ĐỌC
LẠI NHỮNG TRANG THƠ CŨ
Tạp
Bút
MANG
VIÊN LONG
Một dịp gần cuối tháng 2 /2014, tôi vào
Saigon để tái khám tim, sau khi đến thắp hương cho Nhà thơ Chu Trầm Nguyên
Minh, người bạn văn cùng đi có nhã ý mời chúng tôi đến quán “Đất Phương Nam” để
thư giản đôi chút, bởi lâu lâu tôi mới từ quê vào thành phố một lần. Lời mời của
người bạn, khiến tôi nhớ lại lời hứa với nhà thơ Chu
Trầm Nguyên Minh từ ba tháng trước khi cùng gặp nhau ở quán Café AQ (với các
anh Đỗ Hồng Ngọc, Lữ Kiều, Sâm Thương, Nguyên Minh, và Kinh Dương Vương), là
chuyến vào tái khám lần sau, sẽ gặp nhau…
Chiều Mồng 1 Tết,
Nguyên Minh đã phone cho biết, CTNM đã về lại nhà, theo lời anh “bệnh viện chê
rồi, cậu ơi!”. Tôi vẫn nghĩ, ít ra, dù không cùng ngồi quán nhâm nhi tách café sáng,
mà cười nói đủ chuyện vui như dạo nào, nhưng vẫn còn nhìn thấy nhau. Không ngờ
(cuộc đời vẫn có những lần “không ngờ” đau
lòng), CTNM đã đi về phía nghĩa trang buổi sáng Chủ Nhật, thì buổi chiều Chủ
Nhật tôi mới lên tàu…Sáng sớm thứ 2, tôi và ba người bạn văn đã hẹn nhau, cùng
đến thắp hương cho CTMN...Dịp nầy, tôi cũng đã xin chị Tâm thêm 2 nén hương, để
thắp cho CTNM theo lời nhắn gởi của các anh Từ Vũ và Hoàng Lộc. Một hình bóng
thân yêu bao năm, đã dần dần xa hút…
Tôi rất vui nhận lời,
cùng đến quán “Đất Phương Nam” để được hội ngộ anh em, sống thêm cho những kỷ
niệm thân yêu, mà có lẽ - với hoàn cảnh của tôi (và hình như cũng của tất cả),
thời gian được sum vầy hạnh phúc như thế rất hiếm, trong quỹ thời gian hữu hạn
của đời người còn lại. Chúng tôi đã gặp nhau: Các anh Lê Nghị, Nguyên Cẩn, Võ
Chân Cửu, Nguyễn Thanh Châu, Nguyễn Văn Nhật, Trần Trung Áng, Nguyễn Hữu Duyên,
Lê Phương Châu, và Hải Âu.
Chúng tôi cùng “nâng
ly & cụng ly” chúc nhau thêm được nhiều niềm vui, nhiều sáng tác mới. Trong
dịp nầy, anh Lê Nghị đã gởi tặng cho riêng tôi hai ấn phẩm quý mà anh còn giữ
dù đã trải qua hơn 40 năm thăng trầm của thời cuộc, của đời người! Đó là tập
thơ “Hát Rừng” của anh (XB tháng
12.1972), và “Tuyển Tập Thi Ca” (số
1, mùa thu tháng 10 năm 1971), gồm thơ
của Trần Thị Tuệ Mai, Lê Nghị, Trần Xuân Kiêm, Huy Tưởng, Trụ Vũ, và Nguyễn Hữu
Nhật.
Thật là một bất ngờ
rất hạnh phúc, vì với những tác giả ấy, tôi đã từng đọc nhiều, có người quen
thân, nhưng đã lưu lạc từ nhiều chục năm nay chưa được gặp lại; tôi nghĩ, hôm
nay, nhận được tập thơ nầy, coi như tôi đã “gặp lại” những người bạn văn ấy
rồi! Tôi bổng nhớ tới nhà thơ Huy Tưởng vào mùa hè năm 1969, một lần ghé thăm
tôi ở quê nhà An Nhơn, trong chuyến vào lại Saigon từ Tam Kỳ trên chiếc xe
Citroen bốn chỗ ngồi, đã gởi tặng cho tập thơ “Mưa Trong Vườn Chiêm Bao”
của anh vừa xuất bản, in trên giấy
satine lán rất trang nhã, mỹ thuật, cho dầu
thời điểm ấy chuyện in ấn cho mỹ thuật là rất công phu, tốn kém. Tập thơ
ấy (và bao tác phẩm khác của bạn văn,
của chính tôi, đã không còn, sau 75).
Về lại quê, những
ngày tháng yên vắng, hiu quạnh - tôi đã nhâm nhi từng bài thơ cũ trong “Tuyển
Tập…” mà tìm lại chút sinh khí một thời, tìm thêm niềm an ủi để có thể tiếp tục
cuộc sống. Quả thật, những trang thơ cũ này đã cho tôi rất nhiều niềm vui, hạnh
phúc về một thời tuổi trẻ cùng nhau say mê văn chương…
Trần Thị Tuệ Mai
với bài “Vu Quy” viết theo thể thơ bốn chữ, bốn câu – dài 11 đoạn, nhắc tôi nhớ
một thời “mê” thơ của chị. Nếu không có gì ngại ngùng, phải nói, tôi đã “yêu”
thơ chị: Những bài thơ trong sáng, hồn nhiên, tràn đầy cảm xúc yêu thương ấy,
đã từng khiến tôi mơ tưởng. Có lẽ. Tuệ Mai viết bài “Vu Quy” nầy, trước khi
(hay đang khi) bước lên xe hoa, tạm khép lại quảng đời xuân thì thơ mộng, yên
ã?
“Một lần khép nép
chào biệt mẹ cha
phận con là gái
như hạt mưa sa
Một lần e lệ
bước lên xe hoa
khép trang nhật ký
thôi giòng viễn mơ”
Tâm sự của người
con gái thập niên 60 sống trong vòng lễ giáo nghiêm nhặt của thế kỷ trước,
trước khi xa gia đình, rời đời sống riêng, để bước sang một trang đời mới, đã
được Tuệ Mai ghi lại rất sâu sắc:
“Thôi chăn gối lẻ
gửi lại giường xưa
ủ giùm cho nhé
hương đào ngây thơ
Thôi bàn học cũ
sách vở từng năm
nhớ người tóc xõa
ôn bài dưới trăng”.
Tất cả những kỷ
niệm êm đềm của một thời con gái, một thời thơ ngây, một thời mơ mộng, một thời
hé mở yêu thương đã được Tuệ Mai kín đáo “gởi
khu vườn nhỏ”( bởi vì nhà thơ đâu còn biết “gửi lại” cho ai trong nếp sống
vốn khép kín, lặng thầm?)
“Gửi khu vườn nhỏ
Ngày tháng nô đùa
Chân chim khuyên nhảy
Dưới tàng lá thưa
Gửi khu vườn nhỏ
Những sáng thường qua
Dấu chân lưu luyến
Giòng mắt mong chờ
Gửi khu vườn nhỏ
Những thoáng say mơ
Của mùa e ấp
Sen ngó đào tơ”
Tuệ Mai đã rất chân
thành chia sẻ cảm nghĩ về thân phận người con gái “như hạt mưa sa” của thập
niên 60, mà chính nhà thơ cũng đang là “một hạt mưa sa” giữa dặm trường đời
sống:
“(…)
Là thôi là tắt
tiếng hát ngây thơ
từ lòng sen ngó
từ nụ đào tơ
Gót hài hôn lễ
đưa bước xa nhà
theo câu phận gái
như hạt mưa sa”
Nhà thơ Lê Nghị có 3
bài trong tuyển tập: Một Sáng/ Tường Vi/ Chùa Hoang. Với hơi thơ êm nhẹ, tròn
đầy; Lê Nghị của thập niên 60 xưa chẳng khác hôm nay bao nhiêu. Thơ anh luôn
trong sáng, chân tình, sâu lắng như con người của anh vậy. Cách nay hơn 40 năm
- Lê Nghị đã có những câu thơ 5 chữ ngọt ngào, nhẹ tênh:
“lụa nào xanh đỉnh biết
tơ nào vàng đáy khe
rừng khuya nào im tiếng
con bướm xưa vụt về…
thời gian nào mây đi
không gian nào đá ngủ
đầu ghềnh, cây tích trượng
nở một đóa tường vi”
(Tường
Vi)
Bài “Chùa Hoang” đã cho tôi hiểu thêm về thơ
Lê Nghị: Thơ anh luôn thắm đượm đạo vi, bên cuộc nhân sinh trầm luân điên đảo.
ngay từ dạo ấy. Những nét chấm phá tiêu biểu như vết cắt về một mái “chùa
hoang” đã đầy ắp tâm tình người lữ khách:
“ mái chùa cũ
chút hồn xưa
ngói rêu cỏ mọc trên trưa
nắng nồng
trúc đào nở
đỏ từng bông
bên khe giếng ngọc biệt
dòng nhạn bay
mây trời trắng
tượng ngủ say
vẳng mưa dưới núi tháng
ngày có, không
ngõ chùa vắng
áo sư ông
gió tung năm trước còn
mong chi về”
Lục bát của Trần Xuân Kiêm 40 năm trước đã
sáng lên một nét sáng tạo hiện đại, đỉnh đạt; trong hồn thơ tân kỳ, tự nhiên:
“đưa
người qua suốt rừng đông
đồi cao còn nở mấy bông
sương mù
đưa người qua cuối rừng
thu
dấu chân bổng tạc trong
mù sương sa
đưa người đưa nửa hồn ta
nhìn nhau rồi cũng như
tà dương kia”
(Đưa
Người Trên Rừng Đại Ninh)
“Về Thăm Nhà Cũ Ở Blao” đầy tâm trạng chân
tình:
“đêm qua mưa lũ ta về
đứng im như tượng bên
hè nhà xưa
một hồn rũ rượi trong
mưa
nhớ ơi ngọc trắng ngày
xưa cát lầm
cỏ cây vườn cũ lạnh căm
quỳ hòn còn thấy xa xăm
dáng người”
Còn “Tóc Thơm” thì tràn dầy cõi mộng thương
yêu:
“người đứng hiên ngoài nghiêng mái tóc
vô tình để rớt một làn hương
trời ơi! ta thấy mây
tiền kiếp
bay suốt hồn ta vắng
lạ thường”
Huy Tưởng với 6 bài,
gồm 3 bài lục bát và 3 bài tứ tuyệt tám chữ. Đây là 2 thể thở sở trường rất đặc
biệt của nhà thơ Huy Tưởng đầu thập niên 60 - nhất là lục bát của anh đã một
thời sáng lên như một biểu tượng lạ trong sinh hoạt thi ca miền Nam .
Bài “Trang Đầu
Mộng” (tặng Ph. Th):
“Dấu sương in vết chim hồnỒ
Khi về dón bóng tà
trông ngóng Người
Chiều lên muôn dặm mù
khơi
Hai bàn tay lạnh buốt
lời chiêm bao
Tuần trăng u hiển
tuôn trào
Nghìn trang đầu mộng bước vào đề thơ…
Ồ cây lá buổi nguyên
sơ
Ồ thông ngàn réo bên
bờ tử sinh
Nơi đây cuối nẻo
biên đình
Đá sương âm
vọng thác ghềnh hư không
Ta nằm chết lục sầu
đông
Máu khô tóc lặng môi
xông hương Người…”
Tôi còn nhớ, tập
thơ “Mưa Trong Vườn Chiêm Bao” của
Huy Tưởng (có lẽ XB năm 69) - có nhiều bài thơ nói đến “chiêm bao”? Giấc chiêm
bao trong thơ anh thật da diết, thật đằm thắm, và đôi khi cũng thật ngậm ngùi theo
anh mãi cho đến sau nầy! Tôi có cảm nghĩ, có lẽ nhà thơ đã sống thường trực
trong chiêm bao giữa đời thực, nên thơ anh luôn bị ám ảnh bởi những giấc “chiêm
bao” huyền hoặc cô liêu - “áo sương chùng trăng lấm bụi chiêm bao” (mà cuộc đời
quả thật là một giấc chiêm bao dài) :
“Người rớt lại giữa chiều thu năm cũ
Áo sương chùng trăng
lấm bụi chiêm bao
Trời cổ nguyệt băng
hồng đau lá mỏng
Ta nằm nghe máu đỏ
giạt phương nào?”
Nhà thơ - nhà thư
pháp Trụ Vũ cũng đã góp mặt với 5 bài thơ, trong đó có 3 bài tứ tuyệt. Trụ Vũ
đến với thơ, và thư pháp rất sớm, đến nay ở tuổi trên 80 ông đã có khoảng 30
tập thơ, phần nhiều là thơ viết về Đạo. Tập thơ mới nhất của ông có tựa “Hương
Cà Phê” đã được giới thiệu năm ông 80.Tôi rất ngưỡng mộ ông về mãng thơ Đạo -
giản dị, thâm trầm, sâu lắng; chứa chất bao thực chứng từ đời sống ưu phiền khổ
đau của kiếp nhân sinh. Trụ Vũ đã viết “Con
Chim Ột Rột”cách nay gần nửa thế kỷ:
“Con chim ột rột vườn tôi
Nó đan cái tổ tuyệt vời
bằng thơ
Tổ vàng trong gió đong đưa
Trời biêng biếc, tổ buồn
trưa…ạ ời…
Xa quê mấy chục năm
trời
Nhớ chim ột rột tưởng
lời ca dao
Lên non cho biết non
cao
Nuôi con cho biết công
lao mẹ hiền
Những khi trán nặng ưu
phiền
Nhớ rơm nhớ rạ trổ chim
đan tròn
Chênh chênh nguyệt xế
đầu non
Phất phơ tóc bạc sợi
còn vương mây”
Nguyễn Hữu Nhật
với bài thơ “Tháng Mười Ở Đâu Em Vinh”
dài 10 đoạn thơ 7 chữ 4 câu. Đây là một bài thơ tình hay trong số những bài thơ
tình lãng mạng thơ mộng vào thập niên 60 đã được giới thiệu. Bên cạnh nét trữ
tình cổ điển thời tiền chiến, thơ Nguyễn Hữu Nhật còn có tính hiện thực rất
nhạy bén, phong phú. Xin trích chia sẻ 5 đoạn đầu:
“Sợ nhất lúc buông nhau
mùa gió
bao nhiêu chăn phủ
chẳng ấm đời
giường gỗ mộc run lên tiếng lạnh
nhớ hơi người đến chết
mất thôi
Lũ bàn ghế đứng im một
chỗ
nghe buồn tênh thớ gỗ
mọt kêu
sắp đứt mong manh từng sợi nhỏ
những tơ trời nhện dở
dang treo
Nếu thật chờ nhau mà
hóa đá
thì xin thử đợi một
lần xem
chỉ ngại khi tôi thành
núi biếc
ngàn năm không thấy
dấu chân em
Cho đến lúc hào quang
tan biến
em trườn mình như một con sâu
rơi thong thả trong
vườn hoa chuối
những nắng vàng óng ánh
tóc nâu
Tôi dại dột để chiều mang
đi
chiếc đĩa lớn đầy lòng
trứng đỏ
khi yêu nhau ai cần bày
tỏ
(miệng và tai câm điếc
biết gì?) (…)”
Xin cảm ơn “những trang thơ cũ”, đã cho tôi phút
giây sống lại một thời tuổi trẻ hào hoa, hào khí - không bao giờ quên!
Thân mến tặng anh Lê Nghị
Quê nhà, tháng 3/ 2014
MANG VIÊN LONG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét