Năm Lực thì mừng rỡ đến chảy nước mắt. Bà
ôm Nha như thuở còn nhỏ, như nắm lấy giữ được một vật gì quý giá mà đời bà ít
khi ước mong nổi. Được về nhà mấy hôm, Nha lại phải ra đi. Vật quý giá mà bà
Năm cầm giữ đã vuột khỏi tầm tay, đôi mắt bà. Hôm lên phố, đứng trên quốc lộ
trong đoàn quân trong số đó có Nha đi bộ ra bến tầu, bà ngỡ như một cơn mộng.
Vừa êm ái, vừa đau xót. Trông thấy Nha trong đám quân mặc quân phục xám, đeo ba
lô, đội nón lưới, tay cầm một thanh tre có cột con chim bằng giấy treo lủng
lẳng; bà thẳng thốt gọi con. Bà chảy nước mắt bên lão Năm Lực và con Lạc trong
tay. Đoàn quân nối tiếp di chuyển trước mặt bà con như con nước chảy, lạnh lùng
là ngơ ngác. Bà đứng dõi theo bóng Nha trôi dần cuối phố, thấy dòng nước đã
cuốn trôi phăng đi mất một vật quí giá của đời bà, biết đời nào theo chân giòng
nước chảy ra biển cả mà gặp được con? Thôi thì coi như mấy năm nay kháng chiến
nó đã chết, bà nghĩ bụng, rồi dắt tay Lạc rời đám người dọc quốc lộ tới ngồi
dưới bóng gốc cây vông cổ thụ. Lão Năm Lực đứng yên, tần ngần, khi đám quân đã
qua khỏi dãy phố hẹp. Con phố trở lại cái im vắng, đìu hiu, tan vỡ của những
năm bị bom đạn tàn phá gần hết nhà cửa. Bóng Nha trôi qua trước mặt bà, giữa
lòng phố nhỏ, như con ngựa hoang kham khổ không dừng nghỉ gót chân. Đàn ngựa
vẫn miệt mài giữa cảnh trời đất mịt mù, bưng bít. Bà nghĩ thương cho thân con
mà khóc…
Bằn
bặt mấy năm những giọt nước mắt của bà Năm Lực đã ngưng chảy, nỗi sửng sốt như
mất hẳn trong đôi mắt lão Năm Lực thì đột ngột lão Năm Lực bị xã mời, rồi bị
giải lên quận vì có tin Nha đã trở về ở bên kia dãy núi; thỉnh thoảng có mặt
trong một xóm phía dưới chân đồi. Thế là bà Năm Lực và lão có dịp nhớ lại buổi
đưa tiễn năm nào xa lơ nơi con phố nhỏ một buổi sáng sớm đầu hè. Bà Năm Lực cố
hình dung con, nhưng trí nhớ bà đã phai mờ hình ảnh. Tình yêu thương dạt dào
nơi bà không đủ khỏa lấp nỗi trống vắng tình nghĩa giữa bà và Nha. Cuối cùng,
bà thất vọng với một niềm an ủi - bà vẫn còn một đứa con ở ngoài Bắc, đứa con
lưu lạc giữa đời.
Phần
lão Năm Lực sau khi từ quận lên trại giam để chờ một vụ điều tra nào đó theo
lời viên quận trưởng, lão càng bơ vơ hơn khi hình ảnh Nha cũng mờ mịt âm thầm
trong trí nhớ. Đến khi sợi giây liên hệ tình nghĩa sắp đứt trong nỗi nghĩ ngợi
mong manh, thì sợi dây trách nhiệm dai dẳng buộc chặt đôi tay lão tới rướm máu.
Sinh con ra không nhờ vã con chút nào, phải khổ vì con từ lúc sống cho tới khi
chết. Thằng Quí chết gọn gàng giản dị như mảnh giấy điện tín của đơn vị nó đánh
về cho lão, nhưng từng hơi thở, giọt máu của nó là sự sống, và máu đào mà lão
đã truyền cho nó bấy lâu. Bồn chồn quẳng hết mọi việc để đi nhận xác con tận
một tỉnh lỵ tân lập miền Cao Nguyên, lão trở về nhìn chiếc hòm kẽm phủ lá cờ
lớn, vòng hoa đã héo khô, tấm bảng viết bằng sơn: Binh sĩ quân dịch Nguyễn Văn
Quí, số quân 923.081, tử trận ngày 12 tháng 12 năm 68 tại Dakto; thấy lúc này
lão mới thực sự được gần con như mơ ước. Lão cũng thường nói với vợ, ước gì
mình được sống gần gũi với thằng Nha như sống với thằng Quí. Lão chỉ mong được
chôn xác hai anh em nằm gần nhau trên quả gò có dựng chiếc chòi tranh của lão.
Sớm tối lão sẽ ghé lại đó thăm, cho chúng đỡ tủi thân lạnh lẽo. Lúc còn sống
hai anh em xa cách nhau, thù nghịch, bắn giết nhau, chỉ có nỗi chết mới giúp
lão đem chúng gần gũi nhau thắm thiết. Mọi con người mỗi khi đã chết rồi đều
hiền từ và ngây thơ. Lão tin trong cõi chết âm u chúng sẽ rủ nhau lên gò bẫy én
mỗi buổi chiều, nằm co rút trò chuyện bên nhau như những đêm mùa đông rét cóng.
Những ngày ở trong trại giam lão vừa bồn chồn với tin sẽ đi nhận xác Nha về
chôn, vừa đau xót với nỗi trông đợi qua từng ngày mỏi mắt.
Suốt
mấy đêm liền lão đã nằm mơ thấy cả Nha và Quí dắt tay nhau lên chòi tìm lão,
thấp thoáng phía sau là bóng con Lạc và bà Năm. Đã gần mười năm nay, lão chẳng
hề nằm thấy gì về Nha. Chỉ một lần trông thấy Quí về nhà thăm trong một cơn mơ nhưng
nó khi thì vui vẻ, vồn vã; khi thì nhăn nhó, quằn quại, trong một giấc ngủ trưa
giữa chòi. Vậy rồi từ đó trở đi, lão không thấy thêm gì về chúng cả. Đời sống
vất vả, tối tăm, bất yên ngày đêm đã không chừa một khe hở nào cho những giấc
mơ chen chân vào đời lão. Vào trại giam, lão thấy đời mình như dừng hẳn lại đột
ngột từ đây. Xa lạ với kiếp sống cũ. Cũng lạ, chỉ cách cuộc đời phía ngoài bằng
một bờ tường cao, những cuộn kẽm gai dày; thế mà lão thấy như cách trở nghìn
trùng, tím gan đứt ruột. Bầu trời trên cao cũng là khung trời khác biệt, tê
tái. Không ngờ giữa đời lại có những căn nhà địa ngục chờ đợi con người quá sớm
như thế.
Nhờ
sống gần gũi với Quí và Nha trong những giấc mơ nên lão Năm Lực đỡ thấy bơ vơ,
buồn thảm như những ngày đầu chui vào nằm trong một xó tối; lão sống như thế
gần một năm…
Trời quang
đãng hơn ngoài cánh đồng, màu xanh đồng ruộng cỏ cây hiện rõ nét hơn trước mặt
lão Năm Lực. Nhưng như còn mưa đâu trong dãy núi mù mờ. Mây sà thấp xuống núi,
màu mây và màu núi không phân biệt được. Cách một khoảng xa, mảnh trời sáng hơn
nổi rõ màu núi đen thẫm. Lão Năm Lực đưa tay quấn lại chiếc khăn lông ôm choàng
từ cổ lên đầu. Chiếc áo dạ đen ngắn củn chật sát vào hai nách lão không che nỗi
tới bụng. Quẳng mẫu tàn thuốc ra bờ cở đẫm giọt mưa, lão sắn cao hai ống quần
lên quá gối. Lão quay lại bưng thúng lúa, đi ra phía đàn vịt.
Bầy vịt đan quây quần dưới một
thửa ruộng ngập nước, rộn rã kêu cạc cạc nhìn thấy bóng lão lội xuống nước,
chúng đua nhau kêu nhiều hơn : cạc cạc cạc cạc cạc. Chúng bơi lội như muốn
bám lấy lão. Lão Năm Lực đi vòng tròn thảy từng nắm lúa vào giữa bầy vịt. Chúng
kêu: cạc cạc cạc cạc cạc cạc, rồi cắm cổ rút những hạt lúa trên mặt nước.
Sau, chúng lặn sâu xuống để rút những hạt lúa chìm. Lão Năm Lực đã bước lên bờ
ngồi vấn thuốc hút. Trông lão cũng thoải mái sung sướng như đàn vịt được ăn no
nê. Trước mắt lão đàn vịt đang lặn lội, tắm rũ lông cánh, tản mác khắp khu
ruộng là nguồn hy vọng cuối cho đời lão. Lão nghĩ tới trên một muôn trứng vào
mỗi cuối tháng tự dưng mỉm cười, đứng hẳn dậy…
Nhặt hai quả trứng của những
con vịt ăn chậm đẻ rớt trên bờ ruộng lão đi dọc theo bờ đê cao, trở về chòi.
Từ đầu bờ đê trông xuôi theo
con nước dưới mương lão đã nhận ra dáng Lạc với chiếc ghe con rẽ nước hướng về
phía lão. Thường ngày, Lạc đều chống ghe lên chòi mang cơm nước cho lão. Bà Năm
Lực ở nhà trông chừng tủ trứng ấp bằng
một ngọn đèn vặn vừa bốc đủ nhiệt độ đặt phía dưới lưới sắt. Bà chỉ đi thay cho
Lạc khi nàng nhờ vả vì chuyện riêng, ở nhà trông coi thế mẹ.
Lạc ngồi hẳn vào lòng ghe, chèo
ghe lướt đi nhẹ nhàng như được gió thổi, con mương đục nước nguồn ngập phả bờ,
có đoạn thấp đã chảy ào ào vào những đám ruộng thấp phía dưới. Lạc ngước nhìn
trời: mây vẫn còn ấp ủ mặt trời trông như còn sớm lắm. Gió thổi rạt xuống mặt
nước se sắc tỏa nhiều hơi lạnh lâng lâng. Lạc vui tay bơi ghe lướt nhanh hơn,
thấy bóng lão Năm Lực đứng ở đầu mương cao sừng sững cô đơn như một hình nộm.
Với ý nghĩ đó, nhiều bận Lạc thấy xót thương cha nhưng tình thương xót đó không
che chở nổi lão, kéo giữ lão phải rời cánh đồng, căn chồi tranh chênh vênh lồng
lộng gió. Nỗi lo lắng của một người con gái còn sống nhờ vào sự nuôi dưỡng làm
nàng rất nhiều khi mơ ước riêng rẽ về một dự định thay đổi nào đó, nhưng cuối
cùng, nàng không thể làm gì hơn ngày hai buổi chèo ghe mang cơm nước lên chòi
cho cha. Buổi đầu nghe nàng nói ý định thay thế cho mẹ, lão Năm Lực cười xa vắng
nói lơ lửng bộ mày không sợ uống nước hay sao? Lão chê Lạc yếu tay, chèo chống
dở, đã không có cơm mang lên cho lão mà còn khiến lão sợ. Nhất là mùa nước lụt,
cánh đồng mênh mông, nước lênh láng chảy ào ào ra ngã sông, mày chèo ghe để
chết trôi à? Lạc vừa nghĩ tới lời trêu đùa của cha, vừa nghĩ tới sự dở dang
chèo chống của mình. Ngồi trong ghe do Gượng chống có lần nàng cũng đã trù trừ
không dám huống hồ một mình một ghe giữa bể nước mênh mông. Lạc cười với lão
Năm nói con phải uống nước vài ba bận rồi sẽ chống giỏi, chuyện gì cha sợ dữ
vậy? Để con chống ghe qua sông nước lớn cho cha coi…
Lạc cặp ghe vào sát bờ mương,
bước xuống ghe lẹ làng. Lão Năm Lực đưa cánh tay xuống, kéo Lạc leo lên bờ đê.
Lạc hỏi:
- Cha cho vịt ăn rồi chưa?
- Rồi…
- Vậy mà con quên không mang
thêm bao lúa.
- Để đó đã, chiều nhớ mang lên
cũng được. Chà mùa này chúng ăn dữ quá. Ba hột thóc sau mùa gặt, lũ vịt ông Tám
vét hết. Trời khiến cũng tức cười, chúng ăn rồi chúng trả chứ bắt mình phải trả
thì bán tới ruộng tới nhà, chứ đừng nói tới heo qué trâu bò…
Lạc nhìn cha, cười:
- Chỉ có con ăn mà con không
trả thôi…
Đôi mắt lão bổng sáng lên một
chút trong vẻ xúc động hiếm hoi nơi cuộc đời gần xế bóng của lão. Có con trai
thì lo sống lo chết, con gái thì lo hư lo nhục; lão đã qua được cái lo cho
những đứa con trai, còn nỗi lo về Lạc hư đốn, tủi nhục thì lão mơ hồ thấy lão
cũng qua được. Con Lạc có mặt trong từng bữa ăn của lão nơi căn chòi vắng này,
lùi xùi nhỏ bé như những con vịt không lẽ nào như lũ con Nhiên, con Hiệp trau
chuốt chưng diện mê tiền theo Mỹ ? Lão tin như thế, và thấy đời lão như
còn được một chỗ để lão quay về ẩn trú, an ủi tấm thân.
Hai cha con lão Năm Lực đã băng
qua đám ruộng ngăn chia bãi gò với con mương đục nước. Bây giờ, họ đang chui
vào căn chòi thấp mái tranh còn đọng những giọt mưa và nỗi rét mướt. Chung
quanh căn chòi, sự vắng vẻ trống trải tới lạnh người không bao giờ mất. Ngoài
xa, một chút ánh nắng đã bắt đầu nhỏ xuống giữa đồng…
Lạc vội vã đi ra mương theo lời
hối thúc của lão Năm Lực vì những đám mây sắp mang cơn mưa tới hơn là bóng
chiều sắp tắt. Rời cha vào buổi chiều tối, tự dưng Lạc thấy bùi ngùi như thể
đưa cha ra đi một chuyến đi xa. Một chuyến đi vào một cõi nào vời vợi phiền
muộn, tăm tối gian nguy. Ngó quanh, Lạc chỉ thấy một bóng lão trên gò thầm
lặng, lẻ loi bên khói thuốc. Bỏ sự yên ấm của mái gia đình, lão lên gò sống
cạnh người chết cũng chỉ vì sự sống cho Lạc, sự sống cho bà Năm, và cho chính
lão nữa. Nằm trên những ngôi mộ lắm lúc lão nghĩ lão giống như người chết khi đêm
tối về, rồi sống trở lại khi mặt trời rạng đỏ, nghe rõ tiếng gà gáy văng vẳng
dưới xóm. Vì thế, nơi gương mặt lão không làm sao xóa hết nỗi lơ ngơ mất hồn
của kẻ từ cõi chết lại. Lão tự khuyên lấy lão:
« Hãy gắng với nỗi khổ của sự sống để được ngơi nghỉ bù đắp trong
nấm bộ bình yên ».
Mây từ đâu kéo tới lấp đầy bầu
trời thực chóng, như những cơn gió vô tình thoáng chốc thốc qua mặt nước làm
chòng chành chiếc ghe của Lạc. Nàng lại đều tay chèo ghe xuôi về nhà như chạy
trốn những đám mây đen vần vũ đã mờ hơi nước từ góc núi trôi dần lại. Dường như
đằng sau đã có mưa mờ, mưa trắng xóa, mưa đen kịt bầu trời. Nàng lại nhanh
chóng bơi ghe lắc lư dồn đuổi trên mặt nước. Gió mơn man hai bên bờ mương chạy
sâu xuống thấp thổi tung bay mái tóc dài của Lạc. Nàng vẫn cố sức chèo, chèo…
Gượng len vào vườn cây ra phía
sau bờ rào vạch trổ nhảy qua tới trên bờ mương trông chừng Lạc vì nổi nóng ruột
của mình và của bà Năm Lực khi nhìn thấy cơn mưa như chạy dần mờ mịt trên cánh
đồng. Lúc Gượng xoay lưng lại trông ngược lên quả gò nơi lão Năm Lực làm chòi
canh giữ vịt thì thấy chiếc ghe của Lạc chảy nhanh tới. Trông dáng lẻ loi trên
mương nước giữa buổi chiều giăng giăng mưa của Lạc, Gượng thấy quả sự nhớ
thương của mình không có gì quá đáng hết. Chính những hình bóng cô đơn lùi lũi
này của Lạc đã làm cho Gượng khó tưởng nghĩ tới ai tương tự hay vẽ thêm những
mơ ước nào riêng biệt mà không có bóng dáng Lạc thấp thoáng, nói cười. Mà không
có sự tham dự âm thầm của lão Năm Lực, mà không có tiếng nói của bà Năm Lực lẽo
đẽo khuyên nhủ con về chuyện tình và chuyện đời. Phải nói là Gượng đã thương
thầm nhớ trộm Lạc khi nàng còn ngồi may ở quán nhỏ bên này cầu đúc, cạnh khu
chợ xéo. Lúc nàng thu dọn quán may đi ngược lên chợ thì Gượng cũng lững thững
vác sào trở về. Hình như Lạc vội vã ghé vào chợ trước khi chợ tan nên nàng
không để ý tới Gượng. Trái lại đôi mắt Gượng không bò sót cử chỉ nào của Lạc
bởi làm sao lơ đãng được khi Gượng đã chuẩn bị rất nhiều cho những lần gặp gỡ
như thế ? Với Gượng, nỗi trông đợi buổi chiều trở về sao cho thấy Lạc đã
trở thành một thói quen hối thúc anh như khi nghĩ tới một điều gì quyến rũ làm
man man lòng dạ, làm bồi hồi tim óc. Có thể nói, con gái đừng có lo mình hiếm
muộn ế ẩm, mà phải lo sao cho mình duyên dáng nết na. Có muôn nghìn cặp mắt như
đôi mắt Gượng, sẽ không bỏ sót tí nào về họ. Khi những đôi mắt biết trông chờ
rạo rực như đôi mắt Gượng thì khó tránh nổi một cuộc tình sẽ nở ra. Nở ra tự
nhiên như lời thú thực của Gượng với lão Năm Lực: « Bác Năm, bác Năm à,
sao cháu ra đi nhưng nhớ thương em Lạc quá ».
Sau lời thưa gởi giản dị như
thế lão Năm Lực đã mặc nhiên coi Gượng như người con rễ trong nhà. Bà Năm Lực
thì tỏ ra vui mừng hơn với những lời lẽ ân cần, săn sóc cho Gượng như bất cứ
người đàn bà nào sắp gả con có chồng. Ngày anh lên phố tới tiểu khu trình diện,
Gượng giao trọn bầy vịt cho lão Năm Lực coi ngó, nhận ít tiền phòng thân, ra đi
như còn để lại muôn lời nhắn nhủ, hứa hẹn sẽ trở về với bầy vịt thường ngày. Lạc
quen mắt trông thấy Gượng bên cha, thiếu Gượng đi, nàng thấy cha càng tách biệt,
âm thầm. Từ cảm nghĩ mỏng manh này, dần dần sự thiếu vắng Gượng đã làm cho nàng
rời xa những câu chê trách Gượng cũ. Lúc đầu thì Lạc chê Gượng về hình dáng,
sau tới tính bài bạc. Câu chuyện do lão Nhẫn kể lại (không rõ có vô tình cố ý
chi nơi lão Nhẫn) rằng Gượng hồi mới vào nghề nuôi vịt đã mê bài quá chừng. Một
lần nào đó tới nhà lão giao tiền đặt cọc lấy vịt rồi đúng ngày trứng nở, con
lớn; Gượng mang đôi giỏ lên thua hết trong sòng bạc. Cuối cùng, Gượng phải xin
lại tiền cọc với hi vọng gỡ gạt để có tiền nhận vịt. Lão thương tình cho mượn
lại, rồi cũng thua hết. Thua liểng xiểng tới đôi giỏ cũng bán cho lão nữa thì
thiệt là thằng quá tay. Lão nói, với lão thì vậy, chứ như con mẹ Dậm thì đừng
có hòng mẻ trẻ lại tiền cọc, dễ gì mà để mất miếng ăn đã kề sát miệng? Sau đó
đàn vịt quá ngày không có mối bán sợ nó khô chân chết dần, lão phải làm khổ vợ
con mấy ngày chăm sóc ngoài đồng mới bán đổ bán tháo được cho con vợ thằng Lự.
Lúc lão Nhẫn chấm dứt câu chuyện, lão kết luận: « Cái thằng mê nhiễm bài
bạc kiểu này có ngày nó bán luôn vợ con chứ chẳng chơi đâu ».
Sự xa vắng
Gượng bên đàn vịt thường ngày với lão Năm Lực mỗi lúc một ít làm Lạc thấy ghét
những lời lão Nhẫn, nhất là khi nghe lời hỏi cưới nàng cho thằng cháu nào đó
còn nhỏ tuổi, nhưng làm trong sở Mỹ dư dả có thể nuôi nổi hai ba con vợ một
lúc. Tiền bạc dễ dàng vơ vét cũng sẽ dễ dàng bay đi. Tới lúc nó bay đi rồi, thì
không bao giờ hẹn dịp trở lại. Lúc đó hai ba con vợ của thằng cháu lão Nhẫn sẽ
vác cây mà đập nó chạy rông điên cuồng như thằng An du côn thằng Thành giết
mướn. Lạc sợ hãi và kinh tởm sự giàu sang do lão Nhẫn bẻm mép tô điểm cho thằng
cháu lão quá chừng; với Gượng nàng thấy yên ổn như bên đàn vịt thân thiết. Có
nỗi hạnh phúc nào êm đềm trong cuộc sống vồ vập, giành giựt, tham lam đâu? Lạc
quay về dần với tình yêu thương của Gượng sau ngày nhận được thư Gượng gởi về
với những lời lẽ nhớ thương tràn giang đại hải. Sự trống vắng do Gượng để lại
đã tô điểm đậm đà cho mối tình nàng. Và đêm đêm, nàng vẫn nuôi tròn những giấc
mộng một ngày nào trở về của Gượng bên đàn vịt.
Và bây giờ Gượng đã trở về dù
có hơi muộn màng khi những cánh hoa đã héo dần ánh nắng của một mùa xuân chờ
đợi, nhưng mãi mãi vẫn là ước mơ của Lạc nuôi nấng canh cánh bên lòng.
Trông thấy Gượng trong bộ đồ
trận thẳng thốm xa lạ từ đầu bờ mương sau vườn, Lạc dừng tay chèo. Chiếc ghe lơ
lững một khúc mương theo nỗi vui mừng chùng xuống trong lòng Lạc. Cho ghe xuôi
dòng nước một lúc, Lạc hối hả chèo tiếp. Chiếc ghe lại chao đi vội vã như những
bước chân ân cần nồng hậu chào đón. Gượng đi bộ trên bờ mương một quãng về phía
Lạc. Buổi chiều không có giờ giấc của mặt trời. Từ buổi sáng sớm hình như mặt
trời còn ngủ sầu trong mây.
Gượng lên tiếng đón Lạc:
- Cô Lạc lúc này chống ghe giỏi
dữ há?
Lạc cười (nụ cười hiếm hoi nở
tràn hai môi nàng):
- Cái gì tập mãi cũng được chứ?
Anh Gượng mới về…
Gượng phân trần (như được sắp
sẵn trong ruột từ trước):
- Đáng lí anh về hôm tết, về
không được buồn quá trời. Mấy ngày đó nằm mãi trong rừng không biết mùi bánh
chưng bánh tét.
Lạc bước ra khỏi ghe, ngước lên
nhìn Gượng:
- Ở nhà ai cũng nhắc anh hết,
có để giành mấy đòn bánh nhưng không chắc anh về, mới lấy ra ăn chứ đâu…
Gượng cười:
- Ăn thế anh cũng được, được về
là quí rồi. Đi lính mới thấy mấy ngày nghỉ phép là quí, không có chuyện khổ nào
khổ hơn làm lính cả.
Cả hai cùng quay lưng bước vào
vườn, mưa rắc hột reo trên cành lá. Gió thổi bay những cành lá khô, thỉnh
thoảng rơi xuống trước mặt hai người.
Lạc nói:
- Ông trời nổi khùng sao đó,
mùa này còn mưa…
- Mùa này mưa trễ, bây giờ mưa
thì phải rồi còn trách móc gì nữa.
- Ông trời để giành nước mưa từ
mùa đông, hèn gì mùa đông thực ngắn ít mưa như mấy mùa…
Sau lời nói, Lạc nổi lên cười
dài. Mưa xào xạc nặng nề trên cành là. Gượng chợt nắm tay Lạc níu chạy vào nhà…
Bà Năm Lực đã dọn sẵn mâm cơm
ngồi chờ Lạc và Gượng về ăn luôn một thể. Nghe tiếng cười rúc rích của Lạc ở
nhà sau bà mỉm cười quay lưng lại hỏi:
- Ai như con Lạc ở phía sau há
bay?
Lạc dạ một tiếng thật tỉnh táo,
nói con chứ ai vô đây nữa.
Có tiếng Gượng cười nhẹ phụ họa
theo lời Lạc.
Bà Năm Lực lại nói vói xuống:
- Hai đứa lên ăn cơm rồi dọn
dẹp kẽo tối…
Gượng theo lời gọi của bà Năm
Lực, bước lên trước. Mâm cơm đã bày giữa nhà, Gượng ngồi xuống trên một cái đòn
gỗ để sẵn chờ đợi. Lạc vuốt lại mái tóc giữ nét mặt thật bình thản sau khi bị
Gượng chận giữ lại ôm hôn nóng nảy, thật lâu.
Bà Năm Lực ngước lên nhìn con,
Lạc nói:
- Anh Gượng về muộn quá hết cả
bánh trái…
Bà Năm thở dài:
- Thây kệ, mắm muối gì có với
nhau là quí rồi.
Gượng tiếp lời:
- Đi lính nhiều bữa ở đói…
Dừng một lát, Gượng cười:
- Nhiều hôm ăn uống không hết
thức ăn...
Lạc ngồi xuống cạnh Gượng bới
cơm ra chén:
- Làm gì ở trong rừng mà có
thức ăn, anh Gượng?
- Hành quân đi qua làng nào
không có đồng bào, của bên kia kiểm soát, bắt gà…
Bà Năm Lực gắt:
- Không có đồng bào sao có được
gà, mày?
Gượng phân trần:
- Gà heo của mấy người bên kia
bỏ lại, bắt ăn. Mình không ăn thì họ cũng ăn, uổng quá.
Giọng bà Năm Lực lo lắng:
- Mày liệu hồn, ăn ở sao cho có
đức, ăn uống kiểu đó có ngày...
Gượng cười hề hề, nhìn thoáng
lên mặt Lạc:
- Nhiều bữa gặp được mấy chum
cá trong trại. bắt ăn không hết. Còn cây trái trong miền Nam ăn đã đời…Nhiều
bữa mới dọn cơm ra, phải chạy, bỏ lại cho mấy ổng ăn giùm...
Gượng vừa ăn cơm, vừa kể lại
những bận hành quân dài mấy chục cây số, qua làng này làng nọ dù mệt cũng tranh
nhau leo cây bẻ mít, hái dưa chặt chuối. Những lần gặp phải mìn, lựu đạn làm
bẫy nhử của mấy người bên kia, chết và bị thương cũng nhiều. Có hôm đi mãi khát
nước, gặp một chum nước mừng rỡ tới tranh nhau uống cũng bị mìn nổ. Mọi cách
rình mò để giết hại nhau cũng được Gượng kể lại ngây thơ rành rọt làm bà Năm
Lực ngầy ngật khó chịu. Còn Lạc thì áy náy lo lắng cho Gượng nhiều hơn. Ngồi
nghe Gượng, Lạc có cảm tưởng như Gượng đã trở về từ một cõi nào xa xăm bừng
bừng khói lửa, có muôn nghìn hố chông, mìn đạn chung quanh.
Gượng bỏ đũa xuống theo bà Năm
Lực, nói lơ lửng :
- Ai mà muốn đánh giết nhau làm
gì, thiệt khổ…
Trong lúc Lạc lui cui dọn dẹp
phía sau, Gượng ngồi ở võng nói với bà Năm Lực về chuyện vịt, chuyện trứng,
chuyện ruộng vườn. Với những lời nói này, bà Năm Lực thấy Gượng không có gì
khác lạ cả. Nó vẫn còn nhớ tới bầy vịt, miếng ruộng, khu vườn đó chứ? Nếu không
có đánh nhau, nó không đi lính, nó đâu biết chuyện súng đạn chém giết như nó
kể. Mỗi lúc, bà càng thấy nó tội nghiệp thiệt thà trong những lời lẽ đã nhắc
lại, Gượng tiếp tục nói với bà những mong ước của anh, ước mong nào cũng có sự
trở về bên đàn vịt với cảnh gia đình yên thấm. Dường như mỗi khi nó nói tới
chuyện trở về, bà trông thấy nó man mác buồn, nao nao lòng dạ.
Đột nhiên cả hai cùng yên lặng,
nhìn ra ngoài khung cửa lờ mờ bóng mưa. Ngoài bờ rào, cánh đồng mù mờ, chập
choạng tối. Sự vắng lặng êm ả của cánh đồng len vào ý nghĩ của cả hai người với
muôn nỗi khó nghĩ trong lòng.
Bà Năm Lực chợt hỏi:
- Con không về ngoài đó sao?
Gượng trả lời quả quyết nhưng
giọng ngập ngừng:
- Mưa quá, con ở lại một đêm…
Bà Năm Lực uể oải lui vào buồng
ngủ thì Lạc cũng đứng dậy đóng kĩ chốt cửa, vặn thấp ngọn đèn dầu. Nàng nói mấy
đêm không có anh, cả nhà ngủ sớm lắm, ngủ như gà, như vịt vậy. Cả xóm đều ngủ,
thức một mình dễ sợ quá. Mấy tháng trước còn đôi ba nhà ở kế cũng vui, nay họ
dọn ra ngoài quận, nhà mình còn lại buồn teo. Thiệt xui cho gia đình bà Hải,
vừa dọn lên Quận chưa đầy một tuần, bị pháo kích chết cả. Ở chỗ nào lúc này cũng
nghe toàn chết chóc cả há anh? Lạc tẫn mẫn nhắc kể lại những đổi thay ở xóm sau
ngày Gượng ra đi, câu nhắc nào cũng làm sững sờ tới lặng hồn. Chưa tròn một năm
sao lại có quá nhiều thay đổi dễ sợ đến vậy? Dù đã quen với súng đạn và nỗi
chết tươi tắn xót xa, Gượng lần này thấy rõ ràng súng đạn thật tàn nhẫn. Nỗi
chết thực bầm tím ruột gan. Từng lời nhắc nhở của Lạc như những mũi kim lần hồi
châm chích khơi dậy ở lòng Gượng những tưởng nhớ hãi hùng của mấy tháng làm
lính thú. Mấy mươi lần sống kề cận nỗi chết lẻ loi trong những đêm đi tiền đồn,
nhảy xông vào vùng ngập trời khói lửa mà chẳng có chút hi vọng trở về.
Gượng cố giữ giọng nói tự nhiên
khi nắm bàn tay Lạc:
- Nói chuyện khác đi, nghe
chuyện chết chóc hoài ớn quá…
Lạc cười:
- Chuyện gì?
- Chuyện gì khác chuyện đó…
- Vậy anh nói đi chớ.
Suy nghĩ một lát, Gượng giật
cánh tay Lạc về phía tay mình:
- Này, chuyện… bầy vịt của hai
đứa mình.
Lạc cười ngặt nghẽo, Gượng cười
theo nhưng chợt ra dấu chỉ vào buồng bà Năm Lực nói nhỏ, để bà già ngủ, bả dậy
bả chửi hết hai đứa cho mà coi. Lạc dừng cười, nhưng nhìn Gượng với đôi mắt còn
phảng phất âm thanh. Trong ánh mắt nàng, tuổi dậy thì cũng đã tràn đầy ham
muốn, lơi lả. Thấy Lạc nhìn mình đăm đăm, Gượng mất hẳn tự nhiên. Dù sao, lần
gặp gỡ riêng biệt này với Gượng thật là hiếm trước đây. Ít khi Gượng được ngồi
nói chuyện bên Lạc mà vắng bà Năm Lực. Sự vắng mặt bà Năm gợi dậy những ước
muốn đã có lần sắp đặt, nghĩ tới; nhưng lại khiến Gượng ngỡ ngàng xúc động vì
sự điềm nhiên bắt đầu trổi dậy những đòi hỏi trêu ghẹo ở Lạc. Trong lúc Gượng
thì lúng túng bỡ ngỡ từng tia nhìn khó
xử tránh né Lạc, nàng lại cười hồng hai má. Có lẽ Lạc đang thích thú với nỗi
tưởng nghĩ ôm ấp bấy lâu trong những ngày vắng bóng Gượng sao đó. Tới lúc con
gái dở chứng thực cũng dễ sợ chứ chẳng chơi.
Gượng rời tay giữ Lạc, vặn tắt
ngọn đèn dầu. Tiếng gió bên ngoài thổi ào ào qua mái tranh nghe rõ từng cơn.
Đêm hoang dã biền biệt nín thở chung quanh. Gượng đứng dậy, bước ra khỏi bàn,
kéo tay Lạc lại giường trong lúc nàng nổi lên tiếng cười cung cúc thật trong
trẻo, lơi lả.
- Anh làm gì vậy?
Lạc hỏi giọng âu yếm, ranh
mãnh; Gượng trả lời, anh có làm gì đâu. Gượng dằn Lạc nằm xuống giường, ôm lấy
nàng. Anh vội vã tháo mở tung những cúc áo và áp mặt lên bờ ngực Lạc nóng bỏng,
dồn dập hơi thở...
Hình như có tiếng gõ cửa, Gượng
nằm im nghe ngóng cố phân biệt với tiếng động của những cơn gió lay chuyển mái
hiên nhà. Đúng là tiếng gõ cửa. Gượng ngồi chồm dậy, di chuyển trong tối. Tiếng
gõ cửa gấp rút hơn, khi Gượng đã ra tới quãng nhà sau. Gượng nghe tiếng Lạc hỏi
thảng thốt như trong giấc ngủ đê mê vừa bị lôi dậy. Ai đó? Ai gọi cửa? Tiếng
trả lời cằn nhằn thôi thúc mở cửa, mở cửa không? Lạc quơ cách tay tìm Gượng,
nàng biết Gượng đã bỏ trốn trước khi nàng thức dậy. Nàng nghe hơi thở dồn dập
rung động trong lồng ngực tê lạnh vì để trần. Lạc mặc vội chiếc áo.
- Sao không mở cửa, cô Lạc?
Lần này Lạc nhận ra tiếng của
thằng Sáng, con lão Ba Ưng. Nó đi vắng biệt lâu nay, giờ ở đâu lại trở về? Nàng
chợt nhớ tới những lời chọc ghẹo của Sáng lúc trước, vững bụng một chút.
- Làm gì gấp vậy, anh Sáng?
- Mở cửa nhanh lên …
Lạc đứng thẳng dậy, nghe có
nhiều tiếng chân người di động rầm rập trong sân. Lạc nhón gót tháo chốt cửa…
Tiếng hỏi ồn ào làm bà Năm Lực
thức dậy. Khi bà trở ra Lạc đã thắp sáng ngọn đèn dầu trên bàn. Ngoài sân,
loáng thoáng những ánh đèn pin trong màn mưa đục.
Sáng ra dấu cho một gã nông dân
lực lưỡng trói cắp ké hai tay mẹ con bà Năm Lực lại, rồi quơ ánh đèn pin dò dẫm
từng hóc tối. Lạc thấy thằng Sáng đêm nay không có chút gì giống thằng Sáng mỗi
chiều ngoài bờ mương tát nước, theo ghẹo nàng. Giọng nói nó cũng không phảng
phất những lời lẽ quê mùa hiền khô năm cũ. Có lẽ nào nó đã đổi khác nhanh chóng
như vậy? Ai đã dạy cho nó những câu nói hằn học, thù hằn xa lạ như thế kia? Bà
Năm Lực sửng sốt, đôi mắt trân tráo chứa đầy nước mắt cay đắng. Những giọt nước
mắt mà đã có lần bà khóc khi tiễn Nha xuống tàu, lúc đưa lão Năm Lực lên quận…
Lạc nghe nhiều bước chân chạy
dồn đuổi tận phía sau vườn xen với tiếng lá cây lay động trong gió. Một lúc,
Gượng được hai người đàn ông để mình trần, quần cụt, bắt dẫn vào trước mặt
Sáng. Gượng nhận ra Sáng - thằng bạn thân lúc tóc còn để chỏm, định reo lên gọi
nhưng hắn đã vẫy tay cho lôi Gượng ra ngoài.
Vẫn để nguyên đôi tay của mẹ
con bà Năm Lực bị trói cắp ké, Sáng nhịp nhịp khẩu súng:
- Phản động, mẹ con bà rồi sẽ
bị treo án…
Sáng quay phắt lại, bỏ đi. Gió
ùa vào thổi tắt ngọn đèn dầu trên bàn. Phía ngoài không còn nghe tiếng dấu
chân, chỉ có tiếng mưa rơi và gió thổi siết. Đêm thanh vắng quái dị. Trong nhà,
bóng tối mù lòa nao núng trong đôi mắt mẹ con bà Năm Lực chan hòa nước mắt.
Chợt, một tiếng nổ vang lên từ mé mương sau vườn như mũi kim đâm suốt vào lòng
Lạc uất nghẹn, vào lòng bà Năm Lực tê điếng. Lạc nổi khóc to lên và nghe rõ
tiếng khóc mình xa lạ, thãm thiết.
Bà Năm Lực rời rã ngồi thụt
xuống, toàn thân như mềm nhũn - mơ màng
nghĩ tới một chốn nào để không còn phải nghe tiếng súng…
Tháng 2 năm 1970
MANG VIÊN LONG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét