Tản Mạn -
8 NGÀY Ở TRUNG QUỐC
Thái Quốc Mưu
* Sơ lược Địa Lý, Lịch sử Trung Quốc:
Lãnh thổ Trung Quốc trải
dài trên 50 vĩ tuyến từ Bắc xuống Nam. Bao phủ cả vùng xích đạo, vùng nhiệt
đới, ôn đới và hàn đới. Từ Đông sang Tây, quốc gia nầy bao trùm 62 kinh tuyến,
rất nhiều núi rừng, cao nguyên, thảo nguyên, sa mạc, đồng bằng...
Nằm ở hướng Đông Nam châu
Á, Trung Quốc có diện tích 9.6 triệu cây số vuông - nhỏ hơn Canada, lớn hơn Hoa
Kỳ, có đường biên giới trên 20.000 cây số, chung với Việt Nam, Lào, Miến Điện,
Ấn Độ, Bhutan, Nepal, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Kyrgyz Stan,
Kazakhastan, Nga, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên và có bờ biển dài 18.000 cây số. Và,
Trung Quốc là một trong những quốc gia có chiều dài lịch sử lâu nhất thế giới.
Chữ viết cổ của Trung Quốc
được cải biến và hiện nay đang sử dụng, có trên 4006 năm. Là một quốc gia có
những nền văn minh gần 3.600 năm.
Trong khi huyền thuyết
phương Tây cho rằng “Thượng Đế tạo ra Trời Đất và con người.”
Còn ở Trung Quốc, theo Lão
Tử thì “Đạo sanh một, một sanh hai,
hai sanh ba, ba sanh vạn vật. Một đó là Thái cực, Hai đó là Âm Dương, Ba đó là
Tam Thiên Vị (Ba ngôi: Thái cực, Dương và Âm). Âm và Dương thâu nhận Sanh quang
từ ngôi Thái cực, rồi vừa xung đột vừa hòa hiệp, để tạo thành trời đất, vũ trụ
và vạn vật. Cho nên theo ông, trong vạn vật đều có Âm Dương: Vạn vật đều có
cõng một Âm và bồng một Dương.”
Còn theo cổ thư của Trung
Quốc thì mô tả: “âm dương đại biểu cho hai dạng vật chất tồn tại phổ biến trong
vũ trụ, một dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và một dạng có
âm tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược... Hai thế lực âm và dương tác động lẫn
nhau tạo nên tất cả vũ trụ.”
Ngày nay khoa học đã chứng
minh những huyền thuyết đó, chỉ là cách nghĩ của những con người ở thời kì đồ
đá thô sơ mà ra.
Ở Trung Quốc, các nhà khảo
cổ học, đã tìm thấy những con người hóa thạch cách đây trên 3 triệu năm. Đó là
chứng tích có thể chứng minh, Trung Quốc từng là một trong những cái nôi của
loài người. Và, Trung Quốc có ông Bành Tổ sống đến 800 năm.
Lãnh thổ Trung Quốc rộng
bao la nên có rất nhiều sắc tộc, và trước khi lập quốc, để sinh tồn, những sắc
tộc ấy sống từng bầy, từng đàn vừa để chia xẻ thức ăn vừa để bảo vệ lẫn nhau.
Nhìn về một vài góc cạnh, sự kết hợp nhau để chung sống là điều tốt, nhưng
chính nó đã gây và tạo ra nhiều mâu thuẩn, tranh giành giữa bầy, đàn nầy với bầy,
đàn khác. Chiến tranh xảy ra.
Thuở ấy, Nghiêu là người
hiền, lãnh đạo đàn, bầy hay hơn tất cả, đứng ra kết hợp các bầy, đàn lại và làm
Vua. Khi Vua Nghiêu già, yếu không truyền ngôi cho con mà truyền ngôi lại cho
người hiền khác đó là Thuấn. Vua Thuấn truyền ngôi cho Vua Vũ. Lịch sử gọi xã
hội thời ấy là “Xã hội hòa thuận”.
Đến khi Nhà Hạ lập quốc thì
cái “lệ” truyền hiền bị phá vỡ.
* Nhà Hạ:
Lập quốc từ thế kỷ 21 đến
thế kỷ 16 trước Công nguyên. Truyền 17 đời vua, kéo dài 400 năm. 16 đời vua
trước là những vị minh quân, lấy nhân nghĩa trị dân. Đến khi vua Kiệt lên ngôi,
Kiệt là một hôn quân, đam mê tửu sắc, bị Thành Thang đánh đổ lập nên Nhà
Thương.
* Nhà Thương:
Sau khi lật đổ Nhà Hạ, Vua
Thành Thang lên ngôi, lập thành Nhà Thương từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 11 trước
Công nguyên. Nhà Thương trị vì được 600 năm, với 31 đời vua.
Vua Thành Thang thấy được
nhược điểm của Vua Kiệt, đổi chính sách cai trị, lấy lòng nhân mà đãi dân chúng
và nổ lực chiêu hiền đãi sĩ, nhiều nhân tài tìm đến. Thời đó, Vua Thành Thang
xây dựng được nền kinh tế lớn mạnh cho con cháu nhiều đời sau.
Vua sau cùng của Nhà Thương
là Trụ Vương là một tên hôn quân bạo chúa, đam mê nhan sắc Đắc Kỷ, giết hại
trung thần. Chu Võ Vương hưng binh phạt Trụ, lập thành Nhà Chu.
* Nhà Chu:
Nhà Chu, từ thế kỷ 11 đến
năm 711 trước Công nguyên. Sau khi diệt Trụ, Chu Võ Vương đóng đô ở đất Cảo,
thuộc tỉnh Thiểm Tây, vì vậy, các nhà sử học gọi là Nhà Tây Chu.
Nhà Tây Chu trị vì gần 800
năm, đến đời U vương thì mất nước. U vương là một ông vua tuy không bạo tàn như
vua Trụ, nhưng say mê gái đẹp, đốt phong hỏa đài gạt chư hầu đổi lấy nụ cười
nàng Bao Tự, nên bị mất nước vào tay quân Khuyển Nhung.
Sau đó, Bình Vương, cháu
nhiều đời của Chu Vũ Vương, kết hợp một số quần thần cũ, lập nên Nhà Đông Chu,
đóng đô ở Lạc Dương, nhưng triều đình thoái hóa, hoàng đế chỉ còn là hư vị, chư
hầu thao túng, loạn lạc triền miên, gây ra thời Xuân Thu Chiến Quốc.
* Thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Thời nầy lại
chia ra làm hai giai đoạn:
- Xuân Thu từ
năm 770 đến 476 trước Công nguyên.
- Chiến Quốc,
từ năm 476 đến 221 trước Công nguyên.
* Thời Xuân Thu:
Các sử gia gọi thời Xuân
Thu là lấy theo tên một cuốn sách của Khổng Tử. Thời ấy, Trung Quốc bị cắt chia
ra thành nhiều mảnh vụn, với 150 nước. Trong đó, các nước lớn là Tề (Tề Hoàn
Công); Tống (Tống Tương Công; Tấn (Tấn Văn Công; Tần (Tần Mục Công, Sở (Sở
Trang Vương) sách sử gọi năm nước đó là Ngũ Cường, còn gọi năm vị vua đó là Ngũ
Bá.
Các nước lớn, nhỏ, thường
đem binh chinh phạt nhau làm cho Trung Quốc thời kỳ đó vô cùng hỗn loạn, dân
tình đảo điên, khổ sở. Mãi đến năm 579 và năm 546 trước Công nguyên, Tấn với Sở
ký hòa ước, hoàn bình mới tạm thời vãn hồi vùng Trung Nguyên.
Sau đó, hai nước Ngô, Việt
nổi dậy giành quyền thống trị Trung Nguyên. Ban đầu nước Ngô đánh bại nước
Việt. Việt Câu Tiển, tin dùng Phạm Lãi, dùng mỹ nhân kế, đưa nàng Tây Thi sang
Ngô. Nhà Ngô không nghe lời của Ngũ Tử Tư, bị sụp đổ.
Theo sách sử, thời Xuân Thu
có 36 vị vua bị giết và 52 nước chư hầu bị xóa sổ.
* Thời Chiến Quốc:
Cuộc chiến thời Xuân Thu
kéo dài, cuối cùng còn lại bảy nước mạnh nhất: Tề, Sở, Yên, Hán, Triệu, Ngụy và
Tần. Thời đó, gọi bảy nước đó là Thất Hùng.
Bảy nước đó, mở mang bờ cõi
bằng cách gây chiến tranh, cấu xé lẫn nhau và xâm chiếm rồi sát nhập các nước
yếu hơn vào nước mình để thống trị.
Nước Tần ở hướng Tây, diệt
12 nước, sát nhập vào lãnh thổ Tần. Năm 256 trước Công nguyên, nước Tần lật đổ
Nhà Đông Chu.
Năm 221 trước Công nguyên,
nước Tần dẹp 6 nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, lập nên Nhà Tần.
* Nhà Tần:
Sau khi lập đổ Nhà Đông
Chu, kết thúc thời Chiến Quốc. Thống nhất giang san, Tần Thủy Hoàng bãi bỏ và
cải cách chính sách cai trị. Quyền bính đều về trung ương, mở thành trang sử
mới “trung ương tập quyền” đầu tiên ở Trung Quốc.
Tuy thời gian cai trị chỉ
có 15 năm (từ 221 đến 206 trức Công nguyên), nhưng Nhà Tần đã để lại nhiều sách
lược quốc gia ảnh hưởng lớn lao và các triều đại sau nầy vẫn noi theo.
Để bảo vệ biên giới phía
Bắc, Nhà Tần cho xây Vạn Lý Trường Thành. Một dãy trường thành cách nay đã trên
2.200 năm, vẫn còn sừng sững, trơ gan cùng mây gió.
Khi lên ngôi, Tần Thủy
Hoàng mới 13 tuổi, chịu áp lực của Tể Tướng Nhiếp Chính Lã Bất Vĩ, nhưng Tần
Thủy Hoàng rất thông minh, am tường chính trị, đến 22 tuổi vị vua nầy nắm chặt
quyền bính trong tay, trở thành nhà chính trị đại tài.
Tần Thủy Hoàng chia Trung
Quốc thành 36 quận, đứng đầu quận là một quan Thái Thú, tất cả những cơ sở từ
địa phương đến quận đều chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt của chính quyền Trung
Ương. Ngoài ra còn sửa đổi thống nhất đơn vị đo lường và chữ viết. Ông khuyến
khích dân xuống phương nam khai hoang lập nghiệp...
Khi xây Vạn Lý Trường
Thành, Tần Thủy Hoàng cưỡng bức hàng triệu người đến để làm dân phu, đa số
thành phần đó là quan quân chiến bại của sáu nước vừa mất. Vì vậy gây phẫn nộ
trong giới nầy không ít, vì thế nó ảnh hưởng đến đế chế Nhà Tần. Bọn sĩ phu 6
nước ấy xúi giục dân chúng nổi dậy. Nhân cơ hội, Lưu Bang khởi nghĩa, lật đổ
Nhà Tần lập Nhà Hán.
* Nhà Hán:
Sau bốn năm giao tranh ác
liệt với Hạng Võ (từ 198 đến 202 trước Công nguyên), Lưu Bang chiến thắng. Bốn năm
sau nữa dẹp xong các phần tử đối nghịch (202-206). Lưu Bang lên ngôi lập nên
Nhà Hán. Đế hiệu là Cao Tổ. Và, Nhà Hán trị vì Trung Quốc đến năm 24 sau Công
nguyên. Sử sách gọi thời kỳ nầy là Nhà Tây Hán.
Trong thời gian trị vì
Trung Quốc, Lưu Bang rút ưu khuyết điểm của Nhà Tần mà kiện toàn quốc sách. Về
mặt chính trị, đáng chú ý nhất là ban hành đạo luật giải phóng nô lệ, giảm bớt
sự phụ thuộc của nông dân vào thương nhân, loại bỏ những sự rườm rà từ luật
pháp Nhà Tần để kiện toàn luật pháp Nhà Hán. Kêu gọi quân lính giải ngũ về quê
và cấp nhà cửa ruộng vườn cho họ sinh sống.
Khuyết điểm của Lưu Bang là
ban phát nhiều lãnh địa tự trị cho họ hàng và các tướng lãnh. Vì vậy, về sau
mới có cuộc “Nổi loạn của Bảy Vương Quốc”. Thời may, Hán Đế dẹp tan loạn nầy.
Vũ Đế, nối nghiệp Cao Tổ,
mở rộng bờ cõi, đồng thời chinh phạt, đánh tan giặc ngoại xâm. Khi đánh đuổi
quân Hung Nô ra khỏi biên giới, đẩy chúng đến tận sa mạc Gobi phía Bắc.
Vũ Đế là người sáng lập ra
“Con Đường Tơ Lụa”, để chuyển hàng hóa hai chiều Đông - Tây và ngược lại. Nhờ
con đường tơ lụa nầy mà hai dòng tư tưởng Đông - Âu gặp nhau.
Những năm cuối của Nhà Tây
Hán, nhiều vị hoàng đế còn thiếu niên đã ngồi trên ngai vàng, quyền thế lọt vào
tay các nhiếp chính. Vì thế, xảy ra nạn quần thần tranh giành quyền lực, vương
quyền bắt đầu suy sụp. Các cuộc nổi dậy chống Nhà Hán tràn ngập khắp Trung
Nguyên. Đến năm thứ 8, sau Công nguyên, Vương Mãng - một người có họ hàng với
hoàng hậu, đứng lên xưng vương. Năm 23, (sau Công nguyên) Vương Mãng bị quân nổi
loạn giết chết. Hai năm sau, Lưu Tú là cháu nhiều đời của Hán Cao Tổ, đứng lên
kêu gọi con cháu quần thần còn trung thành với Hán Đế và nông dân nổi dậy, lập
ra nhà Đông Hán.
* Nhà Đông Hán:
Sau khi lên ngôi, Lưu Tú
đóng đô ở Lạc Dương, nổ lực cải tổ nền cai trị, nhưng gặp thời không may, hạn
hán xảy ra nhiều nơi, người dân trở nên đói khổ, Lưu Tú tận lực giải quyết bằng
cách miễn và hạ mức thuế xuống mức tối đa, tiếp tục thi hành luật giải phóng nô
lệ, giảm bớt quyền lực của thái giám và đào kinh dẫn nước, khuyến học, chẳng
bao lâu nền kinh tế phục hồi.
Ngoài ra, qua “con đường tơ
lụa” Lưu Tú đã phát triển ngoại giao với 50 nước phương Tây. Tiếp nhận nền khoa
học, kỹ thuật mới. Thời ấy, Trung Quốc đã biết gây mê trong phẫu thuật, giấy đã
sản xuất theo công nghệ. Hồi giáo, Phật Giáo cũng theo con đường tơ lụa xâm
nhập Trung Quốc. Trong 32 năm trị vì, Lưu Tú đã làm cho Trung Quốc trở nên
cường thịnh.
Cuối thời Đông Hán, “giặc”
Khăn Vàng và nông dân nhiều nơi nổi dậy. Trong khi ở phương Bắc, Tào Phi (con
Tào Tháo) lại xưng vương nhà Ngụy. Trung Quốc lâm vao tình trạng phân chia.
* Thời Tam Quốc:
Năm 220 (sau Tây lịch), Tào
Phi xưng Đế ở phương Bắc. Năm sau (221), Lưu Bị xưng Đế ở đất Thục. Đến năm 229
thì Tôn Quyền xưng đế ở nước Ngô. Thế là, Trung Quốc bị chia cắt làm ba vùng
cai trị khác nhau. Sử sách gọi đó là “Thời Tam Quốc”.
Sau khi Tào Tháo thua trận
Xích Bích (do Lưu Bị và Tôn Quyền hợp lại đánh), kéo quân thẳng về phương Bắc
mở mang nông trại cho quân dân, xóa bỏ quyền lực của các đại điền chủ, của
hoàng tộc và những đặc quyền của thái giám, tận dụng nhân tài... Tào Tháo thật
sự là một nhà chính trị đại tài. Nhưng sử sách Nhà Hán gọi Tào Tháo là gian
hùng, bởi vì, quan Ngự Sử là người hưởng lộc của triều Hán. Hiện nay, các nhà
sử học Trung Quốc đang nghiên cứu và viết lại thực chất của Tào Tháo trong lịch
sử Hán Triều. Khi Tào Tháo mất, Tào Phi tiếm quyền xưng đế.
Trong khi ở Thục Hán Lưu Bị
cũng cố gắng xây dựng đất nước và kết hợp tốt với nhiều dân tộc thiểu số, thì
ở Đông Ngô, Tôn Quyền phát triển mạnh
nghề biển.
Năm 263 nước Ngụy đánh tan
nước Thục Hán, Nhà Thục Hán chỉ tồn tại 42 năm, với hai đời vua. Năm 265, quan
trọng thần của Ngụy là Tư Mã Viêm lật đổ nước Ngụy xong, đánh chiếm luôn nước
Ngô (năm 280) lập thành Nhà Tấn. Thời Tam Quốc cáo chung.
* Nhà Tấn:
Sau khi đánh tan Ngụy và
Ngô (nước Thục đã bị Ngụy thôn tính trước rồi) Nhà Tấn đóng đô ở Lạc Dương. Sử
sách gọi là Nhà Tây Tấn.
Nhà Tây Tấn chỉ tồn tại có
51 năm (từ năm 265 - đến năm 316, sau Tây lịch), đây là một triều đại rất nhiều
hỗn loạn. Những xung đột giữa các dân tộc và giữa các nhà quý tộc càng ngày
càng dữ dội. Họ ganh đua từ của cải; tranh nhau cách xa hoa. Trong cung đình
bọn quan lại tha hồ tranh nhau về quyền lực. Cuộc chiến tranh “không đổ máu”
nầy kéo dài 16 năm, làm suy sụp kinh tế, xã hội và ngay cả vương quyền.
Trong khi bên ngoài, “rợ” Hung
Nô tự xưng là con cháu nhà Hán, hưng binh đánh chiếm Lạc Dương (năm 308). Những
người trốn thoát, chạy đến Tràng An, lập ra vua mới. Quân Hung Nô lại tràn ngập
Tràng An (năm 316), chấm dứt nhà Tây Tấn.
Nhà Tây Tấn có 4 vì vua,
trị vì 51 năm.
* Nhà Đông Tấn:
Sau khi Tây Tấn tan rã, một
số hoàng thân quốc thích và cựu thần cũ chạy về phía Đông sông Dương Tử. Một
người trong hoàng tộc xưng đế (năm 317) lập nên Nhà Đông Tấn. Chọn Kiên Khang
làm Kinh Đô.
Những kẻ có công giúp dựng
nên nhà Đông Tấn là những người có đặc quyền đặc lợi, nhưng họ xuất thân từ
những vùng khác nhau, nên việc tranh chấp quyền bính, thế lực vô cùng hiểm ác.
Họ trừ khử lẫn nhau.
Những cuộc nổi loạn bên
ngoài tràn ngập, nhưng không được chính quyền quan tâm. Những bộ tộc đấu đá
nhau tranh giành từng mảnh đất đai, không ai giải quyết.
Khi tướng Lưu Du dẹp yên
các cuộc nổi loạn, bèn giết vua, tự xưng vương, lập nên Nhà Tống.
Nhà Đông Tấn có 10 đời vua,
trị vì được 103 năm thì mất về tay Lưu Du.
Bấy giờ, Trung Quốc bước
vào thời kỳ phân chia mới, kéo dài suốt 272 năm.
* Nam Bắc Triều:
Sau đời Tấn, Trung Quốc
hoàn toàn bị phân rã. Hai cực Nam, Bắc có nhiều thể chế khác nhau. Từ năm 420
đến ăm 589, lịch sử đất nước nầy, Trung Quốc đã chứng kiến nhiều cuộc hưng
thịnh, suy tàn nhiều nhất.
Ở phương Nam trong vòng 160
năm có bốn nước kế tục nhau là Tống, Tề, Lương và Trần. Bốn nước nầy đều lấy
Nam Kinh làm Thủ Đô, nên sử sách gọi chung là Nam Triều.
Trong 160 năm ấy, những vì
vua của các nước trên thực sự có quyền lực trong khi các nhà phú hào, quý tộc
lần hồi bị diệt vong. Những nhà học giả, trí thức có đất dụng võ. Họ được trọng
dụng.
Trên phương Bắc, Hoàng Đế
Bắc Ngụy thống nhất vùng sông Hoàng Hà (năm 439), lập ra Bắc Triều.
Người Bắc Triều thuộc giòng
giống Thát Bạt, nhưng rất yêu chuộng văn hóa Hán. Các vị vua Bắc triều lại
khuyến khích dân chúng nên ăn mặc theo người Hán, lấy vợ gã chồng cho người
Hán, đồng thời cũng cất nhắc người Hán làm quan trong triều. Vô hình trung,
người Thát Bạt bị Hán hóa lúc nào không hay.
Năm 581, tướng Dương Kiên
ép vua Ngụy nhường ngôi, lập nên nhà Tùy.
* Nhà Tùy:
Dương Kiên lên làm vua,
xưng là Văn Đế (năm 581) dời đô về Lạc Dương. Sau khi lên ngôi, Văn Đế liền
quyết tâm thống nhất đất nước, nổ lực kiện toàn quân bị, năm 589 đánh bại nước Trần
phương Nam, thống nhất Nam, Bắc. Khi lên ngôi, Văn Đế bỏ tất cả các đặc quyền
đặc lợi của hàng quý tộc và hoàng thân quốc thích, xóa khoảng cách giữa kẻ giàu
người nghèo, cắt đất đai người giàu cho bần nông theo tỷ lệ số người trong nhà,
đồng thời mở và kiện toàn khoa thi cử, chọn người hiền đức ra giúp nước. Hệ
thống thi cử của Nhà Tùy tồn tại suốt 1.300 năm sau.
Thời kỳ nầy, Phật Giáo phát
triển mạnh mẽ, những vị Đại Sư kiến thức uyên bác, đạo hạnh sâu rộng xuất phát
nhiều nơi ở Trung Nguyên.
Đáng tiếc, đến đời Dạng Đế,
vì ăn chơi sa đọa, loạn lạc nổi lên, đến năm 618 Dạng Đế bị Lý Uyên, kẻ tùy
tùng thân tính giết chết.
Nhà Tùy chỉ tồn tại có 38
năm với 2 đời vua. Đây là một trong những triều đại ngắn nhất Trung Quốc.
* Nhà Đường:
Nhà Đường là một đế quốc
hùng mạnh, giàu có, phát triển nhất chẳng những trong lịch sử Trung Quốc mà cả
trên thế giới vào thời kỳ đó. Ảnh hưởng Nhà Đường trải rộng đến các lục địa Âu,
Á và châu Phi. Tràng An trở thành Trung Tâm Văn Hóa Đông - Tây.
Về phương diện Văn Hóa, Văn
Học đã đưa triều đại nầy vượt lên cao hơn hẳng tất cả các triều đại trước.
Nhà vua tước quyền cai trị
thị tộc của các địa phương. Hệ thống thi cử được hoàn thiện, việc thi cử được
mở rộng tạo điều kiện cho mọi tầng lớp đều có cơ hội tham gia thi cử...
Bộ Luật Nhà Đường được hoàn
chỉnh năm 624. Đây là Bộ luật hoàn chỉnh đầu tiên của Trung Quốc.
Đến đời vua Chiêu Tôn, vì
không biết cai trị, triều chính bị nhiễu loạn, kinh tế suy sụp. Toàn Trung sai
bộ hạ giết Chiêu Tôn rồi lập Ai Đế làm vua. Sau đó, Toàn Trung ép Ai Đế nhường
ngôi cho mình. Lập nên Nhà Hậu Lương.
Nhà Đường trị vì được 290
năm (từ năm 618 đến năm 907). Bị mất về tay Toàn Trung.
* Thời kỳ Ngũ Đại và Thập Quốc:
Sau khi đế quốc Nhà Đường
sụp đổ, Trung Quốc thêm một lần nữa bị chia năm, xẻ bảy. Ở Miền Bắc có năm nước
nhỏ, gồm: Hậu Lương (907-923); Hậu Đường (923-936); Hậu Tấn (936-946); Hậu Hán
(947-950) và Hậu Chu (951-960). Mỗi nước chỉ cai trị một thời gian ngắn ngủi.
Trong khi ở phương Nam chia
thành 10 nước, gồm: Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Mân, Nam hán, Nam Bình, Tiền
Thục, Hậu Thục và Bắc Hán.
So với các nước phương Bắc,
những nước phương Nam tình hình chung được ổn định hơn nhiều.
Trong tất cả các nước ở hai
cực, nước Ngô Việt cai trị lâu nhất, 85 năm.
Sách sử gọi đó là thời kỳ
Ngũ Đại và Thập Quốc.
Trong suốt 53 năm (từ năm
907 đến năm 960) ấy, Trung Quốc lâm vào cảnh hoàn toàn suy sụp.
Từ năm 955, Phật giáo ở
phía Bắc rất lớn mạnh, nhiều thanh niên vào chùa để trốn lính (giống như thời
kỳ trước 4/75, thanh niên trốn quân dịch, dưới sự bao che của các linh mục ở xứ
đạo, các nhà sư ở chùa (!). Vì thế, chính quyền quyết định thế tục hóa trên 30
ngàn ngôi chùa. Đẩy bọn sư sãi ra đi...
Đến năm 960, tướng Triệu
Khuông Dẫn tiến hành cuộc bạo loạn, lên ngôi vua, xưng là Tống Thái Tổ. Khai
nguyên nhà Tống.
* Nhà Tống:
Nhà Tống lần lượt đẹp tan
thời Ngũ Đại và Thập Quốc.
Trên mọi phương diện, Nhà
Tống được người dân Trung Quốc xếp ngang hàng hoặc vượt cao hơn hai triều đại
Nhà Hán và Nhà Đường.
Trên ba trăm năm thống trị
Trung Quốc, Nhà Tống, vào thời kỳ đó, đã đưa đất nước nầy lên tột đỉnh vinh
quang. Tất cả mọi lãnh vực kinh tế, kỹ thuật, khoa học, trí thức, nghệ thuật...
đều thi nhau tiến hành tốt đẹp.
Thời kỳ nầy, các sử gia so
sánh giống như thời kỳ Phục Hưng ở châu Âu.
* Bắc Tống:
Triệu Khuông Dẫn lên ngôi,
đóng đô ở Biện Kinh. Với nhiều kinh nghiệm chiến trường vị vua nầy nổ lực tổ
chức một quân đội “không có và không thể đảo chánh”. Giới lãnh đạo binh nghiệp,
là những người chịu kiểm soát chặt chẽ từ trung ương. Nhà vua nổ lực cải tổ hệ
thống hành chánh, tuyển dụng quan lại và tổ chức thi cử chọn nhân tài. Thay thế
giới lãnh đạo quân sự từ hàng quý tộc, chuyển sang những người có thực tài, nhờ
đó đất nước được ổn định và phát huy được nhiều mặt trong nhiều năm.
Từ năm 1086 về sau bất đầu
có sự suy thoái do sự bất đồng ở tầng lớp quan lại cùng với các cuộc nổi dậy
của nông dân.
Trong khi đó, ba nước đối
nghịch với Tống là Liêu, Kim và Tây Hạ luôn đe dọa và xâm phạm biên cương. Đến
năm 1126 quân Kim bao vây rồi chiếm Biện Kinh. Năm 1127 vua Tống bị hạ bệ. Kết
thúc triều Bắc Tống. Nhà Bắc Tống lập quốc từ năm 960 đến năm 1127 thì mất
nước. Trị vì được 167 năm.
* Nhà Nam Tống:
Khi quân Kim bắt vua Khâm
Tôn và gia quyến về Kim. Cao Tôn trốn xuống phương Nam tiếp tục triều đại Nhà
Tống. Sử gọi là Nam Tống. Thực chất, triều Nam Tống không có quyền lực, luôn
bất ổn và chỉ kiểm soát được vùng phía Nam sông Dương Tử. Cao Tôn là ông vua
nhu nhược, phá vỡ mọi nổ lực cải tổ và tấn công của Tể Tướng Lý Cương. Trong
khi đó, ở phía Bắc Trung Quốc, ba nước Mông Cổ, Kim và Tây Hạ luôn thù địch,
đấu đá nhau khốc liệt.
Khi quân Kim tràn xuống
phía Nam sông Dương Tử, Cao Tôn phải nghị hòa, chấp nhận triều cống.
Chẳng bao lâu, quân Mông Cổ
đánh bại quân Kim, sau cùng chiếm hẳn nước Kim. Vua Mông Cổ bắt đầu ghé mắt đến
Nhà Tống. Năm 1276, Mông Cổ chiếm được Lâm An. Kế thúc Tống trào.
* Nhà Nguyên:
Sau khi thôn tính Nhà Tống,
Hốt Tất Liệt lên ngôi Hoàng Đế, nhưng ông ta không phải là người chính trị
giỏi, nên việc cai trị vẫn theo đường lối chính trị của các nhà vua Trung Quốc.
Trong thời gian 1340 đến
1350, chính trị Nhà Nguyên bất ổn. quần thần chia rẽ trầm trọng, loạn lạc dấy
lên, thiên tai hoành hành. Những tay buôn lậu và nông dân do Chu Nguyên Chương
cầm đầu đứng lên lật đổ Nhà Nguyên. Vua cuối cùng Nhà Nguyên tháo chạy về Mông
Cổ, trong khi quan chức và dân Mông Cổ vẫn ở lại Trung Hoa, dần dần bị đồng hóa
thành dân tộc Hán.
Nhà Nguyên xâm chiếm và trị
vì Trung Quốc được 89 năm (từ năm 1279 đến năm 1368), với 11 đời vua.
* Nhà Minh:
Sau khi lật đổ Nhà Nguyên,
Chu Nguyên Chương lên ngôi, ban đầu đóng đô ở Nam Kinh, sau di dời sang Bắc
Kinh. Đây là triều đại cuối cùng người Trung Quốc tự cai quản đất nước mình.
Vào thế kỷ thứ 15, Nhà Minh
đạt được đỉnh cao quyền lực: chiếm Mông Cổ, chinh phục Mãn Châu, cai quản Tây
Tạng. Triều Minh cũng là một trong các triều đại thịnh vượng nhất Trung Quốc.
Để ngăn giặc Bắc phương,
Nhà Minh cho sửa chữa và xây dựng hoàn tất Vạn Lý Trường Thành đã bị dở dang từ
các triều đại trước.
Năm 1644, Lý Tự Thành nổi
dậy chiếm Bắc Kinh. Khi ông còn đang thương lượng với tướng Nhà Minh là Ngô Tam
Quế, thì tên nầy rước quân Mãn Châu vào. Kết thúc Nhà Minh.
Triều đại Nhà Minh có 16
đời vua, trị vì được 276 năm (từ năm 1368 đến năm 1644
* Nhà Thanh:
Nhà Thanh vốn tộc Mãn Châu từng
được người Nữ Chân xây dựng và tuyên bố là Hậu Kim Triều năm 1616 tại Mãn Châu,
năm 1636, đổi tên thành "Thanh", và mở rộng vào lục địa Đông Á và các
lãnh thổ xung quanh, lập nên Đại Thanh Quốc. Bao gồm các quốc gia: Trung Quốc
(1644-1659), Đài Loan (1683), Mông Cổ (1691), Tây Tạng (1751), Tân Cương (1759)
Đại Thanh thống trị Trung
Quốc từ năm 1644 đến năm 1911 (268 năm). Đây là triều đại phong kiến cuối cùng
ở Trung Quốc. Sau khi lật đổ Nhà Minh, vua Thanh cho thi hành chính sách trả
lại đất đai, ruộng vườn cho dân, đồng thời giảm tất cả các loại thuế khóa. Nhờ
đó, nền kinh tế nông thôn Trung Quốc phát triển nhanh chóng.
Trong các vì Vua Thanh cai
trị Trung Quốc, nổi tiếng tài ba lỗi lạc, chăm lo cho dân nhất là vua Càn Long.
Càn Long chăm lo đời sống người dân đến mức những dũng sĩ trong phong trào “Phù
Minh, diệt Thanh” khi nhận lệnh ám sát Càn Long đã vào đến cung điện nghe huấn
dụ của Càn Long phải hết long cứu đói, cứu lụt lội,… lại trở ra đành phải buông
kiếm thốt lên: “Ông vua nào cũng là vua, tại sao ta phải giết hại một ông vua
hết lòng chăm sóc lo lắng cho dân?”
Những vị vua cuối cùng của
Nhà Thanh bất tài, kiêu ngạo và bạo ngược vì thế năm 1911 Bác sĩ Tôn Dật Tiên
(Tôn Trung Sơn) làm cuộc cách mạng, lật đổ Nhà Thanh. Nhà Thanh cai trị Trung
Quốc 268 năm với 10 đời vua.
* Nước Cộng Hòa Trung Quốc.
(từ năm 1911 đến năm 1949) do Thống Chế Tưởng Giới Thạch cầm đầu trong cương vị
Tổng Thống.
Năm 1950 (?) Tưởng Giới
Thạch bị Mao Trạch Đông đánh bại phải chạy sang đảo Đài Loan.
Sau khi chiếm lĩnh Trung
Quốc, Mao Trạch Đông đổi quốc hiệu thành Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, gọi
tắt là Trung Quốc. Áp đặt chế độ cai trị hà khắc lên tộc Hán từ ấy đến nay.
Như vậy, người khai sáng ra
Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là Mao Trạch Đông. Nhưng, hiện nay người dân
ở Trung Quốc, xếp hạng những nhà lãnh đạo đất nước họ như sau:
- Thứ nhất: Quốc phụ Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên)
- Thứ hai: Đặng Tiểu Bình
- Thứ ba: (không nhớ)
Và thứ tư:
- Mao Trạch Đông.
Thế mới biết, bất cứ người
lãnh đạo nào đem đến cho người dân cuộc sống ấm no, sang giàu, người đó sẽ được
nhân dân tôn thờ. Ở Trung Quốc Đặng Tiểu Bình làm được điều đó. Còn ở Việt Nam
- Ai đây?
* Du Lịch:
Thông thường, tùy theo
tuyến, nhưng đa số các tuyến du lịch đến Trung Quốc thường được đưa đến tham
quan các nơi: Quảng trường Thiên An Môn, Tử Cấm Thành, Tây Hồ, Tô Châu, Hàn
Châu, Ngũ Dương Thành, Thượng Hải, Bắc Kinh, , Vạn Lý Trường Thành, Miếu Nhạc
Phi, Công ty Tơ Lụa, Tống Thành, Viện Ngọc Trai, Viện Phong Thủy Quốc Gia, tháp
truyền hình Đông Dương Minh Châu, Thái Y Viện, du thuyền trên sông Hoàng Phố,
Hàn San Tự, Phố Nam Kinh, Bắc Kinh Lộ, Chùa Phật Ngọc, Trà Long Tĩnh ở Mai Thôn
Trang, Thập Tam Lăng, v.v...
* Tử Cấm
Thành, gọi tắt là Cấm Thành, cho đến ngày nay, Cấm Thành vẩn còn là một bảo
tàng cung điện lớn nhất và hoàn hảo nhất ở Trung Quốc.
Triều đại Nhà Minh xây dựng
cung điện nầy từ năm 1406, phải mất 14 năm mới hoàn thành. Tất cả 24 đời vua
cùng hoàng tộc Nhà Minh đều cư ngụ nơi đây. Đến năm 1911, Phổ Nghi, vị vua cuối
cùng Nhà Minh bị buộc thoái vị, họ mới rời khỏi nơi đó.
Năm 1987 UNESCO (United
Nations Educational, Scientific, and Cultural Organi- zation (Cơ Quan Văn Hóa
và Giáo Dục Liên Hiệp Quốc) công nhận Tử Cấm Thành là Di Sản Văn Hóa Thế Giới.
Cấm Thành có dạng hình chữ
Nhật (日), từ Bắc xuống Nam dài 960 mét, ngang từ Đông sang
Tây 750 mét. Bên trong có 9.999 (chín ngàn, chín trăm, chín mươi chín) phòng,
tổng diện tích mái nhà 150.000 mét vuông.
Bên ngoài đào một hào rộng
52 mét, gần sát đó là một bức tường cao 9.9 mét bao quanh. Cấm Thành có 4 cửa
Đông, Tây, Nam, Bắc. Ở 4 góc thành có 4 tháp canh hình bát giác.
Để hoàn thành công trình vĩ
đại trên. Nhà Minh phải sử dụng 230.000 thợ thủ công và 1 triệu người lao động
trong 14 năm.
Đá cẩm thạch dùng xây dựng
trong Cấm Thành được lấy từ ngoại ô Bắc Kinh. Loại đá năm màu được khai thác từ
Hà Bắc. Gạch lót được nung từ những lò gạnh nổi tiếng ở miền Nam Trung Quốc.
Gạch đỏ và màu đỏ tươi dùng
xây tường lấy từ tỉnh Sơn Đông. Gỗ quý lấy ở Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quý Châu, Hồ
Nam và Vân Nam.
Ngọ Môn Quan còn gọi là Ngũ
Phụng Lầu ở phía Nam - Tác giả thấy cần mở ngoặc ở đây để nói thêm, vì sao công
chính (Ngọ Môn Quan) đặt ở phương Nam?
Bởi, Bắc - Nam là hai cực
đối diện, phương Bắc nằm ở trên, phương Nam nằm phía dưới. Theo quan niệm của
người Trung Quốc, Thiên Tử (Con Trời) được Thượng Đế ủy thác xuống trần gian
chăn trị muôn dân. Do đó, chỗ ngồi của Hoàng Đế được đặt cao hơn tất cả mọi nơi
(tức là phương Bắc) và ngai vàng của Nhà Vua, khi ngồi luôn quay mặt về hướng
Nam (nơi thấp nhất) để dễ dàng cai trị.
Trong gia đình người Trung
Quốc xưa (hiện nay vẫn còn), nơi bàn ăn (hay bất cứ chỗ nào hội tụ đông người)
gia chủ (hay tộc trưởng) luôn luôn ngồi ở đầu bàn, mặt nhìn về hướng Nam, kẻ
ngồi đối diện với gia chủ hay tộc trưởng, mặt quay về hướng Bắc là người có vai
vế thấp nhất.
Lịch sử nước ta, những vị
vua thần phục và chịu triều cống Trung Quốc, khi nhận được chỉ dụ của Hoàng Đế
Trung Hoa, bắt buộc phải quay mặt về hướng Bắc, quỳ xuống lạy ba lạy, rồi ngửa
hai bàn tay, nâng cao lên khỏi đầu mới nhận chiếu chỉ.
Cấm Thành được chia làm
hai, nội điện và ngoại điện. Bên ngoài Ngọ Môn Quan, mỗi bên có đặt tượng một
con sư tử bằng đồng, biểu tượng uy quyền bất tận và phẩm giá vô nhị của Nhà
Vua.
Tượng con sư tử ở mé đông
đang “hí cầu” (chơi bóng) là đực. Quả bóng tròn tượng trưng cho toàn vẹn, thống
nhất lãnh thổ.
Tượng sư tử đối diện bên
kia là con cái, dưới chân nó có chú sư tử con, tượng trưng cho việc vĩnh viễn
kế thừa ngôi báu.
Hiện nay, dù trong chế độ
công sản, nhưng tất cả những cơ quan công quyền ở Trung Quốc trước cửa đều có
đặt một hay hai tượng sư tử to lớn. Và, xem đó là biểu tượng quốc gia. Người
Việt chúng ta, thường hay bắt chước, thấy thế cứ mua (hay thỉnh) tượng sư tử
đem về đặt trong hay trước cổng nhà.
Trên thực tế đó là điều
không nên. Vì, theo lý giải của Viện Nghiên Cứu Phong Thủy Quốc Gia Trung Quốc,
từ lâu người Trung Quốc xem 4 linh vật tượng trưng cho uy quyền và nghề nghiệp
là:
1. Rồng là biểu tượng của
Bậc Quân Vương, được thiết trí trong cung đình hoặc đồ dùng của Vua, Chúa.
2. Sư Tử biểu tượng của Quốc
Gia, nên được đặt ngay cửa chính ở tất cả các nơi cơ quan chính quyền.
3. Kỳ Lân, biểu tượng của
uy quyền công lý, hiện nay vẫn được đặt ngay cửa chính ở tất cả các Tòa Án.
4. Kỳ Hươu, biểu tượng của
may mắn, thành công và hạnh phúc được đặt ở trước cửa những cơ sở thương mại,
tư gia, v.v...
Khi du lịch Trung Quốc, chỉ
cần thấy các linh vật ấy đặt ở đâu, là ta sẽ biết ngay ở đó là cơ quan công
lực, tòa án hay cơ sở thương mại.
Những ai đặt sư tử ở nhà là
không đúng, vì theo lý giải của Viện Phong Thủy Quốc Gia Trung Quốc, Sư Tử là
chúa sơn lâm, là con vật cao hơn tất cả các loài vật khác, nếu đặt tượng sư tử
trong nhà, gia chủ sẽ bị trấn áp, đè bẹp không thể vươn lên được. Chỉ có Quốc
Gia mới có đủ uy lực để chế ngự Sư Tử, vì người lãnh đạo quốc gia là Long Thể
(mình Rồng), là Thiên Tử (con Trời), thứ bậc cao hơn Sư Tử.
- Kỳ Lân là linh vật biểu
hiện của công bằng, uy quyền của luật pháp, không nên đặt ở nhà, vì nghề thương
mại là tìm tư lợi, không thể đòi hỏi công bằng... đặt Kỳ Lân ở nhà thì ngành
nghề sẽ không phát triển.
- Kỳ Hươu, biểu tượng của
ngành nghề thương mại, sự may mắn, hạnh phúc và thành công, rất thích hợp cho
các ngành nghề, sản xuất, thương mại.
Cho đến bay giờ, người
Trung Quốc vẫn đặt Kỳ Hươu trong nhà hay trước cửa cửa hiệu thương mại của
mình. Và, họ cho rằng, khi đến trước tượng Kỳ Hươu vừa cầu nguyện vừa vuốt
tượng Kỳ Hươu mọi sự sẽ được như ý.
Phong Thủy là một vấn đề
hết sức huyền bí, mọi bí ẩn về phong thủy cho đến nay vẫn còn là một ẩn số. Có
điều, cho dù hiện nay nước Cộng Hòa Nhân Nhân Trung Quốc là một quốc gia Cộng
sản thứ thiệt, chẳng những người dân mà ngay cả chính quyền cũng tuyệt đối tin
tưởng và nâng nó lên tầm vóc quốc gia. Nếu phong thủy chỉ là một thứ dị đoan,
huyền hoặc, mơ hồ thì làm thế nào nó chinh phục được các cấp lãnh đạo Cộng Sản
và qua mặt được các nhà khoa học Trung Quốc?
(Xin nói thêm, những ai đã từng đến Seoul, thủ đô Hàn
Quốc, sẽ không khỏi ngạc nhiên, vì sao các nhà lãnh đạo đất nước nầy không làm
việc ở cố cung mà xây dựng dinh thự ở đối diện bên kia đường? Vì, theo phong
thủy, phía sau cố cung không có chỗ dựa, khó thể bền vững lâu dài; còn mặt
trước bị ngăn trở bởi núi non thì không thể phát triển. Dinh thự mới thì xây
dựng ngược lại, phía sau dựa vào núi lấy thế đứng, chỗ dựa bền vững, phía trước
thoáng, bằng, thuận lợi cho sự phát triển. Rất hợp với phong thủy. Khi mua nhà,
những người hiểu biết ít nhiều về phong thủy thường chọn nhà ở phía sau có núi,
đồi hay ít ra sân sau phai bằng phẳng, không chúi xuống. Phía trước, sân nhà
cần hơi có độ cao để tiến lên).
Tất cả những kiến trúc
trong Tử Cấm Thành đều có hai màu chính. Tường màu đỏ, tía, mái màu vàng. Tạo
nên sự tương phản mạnh mẽ, hài hòa, dễ bắt mắt. Và nó còn tượng trưng cho uy
quyền và sự giàu sang của đế chế.
Ở Trung Quốc (và trước kia,
ở Việt Nam ta) màu vàng tượng trưng cho quyền lực đế vương. Vì, theo thuyết ngũ
hành, màu vàng tượng trưng cho đất, chiếm vị trí trung tâm là biểu tượng của
chính quyền trung ương. Màu đỏ, biểu hiệu của tôn nghiêm, may mắn, tốt lành
tượng trưng cho long trọng và hạnh phúc.
* Vạn Lý Trường Thành:
Vạn Lý Trường Thành, cách
Bắc Kinh 75km về hướng Tây Bắc, được xây dựng vào thời Chiến Quốc (từ năm 476
đến năm 221 trước Công nguyên), đây là những đoạn tường chiến lược được xây
dựng từng đoạn dọc theo biên giới phía Bắc bởi những quốc gia thời đó. Đến năm
221 trước Công nguyên, sau khi lên ngôi Tần Thủy Hoàng quyết định nối kết các
đoạn tường ấy thành một dãy dài. Vào thế kỷ thứ 16 Nhà Minh tiếp tục hoàn thành
từ đèo Thượng Hải đến tỉnh Tân Cương, tổng cộng chiều dài trên 6.700 cây số.
Điểm cao nhất thuộc vùng Balading cao 800 mét so với mặt biển.
Sử liệu cho biết, trên một
triệu người, tức khoảng 1/5 dân số Trung Hoa thời đó, đã bị xung công làm việc
trên mười năm mới hoàn thành bức tường ấy.
Có lẽ Vạn Lý Trường Thành
là bức tường chiến lược cổ nhất, dài nhất trên thế giới và cho đến nay nó vẫn
còn tồn tại từng phần ở nhiều nơi.
Theo thời gian, thiên nhiên
xóa mờ dấu vết những đoạn tường thành đã hoặc chưa tìm thấy được. Khi viếng Vạn
Lý Trường Thành, chúng ta chỉ thấy được một phần nhỏ bức tường do Nhà Minh xây
dựng. Những đoạn tường nầy ở gần Bắc Kinh, cao khoảng 6 - 7 mét, xây bằng những
tảng đá lớn và những viên gạch lớn được kết dính bằng đất và đá hòn. Trong khi,
hầu hết những đoạn tường khác chỉ xây dựng bằng đất với đá hòn (người viết chưa
tra cứu được Đá Hòn là chất gì? Phải chăng đó là những hòn đá trứng, tròn tròn,
nhỏ, rắn chắc, na ná như hột mít không?
Suốt chiều dài ở các điểm
cao của bức tường đều có xây cất tháp hiệu ở hai bên tường. Khi thấy kẻ thù
xuất hiện, quân canh, gác liền đốt lửa hiệu báo động.
Mặt tường rộng từ 4 đến 5
mét đủ để cho năm con ngựa chạy ngang nhau. Dọc theo tường đều có hệ thống
phòng ngự, các pháo đài, lỗ châu mai đều xây dựng bằng gạch.
Vạn Lý Trường Thành được
xây dựng theo hình thể thiên nhiên, nó chạy qua núi, khe, đồi và các dốc đứng
thẳng. Nhiều khối đá dài cả 2 mét, nặng cả tấn cũng được đưa lên bằng sức
người, ngựa, dê hoặc bằng sức các thú vật khác. Số lượng gạch đá để xây Vạn Lý
Trường Thành, người ta ước tính có thể xây một bức tường quanh trái đất dày 1
mét, cao 5 mét (?).
Đoạn tường gần Bắc Kinh dài
629 cây số, trong đó có khoảng 100 cây số là nơi còn tốt nhất, một vài chỗ ở
đoạn tường nầy đã được tái thiết hồi năm 1949.
Ngoài ra, đoạn tường thành
Bát Đạt Lãnh ở huyện Hoài Nhu cách Bắc Kinh 79 km là nơi du khách thường đến
nhất. Đoạn tường thành quanh Bắc Kinh được xây dựng khoảng 1.400 năm về trước.
Phân đọan tường thành vùng Bát Đạt Lãnh được Nhà Minh (1368 - 1644) xây dựng
lại và hoàn tất vào thế kỷ thứ 15.
Đoạn tường Simatai, cách
Bắc Kinh 110 cây số, dài 19 cây số, có tất cả 135 vọng gác. Đây là nơi tham
quan rất ngoạn mục, khi nhìn nó như con rắn khổng lồ uốn khúc lên đỉnh núi rồi
vụt trườn mình xuống vực sâu. Tháp gác Wangjinglou trên sườn núi cao 986 mét,
đó là đỉnh Simatai cũng là chỗ nguy hiểm nhất. Muốn đến vọng gác Wangjinglou,
du khách phải đi trên một cầu vượt,
ngang chưa đến 1 mét, không có tay vịn, phía dưới vực sâu 500 mét. Cho đến nay,
ít có người dám đặt chân lên tháp.
Đoạn tường thành Gubeilou
dài 21 cây số, nằm ở phía Đông cách trung tâm thành phố Bắc Kinh 128 cây số.
Đoạn tường nầy bắt đầu xây dựng năm 1368, đến năm 1567 Nhà Minh nối dài, mở
rộng thêm. Hiện nay nó vẫn còn giữ vẽ đẹp nguy nga, ngoại trừ một vài nơi bị
pháo binh Nhật phá hủy trong cuộc chiến năm 1937 - 1945, đoạn tường thành nầy
vẫn đứng hiên ngang trên các đỉnh núi với độ cao từ 400 đến 900 mét. Mặt thành
của đoạn tường thành rộng hẹp khác nhau, có nơi 5 con ngựa có thể chay ngang
nhau và chỗ hẹp nhất chỉ một người lách qua.
Từ tháng 7 năm 1984 đến
tháng 9 năm 1986, những nhà tài trợ trong và ngoài nước Trung Quốc đã đóng góp
được 2.7 triệu dollars để sửa chữa lại Vạn Lý Trường Thành. Chính quyền Trung
Quốc khắc tên những nhà tài trợ chính trên bia đặt tại Bát Đạt Lãnh và
Mutianyu.
* Thiên Đàn:
Thiên Đàn là nơi đặt bàn
thờ riêng của các vị vua Nhà Minh và Nhà Thanh. Chẳng biết từ thuở nào và chẳng
biết phát xuất từ đâu, các vua chúa Nhà Minh và Nhà Thanh bắt buộc phải đặt bàn
thờ tại kinh đô để phụng thờ Thượng Đế và cầu nguyện cho quốc thái dân an, mùa
màng xinh tốt.
Năm 1420, vua Nhà Minh cho
xây Thiên Đàn ở phía Nam thành phố Bắc Kinh. Toàn bộ cấu trúc nầy có 273 mẫu
tây.
Hình thể của công trình to
lớn nầy thể hiện Trời Đất. Phần phía bắc có hình tròn, phía Nam hình vuông. Một
bức tường tròn bên trong, được bao bọc bởi một bức tường vuông bên ngoài.
Mỗi tầng có 9 bậc tam cấp.
Giữa mỗi tầng có một hòn đá tròn được bao quanh
bằng chín vòng đá đồng tâm. Số viên đá vòng thứ nhất là 9, vòng thứ hai
18, vòng thứ ba 27, và... cứ thế cộng thêm 9 viên đá cho mỗi vòng kế tiếp, đến
vòng thứ 9 có 81 viên đá. Cả lan can cũng có những vòng đá theo bội số như thế.
Theo cách suy luận của
người Trung Quốc cổ, Trời mang số lẻ, thuộc về dương, Đất mang số chẵn, thuộc
về âm. Số 9 là số lớn nhất của Trời mà con người có thể đạt đến được. Ngoài ra,
số chín còn biểu hiệu cho thành công, may mắn. Cho nên, Trời có chín tầng mây;
ngai vàng vua ngồi có 9 bậc, gọi là cửu trùng...
Kho Nhà Trời là một công
trình kiến trúc độc nhất vô nhị ở Trung Quốc. Tất cả mái nhà, xà, rầm,... đều
làm bằng gạch, ngói tráng men. Nơi đây chứa tất cả các đồ dùng để cúng, tế lễ.
Ngoài việc kiến trúc rất
độc đáo, sắc sảo còn có hai hệ thống âm thanh khác thường: Tường Phản Âm và Đá
Tam Âm.
Với tường Phản Âm trong Kho
Nhà Trời, chỉ cần một tiếng nói thật nhỏ ở bất cứ điểm nào gần tường, thì người
ở bên kia bức tường ở cách xa 50 mét vẫn nghe rõ được.
Đá Tam Âm đặt trước những
bậc tam cấp ra khỏi tòa nhà. Khi ta đứng trên hòn đá thứ nhất lên tiếng hoặc vỗ
tay, âm thanh sẽ phản hồi lại một lần. Nếu đứng ở hòn đá thứ hai mà làm như vậy
thì âm thanh phản hồi hai lần, nếu cũng làm như thế ở hòn đá thứ ba, âm thanh
sẽ dội lại ba lần.
Trong khuôn viên Thiên Đàn
có khoảng 60 ngàn cây bách, trong đó có 40 ngàn cây trên 100 tuổi. Có những cây
bách đã trên 500 tuổi, thân cành to lớn xoắn lại như hình chín con rồng, nên
gọi là Bách Cửu Long.
Bên trong Thiên Đàn có sảnh
đường Cầu Mùa Màng. Sảnh nầy xây trên nền đá cao 1.5 mét. Cao 38 mét, hình nón.
Bên trong trần nhà được trang trí các linh vật rồng, phượng rất tinh vi, nhưng,
không có rầm nhà, không hề có một cây đinh hoặc xi-măng. Để chống đỡ công trình, toàn bộ kiến trúc có
28 cây cột bằng gỗ lớn. Trong đó, 4 cây cột tượng trưng cho 4 mùa. Ngoài ra,
còn có hai vòng cột nhỏ, mỗi vòng 12 cây, sơn màu đỏ. Vòng thứ nhất tượng trưng
cho 12 tháng trong năm, vòng thứ hai tượng trưng cho 12 giờ trong ngày. Tổng số
cột là 28, tượng trưng cho 28 chòm sao trong vũ trụ (cách suy luận của người
Trung Quốc thời ấy: “28 chòm sao tạo nên bầu trời” - Ngày nay khoa học chứng
minh cách suy luận nầy hoàn toàn sai, chẳng khác gì sự sai lầm từ cách suy luận
của một vài tôn giáo).
* Viện Bảo Tàng Quân Đội Nhà Tần:
Năm 1974, một nhóm nông dân
đào giếng, gần lăng tẩm Nhà Tần, tình cờ họ phát hiện được những mảnh tượng
chiến binh. Sau đó, các nhà khảo cổ học cho khai quật, đã tìm thấy hàng ngàn
chiến binh, chiến mã.
Số tượng quân nhân trên
được tìm thấy trong ba hầm liên tiếp. Hầm 1 có 6 ngàn quan, binh và chiến xa,
hầm 2 có 1.400 kỵ binh, trong đó có một số bộ binh và 90 chiến xa. Hầm thứ ba
có 70 tượng.
* Tây Hồ:
Đó là một cái hồ rộng 6 cây
số vuông với chu vi 15 km. Hồ được những ngọn đồi bao bọc ba phía. Đây là một
nơi nổi tiếng và thu hút du khách nhiều nhất ở Hàng Châu.
Theo truyền thuyết Trung
Hoa, hồ là một viên ngọc từ trên Trời rơi xuống, trong thực tế, đó là một cái
vịnh được hình thành sau nhiều ngàn năm biến đổi bởi thiên nhiên. Mười ngàn năm
trước diện tích hồ lớn hơn bây giờ rất nhiều, sau nầy do bùn đất, phù sa lấp
dần hồ bị thu hẹp lại.
Nét đẹp Tây Hồ là sức quyến
rũ của nó ở bốn mùa trong năm, qua mọi thời điểm trong ngày và qua từng thời
tiết khác nhau.
Tây Hồ có 10 điểm đẹp nhất,
trong đó có hai nơi vượt trội hơn cả, đó là Bình Minh Mùa Xuân và Thưởng Ngư
Trên Hoa Cảng.
- Bình Minh Mùa Xuân, được
xây dựng dọc theo bờ hồ năm 1089, đó là những hàng đào, liễu và những bãi cỏ
chạy dài 2.5 cây số. Khi những tiếng chuông chùa lanh lảnh vang lên trong nắng
sớm, dưới chiều tà hòa trong gió thoảng đong đưa cành liễu, trông chẳng khác gì
bức tranh thủy mạc thần kỳ.
- Thưởng Ngư Trên Hoa Cảng,
cảnh nầy nằm phía Tây ở cầu số 5 và cầu số 6. Nơi đó những tòa nhà xây từ thời
Nhà Tống bao quanh một bể nước nuôi cá chép vàng, quanh bờ trồng đầy các sắc
hoa.
Chính Tây Hồ đã làm nên câu
thành ngữ: “Trên Trời có Thiên Đàng dưới đất có Hàng Châu”
* Những danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử khác:
Ngoài những thắng cảnh nổi
tiếng lâu đời như đã kể trên, chúng tôi còn đến:
1. Ngũ Dương Thành: Là tượng năm CON DÊ được xây dựng trên một đồi cao để kỷ niệm một
truyền thuyết: Ngày xưa, thiên tai làm cho người dân Trung Quốc đói nghèo. Một
hôm, nhà Vua thấy năm nàng tiên đem thóc xuống đổ đầy khắp đất nước Trung Hoa.
Xong năm nàng tiên ấy biến thành năm Con Dê chạy vào rừng. Từ đó, nông dân rất
được mùa màng. Nhớ ơn đó, Nhà vua cho xây dựng một tượng đài để kỷ niệm.
2. Mộ Nhạc Phi:
Nhạc Phi là tướng trung thành của Nhà Tống, bị vợ chồng Tần Cối ám hại chết.
Đời vua sau biết rõ chân tình, sai lập miếu thờ. Bên ngoài Miếu Nhạc Phi, có
tượng hai vợ chồng Tần Cối đang quỳ và bị nhốt trong một vòng rào sắt nhỏ . Trước
kia tượng hai tên gian thần nầy làm bằng xi-măng, bị khách du lịch đến tham
quan dùng đá, sắt gõ vào đầu, tượng bị bể. Hiện nay tượng được đúc bằng sắt
thép.
3. Hàn San Tự (寒山寺) Hàn San Tự là
một ngôi chùa cổ, nhỏ ở sâu trong rừng rậm, nằm ở ngoại thành Cô Tô, phía tây
của trấn Phong Kiều, Tô Châu, thuộc tỉnh Giang Tô. Chùa được xây dựng vào
khoảng đầu thế kỷ VI, trong niên hiệu Thiên Giám (502-519) thời vua Lương Vũ Đế
nhà Lương với tên gọi ban đầu là Diệu Lợi Phổ Minh Tháp viện.
Trong loạn Thái Bình Thiên
Quốc chùa bị phá hủy và được xây lại năm 1905. Đến khoảng niên hiệu Trinh Quán
(627-649) thời Đường Thái Tông, tên gọi Hàn Sơn mới được đặt, nhằm tưởng nhớ
đến nhà sư trụ trì nơi đây. Sau những thăng trầm, Hàn Sơn tự đã được các triều
từ Tống tới Thanh gìn giữ, tu bổ cho đến ngày nay.
Hàn San Tự sẽ không được
khách du lịch biết đến nhiều nếu không có bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương
Kế.
Nhà thơ Trương Kế sống vào
thời Nhà Đường, khi An Lộc Sơn khởi nghĩa, Trương Kế xuống thuyền lẫn tránh
giặc giã, dong thuyền khắp nơi. Một hôm đến Cô Tô ông nằm một mình trên con
thuyền nhỏ, với nỗi lòng người xa xứ, ông cảm tác bài Phong Kiều Dạ Bạc:
楓橋夜泊
月落烏啼霜滿天
江楓魚火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
张继
Phong
Kiều Dạ Bạc
Nguyệt lạc ô đề sương
mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa
đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn
San tự,
Dạ bán chung thanh đáo
khách thuyền
Trương Kế
Trong bài thơ nầy, câu cuối
làm cho nhiều người thắc mắc, cho rằng tác giả ép vận vì: “Dạ bán chung thanh
đáo khách thuyền” (nghĩa: nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San). Bởi, thông thường
nhà chùa chỉ gióng chuông vào khi hoàng hôn và lúc trời hừng sáng, không bao
giờ gióng chuông ở thời điểm nửa đêm. Từ đó, sinh ra điển tích. Khi Trương Kế
hạ bút đề hai câu:
Nguyệt
lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang
phong ngư hỏa đối sầu miên.
vừa làm xong hai câu nhà
thơ hết tứ, bí vận.
Trong thời điểm đó, dưới
ánh trang lưỡi liềm có một nhà sư, phía sau là một chú tiểu đang theo lối mòn
lên núi, trong lúc đi đường, nhà sư cảm hứng, xuất khẩu hai câu (người viết
không nhớù tên tác giả và cũng không nhớ rõ bài thơ, do đó, có thể có sai lầm,
xin bạn đọc miễn thứ):
Sơ tam, sơ tứ nguyệt
mông lung,
Bán tợ ngân câu bán tợ
cung.
Vừa viết xong hai câu, nhà
sư cũng bí tứ, đọc đi đọc lại hai câu thơ vừa sáng tác, đọc đến nỗi chú tiểu
theo sau cũng thuộc làu. Đến Hàn San Tự, trong khi nhà sư lấy nghiên bút tìm tứ
cho bài thơ dang dở, thì chú tiểu ra sau chùa, rửa chân ở hồ bán nguyệt. Chú
tiểu thấy nửa vành trăng trên trời chiếu xuống lòng hồ nửa vầng trăng khác, cậu
ta cảm hứng đọc:
Nhất
phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn.
Bán
trầm thu thủy bán trầm không
Thấy mình tự nhiên làm được
hai câu thơ, chú tiểu khoái chí, vào chùa đứng sau lưng sư phụ. Chú thấy đã nửa
đêm rồi mà thầy mình chẳng chịu vào trong an nghĩ, nên chú bèn lên tiếng đọc
đại hai câu thơ chú vừa làm. Không ngờ, hai câu thơ ấy phối hợp với hai cây thơ
của nhà sư trở thành bài thơ quá hay! Nhà sư bèn vỗ tay bôm bốp, nói to: “Hay!
thật là hay! Có lẽ thi bá Lý Bạch giục khẫu đồ đệ nên đệ tử mới làm được hai
câu thơ nầy!”. Nói xong, nhà sư đích thân chạy lên lầu gióng lên ba tiếng
chuông tỏ lòng nhớ ơn Lý Bạch.
Trong khi đó, Trương Kế
đang bí vận, nằm lim dim ngủ, chợt nghe tiếng chuông từ Hàn San Tự vọng đến,
ông vỗ tay la lên, “tứ đây rồi” bèn ngồi bật dậy cất bút viết tiếp hai câu sau:
Cô
Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền.
Do điển tích trên bài thơ
mới có tiếng chuông chùa gióng lên giữa
đêm. Có lẽ đây là câu chuyện góp vào để hình thành một giai thoại văn
chương làm cho văn học Trung Hoa thêm phong phú!
Đến Hàn San Tự, du khách
thường hay lên lầu chuông gióng chuông, bất kỳ người đó thuộc tôn giáo, quốc
gia nào. Họ xem đó như là một kỷ niệm.
Theo lệ, mỗi người chỉ được
gióng ba tiếng chuông để cầu Phúc, Lộc, Thọ. Nếu ta gióng 4 tiếng chuông, lập
tức các nhà sư sẽ đem dao kéo lên mời xuống cạo đầu. Vì theo quy ước, gióng
liên tiếp bốn tiếng chuông là dành để cho người xin thí phát quy y.
* Tống Thành:
Đó là một công trình tân
tạo kiến trúc theo mô hình thành Nhà Tống ngày xưa.
Vào viếng Tống Thành, chúng
ta sẽ được chứng kiến những sinh hoạt: quán ăn, tiệm thuốc Bắc, chỗ làm đậu hủ,
quan, quân mặc y phục Nhà Tống đi đi lại lại... Hoạt cảnh “Gieo cầu kén chồng”
rất được du khách xem đông đảo.
Tối đến vào xem một chương
trình ca vũ nhạc rất đặc sắc. Sân khấu di động là cả một công trình to lớn,
những hàng ghế ngồi phía trước, thỉnh thoảng chạy dang ra hai bên rồi chạy trở
về chỗ cũ, phía dưới sân khấu những diễn viên từ từ nhô cao, và từ phía trên từ
từ đáp xuống, không phải một, hai mà hàng mấy chục người, hai bên cánh gà bỗng
dang rộng ra làm sân khấu, diễn viên lơ lửng cùng khắp.
* Ngũ Châu:
Ở Trung Quốc có 4 câu thành
ngữ, để nói về cái nhất ở mỗi địa phương:
-
Ăn ở Quảng Châu
-
Chơi ở Tô Châu
-
Lấy vợ Hàng Châu
-
Uống ở Qúy Châu
-
Chết ở Liễu Châu
- Quảng Châu thuộc (dường
như là thủ phủ) tỉnh Quảng Đông mà Quảng Đông là nơi nổi tiếng chế biến thức ăn
ngon nhất chẳng những ở Trung Hoa mà ở khắp nơi. Không có thứ gì người Quảng
Đông không thể chế biến thành món ăn ngon. Người Trung Quốc, có câu chuyện vui:
“Giả sử bắt được một người từ hành tinh khác, thì ở Quang Đông, người ta sẽ tìm
cách nấu nướng, ở Bắc Kinh thì nghiên cứu, tìm tòi”. Đại để, câu nói nầy có
nghĩa người Quảng Đông thứ nào có thể ăn được thì họ chẳng tha.
- Chơi ở Tô Châu, vì Tô
Châu có nhiều thắng cảnh đẹp.
- Lấy vợ Hàng Châu, vì gái
Hàng Châu đẹp, dịu dàng và là quê hương của tứ đại mỹ nhân, là: Tây Thi. Thời
Xuân Thu, khoảng thế kỷ 7-thế kỷ 6 TCN; Vương Chiêu Quân. Thời nhà Tây Hán,
khoảng thế kỷ 1 TCN; Điêu Thuyền. Thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3; Dương Quý
Phi. Thời nhà Đường, 719-756.
- Uống ở Quý Châu, vì ở đó
có rượu Mao Đài rất nổi tiếng. Nhưng đó là quan niệm của thời xa xưa, vì khi
dùng qua rượu Mao Đài, chúng tôi cảm thấy nó thua rất xa các loại rượu Tây hiện
tại.
- Chết ở Liễu Châu, vì Liễu
Châu có một loại gỗ làm quan tài rất tốt, chôn ngàn năm không mụt. Với quan
niệm “Sống gởi, thác về”, người Trung Hoa rất quan tâm đến việc chôn cất của
mình. Đến Liễu Châu, vào những nơi bán vật kỷ niệm, chúng ta không khỏi ngạc
nhiên khi trông thấy những chiếc quan tài nhỏ, xinh xắn bày bán trong tủ kính.
* Viện Ngọc Trai:
Đó là một nơi trưng bày tất
cả các thứ ngọc trai, từ bé đến lớn. Khi vào đó, chúng ta sẽ được mời trà và
được xem tận mắt mỗ trai lấy ngọc. Ông Giám Đốc viện khi cầm con trai lên định
mỗ, nói: “Ai nói đúng trong nầy có mấy viên ngọc, tôi sẽ tặng viên lớn nhất cho
người đó.” Đa số, một, hai, ba, năm viên... trong khi con trai ấy có 33 viên
ngọc lớn nhỏ, sắp thành hai hàng, thẳng băng. Những ai muốn du lịch Trung Quốc,
nên nhớ kỹ điều nầy để hy vọng được tặng viên ngọc trai.
* Thái Y Viện:
Nguyên là nơi làm việc của
các quan Ngự Y của các triều vua ngày trước. Bây giờ là nơi tập trung các Đông
Y Sĩ nổi tiếng của Trung Quốc để nghiên cứu ngành Đông Y.
* Viện Nghiên Cứu Phong Thủy Quốc Gia:
Nơi đây tập trung các nhà
địa lý, phong thủy bậc thầy để nghiên cứu môn học kỳ bí nầy cho Nhà Nước để
chính quyền đem ra áp dụng vào thực tế.
* Bắc Kinh Lộ:
Tức là Đại Lộ Bắc Kinh, nơi
đây khách du lịch sẽ thấy được sự sạch sẽ trên đường phố Trung Quốc như thế
nào! Chẳng phải người ta biết giữ gìn sạch sẽ nơi công cộng mà do lao công quét
dọn thường xuyên.
Lượng khách du lịch đến Bắc
Kinh thật là khủng khiếp. Hãy làm con toán, chỉ tính ở Quảng Châu mỗi ngày có
16 chuyến xe lửa đến Bắc Kinh, mỗi chuyến 16 toa, mỗi toa 200 khách. Ngoài ra
còn những chuyến bay và từ những nơi khác đến, Vì thế, đường phố lúc nào cũng
nghẹt cả người.
Nhân nói về Bắc Kinh, tác
giả xin nói thêm, chúng ta thường nghe “Vịt quay Bắc Kinh” là món ăn ngon. Thực
tế, chẳng có gì đặc biệt hơn vịt quay bán ở các chợ. Có điều, vịt quay Bắc Kinh
người khi chiêu đãi, nhà hàng thái từng miếng mỏng để thực khách cuốn bánh
tráng, chẳng khác gì ta cuốn bánh tráng với thịt heo, tôm, tép luộc hay thịt bò
xào...
Ngoài ra, còn đến Mai Thôn
Trang để thưởng thức Trà Long Tĩnh, đến Xí nghiệp Tơ Tầm xem lụa và...
Cuối cùng xin thưa, khi đi
du lịch Trung Quốc chỉ nên với mục đích duy nhất là “đi cho biết đó biết đây”.
Tuyện đối, không nên mua bất cứ vật gì để làm kỷ niệm. Trong kinh doanh, dân
Tàu có nhiều cách chiêu dụ khách du lịch rất bài bản và hấp dẫn. Nhẹ lòng mua
về coi như “tiền mất, tật mang”, chắc chắn sẽ hối hận dài dài.
Bài viết nầy nhằm mục đích
kể lại một cuộc hành trình với gợi ý cho những ai có cơ hội du lịch Trung Quốc
nắm được một vài sự kiện để làm hành trang cho cuộc hành trình. Tuy nhiên, chắc
chắn còn có rất nhiều thiếu sót.
Xin cảm thông.
Thái Quốc Mưu
(Tác giả
đứng trên đoạn tường thành Bát Đạt Lãnh)
(Tác giả bên
bia kỷ niệm với thủ bút của Mao Trạch Đông “Bất đáo trường thành, phi hảo hán”)
(Tác giả
viếng Thiên Đàn)
(tác giả
viếng Ngũ Dương Thành)
(tác giả bên
mộ Nhạc Phi)
(tác giả
gióng chuông trên gác Hàn San Tự)
(Tác giả cùng hiền nội
trên Bến Tây Hồ)
(Tác giả cùng hiền nội
bên cây uyên ương)
_________________
Tham
khảo:
- Sử Ký Tư Mã Thiên
- Tủ sách Khoa Học
- Wikipidea
Tản Mạn -
8 NGÀY Ở TRUNG QUỐC
Thái Quốc Mưu
* Sơ lược Địa Lý, Lịch sử Trung Quốc:
Lãnh thổ Trung Quốc trải
dài trên 50 vĩ tuyến từ Bắc xuống Nam. Bao phủ cả vùng xích đạo, vùng nhiệt
đới, ôn đới và hàn đới. Từ Đông sang Tây, quốc gia nầy bao trùm 62 kinh tuyến,
rất nhiều núi rừng, cao nguyên, thảo nguyên, sa mạc, đồng bằng...
Nằm ở hướng Đông Nam châu
Á, Trung Quốc có diện tích 9.6 triệu cây số vuông - nhỏ hơn Canada, lớn hơn Hoa
Kỳ, có đường biên giới trên 20.000 cây số, chung với Việt Nam, Lào, Miến Điện,
Ấn Độ, Bhutan, Nepal, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan, Kyrgyz Stan,
Kazakhastan, Nga, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên và có bờ biển dài 18.000 cây số. Và,
Trung Quốc là một trong những quốc gia có chiều dài lịch sử lâu nhất thế giới.
Chữ viết cổ của Trung Quốc
được cải biến và hiện nay đang sử dụng, có trên 4006 năm. Là một quốc gia có
những nền văn minh gần 3.600 năm.
Trong khi huyền thuyết
phương Tây cho rằng “Thượng Đế tạo ra Trời Đất và con người.”
Còn ở Trung Quốc, theo Lão
Tử thì “Đạo sanh một, một sanh hai,
hai sanh ba, ba sanh vạn vật. Một đó là Thái cực, Hai đó là Âm Dương, Ba đó là
Tam Thiên Vị (Ba ngôi: Thái cực, Dương và Âm). Âm và Dương thâu nhận Sanh quang
từ ngôi Thái cực, rồi vừa xung đột vừa hòa hiệp, để tạo thành trời đất, vũ trụ
và vạn vật. Cho nên theo ông, trong vạn vật đều có Âm Dương: Vạn vật đều có
cõng một Âm và bồng một Dương.”
Còn theo cổ thư của Trung
Quốc thì mô tả: “âm dương đại biểu cho hai dạng vật chất tồn tại phổ biến trong
vũ trụ, một dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và một dạng có
âm tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược... Hai thế lực âm và dương tác động lẫn
nhau tạo nên tất cả vũ trụ.”
Ngày nay khoa học đã chứng
minh những huyền thuyết đó, chỉ là cách nghĩ của những con người ở thời kì đồ
đá thô sơ mà ra.
Ở Trung Quốc, các nhà khảo
cổ học, đã tìm thấy những con người hóa thạch cách đây trên 3 triệu năm. Đó là
chứng tích có thể chứng minh, Trung Quốc từng là một trong những cái nôi của
loài người. Và, Trung Quốc có ông Bành Tổ sống đến 800 năm.
Lãnh thổ Trung Quốc rộng
bao la nên có rất nhiều sắc tộc, và trước khi lập quốc, để sinh tồn, những sắc
tộc ấy sống từng bầy, từng đàn vừa để chia xẻ thức ăn vừa để bảo vệ lẫn nhau.
Nhìn về một vài góc cạnh, sự kết hợp nhau để chung sống là điều tốt, nhưng
chính nó đã gây và tạo ra nhiều mâu thuẩn, tranh giành giữa bầy, đàn nầy với bầy,
đàn khác. Chiến tranh xảy ra.
Thuở ấy, Nghiêu là người
hiền, lãnh đạo đàn, bầy hay hơn tất cả, đứng ra kết hợp các bầy, đàn lại và làm
Vua. Khi Vua Nghiêu già, yếu không truyền ngôi cho con mà truyền ngôi lại cho
người hiền khác đó là Thuấn. Vua Thuấn truyền ngôi cho Vua Vũ. Lịch sử gọi xã
hội thời ấy là “Xã hội hòa thuận”.
Đến khi Nhà Hạ lập quốc thì
cái “lệ” truyền hiền bị phá vỡ.
* Nhà Hạ:
Lập quốc từ thế kỷ 21 đến
thế kỷ 16 trước Công nguyên. Truyền 17 đời vua, kéo dài 400 năm. 16 đời vua
trước là những vị minh quân, lấy nhân nghĩa trị dân. Đến khi vua Kiệt lên ngôi,
Kiệt là một hôn quân, đam mê tửu sắc, bị Thành Thang đánh đổ lập nên Nhà
Thương.
* Nhà Thương:
Sau khi lật đổ Nhà Hạ, Vua
Thành Thang lên ngôi, lập thành Nhà Thương từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 11 trước
Công nguyên. Nhà Thương trị vì được 600 năm, với 31 đời vua.
Vua Thành Thang thấy được
nhược điểm của Vua Kiệt, đổi chính sách cai trị, lấy lòng nhân mà đãi dân chúng
và nổ lực chiêu hiền đãi sĩ, nhiều nhân tài tìm đến. Thời đó, Vua Thành Thang
xây dựng được nền kinh tế lớn mạnh cho con cháu nhiều đời sau.
Vua sau cùng của Nhà Thương
là Trụ Vương là một tên hôn quân bạo chúa, đam mê nhan sắc Đắc Kỷ, giết hại
trung thần. Chu Võ Vương hưng binh phạt Trụ, lập thành Nhà Chu.
* Nhà Chu:
Nhà Chu, từ thế kỷ 11 đến
năm 711 trước Công nguyên. Sau khi diệt Trụ, Chu Võ Vương đóng đô ở đất Cảo,
thuộc tỉnh Thiểm Tây, vì vậy, các nhà sử học gọi là Nhà Tây Chu.
Nhà Tây Chu trị vì gần 800
năm, đến đời U vương thì mất nước. U vương là một ông vua tuy không bạo tàn như
vua Trụ, nhưng say mê gái đẹp, đốt phong hỏa đài gạt chư hầu đổi lấy nụ cười
nàng Bao Tự, nên bị mất nước vào tay quân Khuyển Nhung.
Sau đó, Bình Vương, cháu
nhiều đời của Chu Vũ Vương, kết hợp một số quần thần cũ, lập nên Nhà Đông Chu,
đóng đô ở Lạc Dương, nhưng triều đình thoái hóa, hoàng đế chỉ còn là hư vị, chư
hầu thao túng, loạn lạc triền miên, gây ra thời Xuân Thu Chiến Quốc.
* Thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Thời nầy lại
chia ra làm hai giai đoạn:
- Xuân Thu từ
năm 770 đến 476 trước Công nguyên.
- Chiến Quốc,
từ năm 476 đến 221 trước Công nguyên.
* Thời Xuân Thu:
Các sử gia gọi thời Xuân
Thu là lấy theo tên một cuốn sách của Khổng Tử. Thời ấy, Trung Quốc bị cắt chia
ra thành nhiều mảnh vụn, với 150 nước. Trong đó, các nước lớn là Tề (Tề Hoàn
Công); Tống (Tống Tương Công; Tấn (Tấn Văn Công; Tần (Tần Mục Công, Sở (Sở
Trang Vương) sách sử gọi năm nước đó là Ngũ Cường, còn gọi năm vị vua đó là Ngũ
Bá.
Các nước lớn, nhỏ, thường
đem binh chinh phạt nhau làm cho Trung Quốc thời kỳ đó vô cùng hỗn loạn, dân
tình đảo điên, khổ sở. Mãi đến năm 579 và năm 546 trước Công nguyên, Tấn với Sở
ký hòa ước, hoàn bình mới tạm thời vãn hồi vùng Trung Nguyên.
Sau đó, hai nước Ngô, Việt
nổi dậy giành quyền thống trị Trung Nguyên. Ban đầu nước Ngô đánh bại nước
Việt. Việt Câu Tiển, tin dùng Phạm Lãi, dùng mỹ nhân kế, đưa nàng Tây Thi sang
Ngô. Nhà Ngô không nghe lời của Ngũ Tử Tư, bị sụp đổ.
Theo sách sử, thời Xuân Thu
có 36 vị vua bị giết và 52 nước chư hầu bị xóa sổ.
* Thời Chiến Quốc:
Cuộc chiến thời Xuân Thu
kéo dài, cuối cùng còn lại bảy nước mạnh nhất: Tề, Sở, Yên, Hán, Triệu, Ngụy và
Tần. Thời đó, gọi bảy nước đó là Thất Hùng.
Bảy nước đó, mở mang bờ cõi
bằng cách gây chiến tranh, cấu xé lẫn nhau và xâm chiếm rồi sát nhập các nước
yếu hơn vào nước mình để thống trị.
Nước Tần ở hướng Tây, diệt
12 nước, sát nhập vào lãnh thổ Tần. Năm 256 trước Công nguyên, nước Tần lật đổ
Nhà Đông Chu.
Năm 221 trước Công nguyên,
nước Tần dẹp 6 nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, lập nên Nhà Tần.
* Nhà Tần:
Sau khi lập đổ Nhà Đông
Chu, kết thúc thời Chiến Quốc. Thống nhất giang san, Tần Thủy Hoàng bãi bỏ và
cải cách chính sách cai trị. Quyền bính đều về trung ương, mở thành trang sử
mới “trung ương tập quyền” đầu tiên ở Trung Quốc.
Tuy thời gian cai trị chỉ
có 15 năm (từ 221 đến 206 trức Công nguyên), nhưng Nhà Tần đã để lại nhiều sách
lược quốc gia ảnh hưởng lớn lao và các triều đại sau nầy vẫn noi theo.
Để bảo vệ biên giới phía
Bắc, Nhà Tần cho xây Vạn Lý Trường Thành. Một dãy trường thành cách nay đã trên
2.200 năm, vẫn còn sừng sững, trơ gan cùng mây gió.
Khi lên ngôi, Tần Thủy
Hoàng mới 13 tuổi, chịu áp lực của Tể Tướng Nhiếp Chính Lã Bất Vĩ, nhưng Tần
Thủy Hoàng rất thông minh, am tường chính trị, đến 22 tuổi vị vua nầy nắm chặt
quyền bính trong tay, trở thành nhà chính trị đại tài.
Tần Thủy Hoàng chia Trung
Quốc thành 36 quận, đứng đầu quận là một quan Thái Thú, tất cả những cơ sở từ
địa phương đến quận đều chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt của chính quyền Trung
Ương. Ngoài ra còn sửa đổi thống nhất đơn vị đo lường và chữ viết. Ông khuyến
khích dân xuống phương nam khai hoang lập nghiệp...
Khi xây Vạn Lý Trường
Thành, Tần Thủy Hoàng cưỡng bức hàng triệu người đến để làm dân phu, đa số
thành phần đó là quan quân chiến bại của sáu nước vừa mất. Vì vậy gây phẫn nộ
trong giới nầy không ít, vì thế nó ảnh hưởng đến đế chế Nhà Tần. Bọn sĩ phu 6
nước ấy xúi giục dân chúng nổi dậy. Nhân cơ hội, Lưu Bang khởi nghĩa, lật đổ
Nhà Tần lập Nhà Hán.
* Nhà Hán:
Sau bốn năm giao tranh ác
liệt với Hạng Võ (từ 198 đến 202 trước Công nguyên), Lưu Bang chiến thắng. Bốn năm
sau nữa dẹp xong các phần tử đối nghịch (202-206). Lưu Bang lên ngôi lập nên
Nhà Hán. Đế hiệu là Cao Tổ. Và, Nhà Hán trị vì Trung Quốc đến năm 24 sau Công
nguyên. Sử sách gọi thời kỳ nầy là Nhà Tây Hán.
Trong thời gian trị vì
Trung Quốc, Lưu Bang rút ưu khuyết điểm của Nhà Tần mà kiện toàn quốc sách. Về
mặt chính trị, đáng chú ý nhất là ban hành đạo luật giải phóng nô lệ, giảm bớt
sự phụ thuộc của nông dân vào thương nhân, loại bỏ những sự rườm rà từ luật
pháp Nhà Tần để kiện toàn luật pháp Nhà Hán. Kêu gọi quân lính giải ngũ về quê
và cấp nhà cửa ruộng vườn cho họ sinh sống.
Khuyết điểm của Lưu Bang là
ban phát nhiều lãnh địa tự trị cho họ hàng và các tướng lãnh. Vì vậy, về sau
mới có cuộc “Nổi loạn của Bảy Vương Quốc”. Thời may, Hán Đế dẹp tan loạn nầy.
Vũ Đế, nối nghiệp Cao Tổ,
mở rộng bờ cõi, đồng thời chinh phạt, đánh tan giặc ngoại xâm. Khi đánh đuổi
quân Hung Nô ra khỏi biên giới, đẩy chúng đến tận sa mạc Gobi phía Bắc.
Vũ Đế là người sáng lập ra
“Con Đường Tơ Lụa”, để chuyển hàng hóa hai chiều Đông - Tây và ngược lại. Nhờ
con đường tơ lụa nầy mà hai dòng tư tưởng Đông - Âu gặp nhau.
Những năm cuối của Nhà Tây
Hán, nhiều vị hoàng đế còn thiếu niên đã ngồi trên ngai vàng, quyền thế lọt vào
tay các nhiếp chính. Vì thế, xảy ra nạn quần thần tranh giành quyền lực, vương
quyền bắt đầu suy sụp. Các cuộc nổi dậy chống Nhà Hán tràn ngập khắp Trung
Nguyên. Đến năm thứ 8, sau Công nguyên, Vương Mãng - một người có họ hàng với
hoàng hậu, đứng lên xưng vương. Năm 23, (sau Công nguyên) Vương Mãng bị quân nổi
loạn giết chết. Hai năm sau, Lưu Tú là cháu nhiều đời của Hán Cao Tổ, đứng lên
kêu gọi con cháu quần thần còn trung thành với Hán Đế và nông dân nổi dậy, lập
ra nhà Đông Hán.
* Nhà Đông Hán:
Sau khi lên ngôi, Lưu Tú
đóng đô ở Lạc Dương, nổ lực cải tổ nền cai trị, nhưng gặp thời không may, hạn
hán xảy ra nhiều nơi, người dân trở nên đói khổ, Lưu Tú tận lực giải quyết bằng
cách miễn và hạ mức thuế xuống mức tối đa, tiếp tục thi hành luật giải phóng nô
lệ, giảm bớt quyền lực của thái giám và đào kinh dẫn nước, khuyến học, chẳng
bao lâu nền kinh tế phục hồi.
Ngoài ra, qua “con đường tơ
lụa” Lưu Tú đã phát triển ngoại giao với 50 nước phương Tây. Tiếp nhận nền khoa
học, kỹ thuật mới. Thời ấy, Trung Quốc đã biết gây mê trong phẫu thuật, giấy đã
sản xuất theo công nghệ. Hồi giáo, Phật Giáo cũng theo con đường tơ lụa xâm
nhập Trung Quốc. Trong 32 năm trị vì, Lưu Tú đã làm cho Trung Quốc trở nên
cường thịnh.
Cuối thời Đông Hán, “giặc”
Khăn Vàng và nông dân nhiều nơi nổi dậy. Trong khi ở phương Bắc, Tào Phi (con
Tào Tháo) lại xưng vương nhà Ngụy. Trung Quốc lâm vao tình trạng phân chia.
* Thời Tam Quốc:
Năm 220 (sau Tây lịch), Tào
Phi xưng Đế ở phương Bắc. Năm sau (221), Lưu Bị xưng Đế ở đất Thục. Đến năm 229
thì Tôn Quyền xưng đế ở nước Ngô. Thế là, Trung Quốc bị chia cắt làm ba vùng
cai trị khác nhau. Sử sách gọi đó là “Thời Tam Quốc”.
Sau khi Tào Tháo thua trận
Xích Bích (do Lưu Bị và Tôn Quyền hợp lại đánh), kéo quân thẳng về phương Bắc
mở mang nông trại cho quân dân, xóa bỏ quyền lực của các đại điền chủ, của
hoàng tộc và những đặc quyền của thái giám, tận dụng nhân tài... Tào Tháo thật
sự là một nhà chính trị đại tài. Nhưng sử sách Nhà Hán gọi Tào Tháo là gian
hùng, bởi vì, quan Ngự Sử là người hưởng lộc của triều Hán. Hiện nay, các nhà
sử học Trung Quốc đang nghiên cứu và viết lại thực chất của Tào Tháo trong lịch
sử Hán Triều. Khi Tào Tháo mất, Tào Phi tiếm quyền xưng đế.
Trong khi ở Thục Hán Lưu Bị
cũng cố gắng xây dựng đất nước và kết hợp tốt với nhiều dân tộc thiểu số, thì
ở Đông Ngô, Tôn Quyền phát triển mạnh
nghề biển.
Năm 263 nước Ngụy đánh tan
nước Thục Hán, Nhà Thục Hán chỉ tồn tại 42 năm, với hai đời vua. Năm 265, quan
trọng thần của Ngụy là Tư Mã Viêm lật đổ nước Ngụy xong, đánh chiếm luôn nước
Ngô (năm 280) lập thành Nhà Tấn. Thời Tam Quốc cáo chung.
* Nhà Tấn:
Sau khi đánh tan Ngụy và
Ngô (nước Thục đã bị Ngụy thôn tính trước rồi) Nhà Tấn đóng đô ở Lạc Dương. Sử
sách gọi là Nhà Tây Tấn.
Nhà Tây Tấn chỉ tồn tại có
51 năm (từ năm 265 - đến năm 316, sau Tây lịch), đây là một triều đại rất nhiều
hỗn loạn. Những xung đột giữa các dân tộc và giữa các nhà quý tộc càng ngày
càng dữ dội. Họ ganh đua từ của cải; tranh nhau cách xa hoa. Trong cung đình
bọn quan lại tha hồ tranh nhau về quyền lực. Cuộc chiến tranh “không đổ máu”
nầy kéo dài 16 năm, làm suy sụp kinh tế, xã hội và ngay cả vương quyền.
Trong khi bên ngoài, “rợ” Hung
Nô tự xưng là con cháu nhà Hán, hưng binh đánh chiếm Lạc Dương (năm 308). Những
người trốn thoát, chạy đến Tràng An, lập ra vua mới. Quân Hung Nô lại tràn ngập
Tràng An (năm 316), chấm dứt nhà Tây Tấn.
Nhà Tây Tấn có 4 vì vua,
trị vì 51 năm.
* Nhà Đông Tấn:
Sau khi Tây Tấn tan rã, một
số hoàng thân quốc thích và cựu thần cũ chạy về phía Đông sông Dương Tử. Một
người trong hoàng tộc xưng đế (năm 317) lập nên Nhà Đông Tấn. Chọn Kiên Khang
làm Kinh Đô.
Những kẻ có công giúp dựng
nên nhà Đông Tấn là những người có đặc quyền đặc lợi, nhưng họ xuất thân từ
những vùng khác nhau, nên việc tranh chấp quyền bính, thế lực vô cùng hiểm ác.
Họ trừ khử lẫn nhau.
Những cuộc nổi loạn bên
ngoài tràn ngập, nhưng không được chính quyền quan tâm. Những bộ tộc đấu đá
nhau tranh giành từng mảnh đất đai, không ai giải quyết.
Khi tướng Lưu Du dẹp yên
các cuộc nổi loạn, bèn giết vua, tự xưng vương, lập nên Nhà Tống.
Nhà Đông Tấn có 10 đời vua,
trị vì được 103 năm thì mất về tay Lưu Du.
Bấy giờ, Trung Quốc bước
vào thời kỳ phân chia mới, kéo dài suốt 272 năm.
* Nam Bắc Triều:
Sau đời Tấn, Trung Quốc
hoàn toàn bị phân rã. Hai cực Nam, Bắc có nhiều thể chế khác nhau. Từ năm 420
đến ăm 589, lịch sử đất nước nầy, Trung Quốc đã chứng kiến nhiều cuộc hưng
thịnh, suy tàn nhiều nhất.
Ở phương Nam trong vòng 160
năm có bốn nước kế tục nhau là Tống, Tề, Lương và Trần. Bốn nước nầy đều lấy
Nam Kinh làm Thủ Đô, nên sử sách gọi chung là Nam Triều.
Trong 160 năm ấy, những vì
vua của các nước trên thực sự có quyền lực trong khi các nhà phú hào, quý tộc
lần hồi bị diệt vong. Những nhà học giả, trí thức có đất dụng võ. Họ được trọng
dụng.
Trên phương Bắc, Hoàng Đế
Bắc Ngụy thống nhất vùng sông Hoàng Hà (năm 439), lập ra Bắc Triều.
Người Bắc Triều thuộc giòng
giống Thát Bạt, nhưng rất yêu chuộng văn hóa Hán. Các vị vua Bắc triều lại
khuyến khích dân chúng nên ăn mặc theo người Hán, lấy vợ gã chồng cho người
Hán, đồng thời cũng cất nhắc người Hán làm quan trong triều. Vô hình trung,
người Thát Bạt bị Hán hóa lúc nào không hay.
Năm 581, tướng Dương Kiên
ép vua Ngụy nhường ngôi, lập nên nhà Tùy.
* Nhà Tùy:
Dương Kiên lên làm vua,
xưng là Văn Đế (năm 581) dời đô về Lạc Dương. Sau khi lên ngôi, Văn Đế liền
quyết tâm thống nhất đất nước, nổ lực kiện toàn quân bị, năm 589 đánh bại nước Trần
phương Nam, thống nhất Nam, Bắc. Khi lên ngôi, Văn Đế bỏ tất cả các đặc quyền
đặc lợi của hàng quý tộc và hoàng thân quốc thích, xóa khoảng cách giữa kẻ giàu
người nghèo, cắt đất đai người giàu cho bần nông theo tỷ lệ số người trong nhà,
đồng thời mở và kiện toàn khoa thi cử, chọn người hiền đức ra giúp nước. Hệ
thống thi cử của Nhà Tùy tồn tại suốt 1.300 năm sau.
Thời kỳ nầy, Phật Giáo phát
triển mạnh mẽ, những vị Đại Sư kiến thức uyên bác, đạo hạnh sâu rộng xuất phát
nhiều nơi ở Trung Nguyên.
Đáng tiếc, đến đời Dạng Đế,
vì ăn chơi sa đọa, loạn lạc nổi lên, đến năm 618 Dạng Đế bị Lý Uyên, kẻ tùy
tùng thân tính giết chết.
Nhà Tùy chỉ tồn tại có 38
năm với 2 đời vua. Đây là một trong những triều đại ngắn nhất Trung Quốc.
* Nhà Đường:
Nhà Đường là một đế quốc
hùng mạnh, giàu có, phát triển nhất chẳng những trong lịch sử Trung Quốc mà cả
trên thế giới vào thời kỳ đó. Ảnh hưởng Nhà Đường trải rộng đến các lục địa Âu,
Á và châu Phi. Tràng An trở thành Trung Tâm Văn Hóa Đông - Tây.
Về phương diện Văn Hóa, Văn
Học đã đưa triều đại nầy vượt lên cao hơn hẳng tất cả các triều đại trước.
Nhà vua tước quyền cai trị
thị tộc của các địa phương. Hệ thống thi cử được hoàn thiện, việc thi cử được
mở rộng tạo điều kiện cho mọi tầng lớp đều có cơ hội tham gia thi cử...
Bộ Luật Nhà Đường được hoàn
chỉnh năm 624. Đây là Bộ luật hoàn chỉnh đầu tiên của Trung Quốc.
Đến đời vua Chiêu Tôn, vì
không biết cai trị, triều chính bị nhiễu loạn, kinh tế suy sụp. Toàn Trung sai
bộ hạ giết Chiêu Tôn rồi lập Ai Đế làm vua. Sau đó, Toàn Trung ép Ai Đế nhường
ngôi cho mình. Lập nên Nhà Hậu Lương.
Nhà Đường trị vì được 290
năm (từ năm 618 đến năm 907). Bị mất về tay Toàn Trung.
* Thời kỳ Ngũ Đại và Thập Quốc:
Sau khi đế quốc Nhà Đường
sụp đổ, Trung Quốc thêm một lần nữa bị chia năm, xẻ bảy. Ở Miền Bắc có năm nước
nhỏ, gồm: Hậu Lương (907-923); Hậu Đường (923-936); Hậu Tấn (936-946); Hậu Hán
(947-950) và Hậu Chu (951-960). Mỗi nước chỉ cai trị một thời gian ngắn ngủi.
Trong khi ở phương Nam chia
thành 10 nước, gồm: Ngô, Nam Đường, Ngô Việt, Mân, Nam hán, Nam Bình, Tiền
Thục, Hậu Thục và Bắc Hán.
So với các nước phương Bắc,
những nước phương Nam tình hình chung được ổn định hơn nhiều.
Trong tất cả các nước ở hai
cực, nước Ngô Việt cai trị lâu nhất, 85 năm.
Sách sử gọi đó là thời kỳ
Ngũ Đại và Thập Quốc.
Trong suốt 53 năm (từ năm
907 đến năm 960) ấy, Trung Quốc lâm vào cảnh hoàn toàn suy sụp.
Từ năm 955, Phật giáo ở
phía Bắc rất lớn mạnh, nhiều thanh niên vào chùa để trốn lính (giống như thời
kỳ trước 4/75, thanh niên trốn quân dịch, dưới sự bao che của các linh mục ở xứ
đạo, các nhà sư ở chùa (!). Vì thế, chính quyền quyết định thế tục hóa trên 30
ngàn ngôi chùa. Đẩy bọn sư sãi ra đi...
Đến năm 960, tướng Triệu
Khuông Dẫn tiến hành cuộc bạo loạn, lên ngôi vua, xưng là Tống Thái Tổ. Khai
nguyên nhà Tống.
* Nhà Tống:
Nhà Tống lần lượt đẹp tan
thời Ngũ Đại và Thập Quốc.
Trên mọi phương diện, Nhà
Tống được người dân Trung Quốc xếp ngang hàng hoặc vượt cao hơn hai triều đại
Nhà Hán và Nhà Đường.
Trên ba trăm năm thống trị
Trung Quốc, Nhà Tống, vào thời kỳ đó, đã đưa đất nước nầy lên tột đỉnh vinh
quang. Tất cả mọi lãnh vực kinh tế, kỹ thuật, khoa học, trí thức, nghệ thuật...
đều thi nhau tiến hành tốt đẹp.
Thời kỳ nầy, các sử gia so
sánh giống như thời kỳ Phục Hưng ở châu Âu.
* Bắc Tống:
Triệu Khuông Dẫn lên ngôi,
đóng đô ở Biện Kinh. Với nhiều kinh nghiệm chiến trường vị vua nầy nổ lực tổ
chức một quân đội “không có và không thể đảo chánh”. Giới lãnh đạo binh nghiệp,
là những người chịu kiểm soát chặt chẽ từ trung ương. Nhà vua nổ lực cải tổ hệ
thống hành chánh, tuyển dụng quan lại và tổ chức thi cử chọn nhân tài. Thay thế
giới lãnh đạo quân sự từ hàng quý tộc, chuyển sang những người có thực tài, nhờ
đó đất nước được ổn định và phát huy được nhiều mặt trong nhiều năm.
Từ năm 1086 về sau bất đầu
có sự suy thoái do sự bất đồng ở tầng lớp quan lại cùng với các cuộc nổi dậy
của nông dân.
Trong khi đó, ba nước đối
nghịch với Tống là Liêu, Kim và Tây Hạ luôn đe dọa và xâm phạm biên cương. Đến
năm 1126 quân Kim bao vây rồi chiếm Biện Kinh. Năm 1127 vua Tống bị hạ bệ. Kết
thúc triều Bắc Tống. Nhà Bắc Tống lập quốc từ năm 960 đến năm 1127 thì mất
nước. Trị vì được 167 năm.
* Nhà Nam Tống:
Khi quân Kim bắt vua Khâm
Tôn và gia quyến về Kim. Cao Tôn trốn xuống phương Nam tiếp tục triều đại Nhà
Tống. Sử gọi là Nam Tống. Thực chất, triều Nam Tống không có quyền lực, luôn
bất ổn và chỉ kiểm soát được vùng phía Nam sông Dương Tử. Cao Tôn là ông vua
nhu nhược, phá vỡ mọi nổ lực cải tổ và tấn công của Tể Tướng Lý Cương. Trong
khi đó, ở phía Bắc Trung Quốc, ba nước Mông Cổ, Kim và Tây Hạ luôn thù địch,
đấu đá nhau khốc liệt.
Khi quân Kim tràn xuống
phía Nam sông Dương Tử, Cao Tôn phải nghị hòa, chấp nhận triều cống.
Chẳng bao lâu, quân Mông Cổ
đánh bại quân Kim, sau cùng chiếm hẳn nước Kim. Vua Mông Cổ bắt đầu ghé mắt đến
Nhà Tống. Năm 1276, Mông Cổ chiếm được Lâm An. Kế thúc Tống trào.
* Nhà Nguyên:
Sau khi thôn tính Nhà Tống,
Hốt Tất Liệt lên ngôi Hoàng Đế, nhưng ông ta không phải là người chính trị
giỏi, nên việc cai trị vẫn theo đường lối chính trị của các nhà vua Trung Quốc.
Trong thời gian 1340 đến
1350, chính trị Nhà Nguyên bất ổn. quần thần chia rẽ trầm trọng, loạn lạc dấy
lên, thiên tai hoành hành. Những tay buôn lậu và nông dân do Chu Nguyên Chương
cầm đầu đứng lên lật đổ Nhà Nguyên. Vua cuối cùng Nhà Nguyên tháo chạy về Mông
Cổ, trong khi quan chức và dân Mông Cổ vẫn ở lại Trung Hoa, dần dần bị đồng hóa
thành dân tộc Hán.
Nhà Nguyên xâm chiếm và trị
vì Trung Quốc được 89 năm (từ năm 1279 đến năm 1368), với 11 đời vua.
* Nhà Minh:
Sau khi lật đổ Nhà Nguyên,
Chu Nguyên Chương lên ngôi, ban đầu đóng đô ở Nam Kinh, sau di dời sang Bắc
Kinh. Đây là triều đại cuối cùng người Trung Quốc tự cai quản đất nước mình.
Vào thế kỷ thứ 15, Nhà Minh
đạt được đỉnh cao quyền lực: chiếm Mông Cổ, chinh phục Mãn Châu, cai quản Tây
Tạng. Triều Minh cũng là một trong các triều đại thịnh vượng nhất Trung Quốc.
Để ngăn giặc Bắc phương,
Nhà Minh cho sửa chữa và xây dựng hoàn tất Vạn Lý Trường Thành đã bị dở dang từ
các triều đại trước.
Năm 1644, Lý Tự Thành nổi
dậy chiếm Bắc Kinh. Khi ông còn đang thương lượng với tướng Nhà Minh là Ngô Tam
Quế, thì tên nầy rước quân Mãn Châu vào. Kết thúc Nhà Minh.
Triều đại Nhà Minh có 16
đời vua, trị vì được 276 năm (từ năm 1368 đến năm 1644
* Nhà Thanh:
Nhà Thanh vốn tộc Mãn Châu từng
được người Nữ Chân xây dựng và tuyên bố là Hậu Kim Triều năm 1616 tại Mãn Châu,
năm 1636, đổi tên thành "Thanh", và mở rộng vào lục địa Đông Á và các
lãnh thổ xung quanh, lập nên Đại Thanh Quốc. Bao gồm các quốc gia: Trung Quốc
(1644-1659), Đài Loan (1683), Mông Cổ (1691), Tây Tạng (1751), Tân Cương (1759)
Đại Thanh thống trị Trung
Quốc từ năm 1644 đến năm 1911 (268 năm). Đây là triều đại phong kiến cuối cùng
ở Trung Quốc. Sau khi lật đổ Nhà Minh, vua Thanh cho thi hành chính sách trả
lại đất đai, ruộng vườn cho dân, đồng thời giảm tất cả các loại thuế khóa. Nhờ
đó, nền kinh tế nông thôn Trung Quốc phát triển nhanh chóng.
Trong các vì Vua Thanh cai
trị Trung Quốc, nổi tiếng tài ba lỗi lạc, chăm lo cho dân nhất là vua Càn Long.
Càn Long chăm lo đời sống người dân đến mức những dũng sĩ trong phong trào “Phù
Minh, diệt Thanh” khi nhận lệnh ám sát Càn Long đã vào đến cung điện nghe huấn
dụ của Càn Long phải hết long cứu đói, cứu lụt lội,… lại trở ra đành phải buông
kiếm thốt lên: “Ông vua nào cũng là vua, tại sao ta phải giết hại một ông vua
hết lòng chăm sóc lo lắng cho dân?”
Những vị vua cuối cùng của
Nhà Thanh bất tài, kiêu ngạo và bạo ngược vì thế năm 1911 Bác sĩ Tôn Dật Tiên
(Tôn Trung Sơn) làm cuộc cách mạng, lật đổ Nhà Thanh. Nhà Thanh cai trị Trung
Quốc 268 năm với 10 đời vua.
* Nước Cộng Hòa Trung Quốc.
(từ năm 1911 đến năm 1949) do Thống Chế Tưởng Giới Thạch cầm đầu trong cương vị
Tổng Thống.
Năm 1950 (?) Tưởng Giới
Thạch bị Mao Trạch Đông đánh bại phải chạy sang đảo Đài Loan.
Sau khi chiếm lĩnh Trung
Quốc, Mao Trạch Đông đổi quốc hiệu thành Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, gọi
tắt là Trung Quốc. Áp đặt chế độ cai trị hà khắc lên tộc Hán từ ấy đến nay.
Như vậy, người khai sáng ra
Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là Mao Trạch Đông. Nhưng, hiện nay người dân
ở Trung Quốc, xếp hạng những nhà lãnh đạo đất nước họ như sau:
- Thứ nhất: Quốc phụ Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên)
- Thứ hai: Đặng Tiểu Bình
- Thứ ba: (không nhớ)
Và thứ tư:
- Mao Trạch Đông.
Thế mới biết, bất cứ người
lãnh đạo nào đem đến cho người dân cuộc sống ấm no, sang giàu, người đó sẽ được
nhân dân tôn thờ. Ở Trung Quốc Đặng Tiểu Bình làm được điều đó. Còn ở Việt Nam
- Ai đây?
* Du Lịch:
Thông thường, tùy theo
tuyến, nhưng đa số các tuyến du lịch đến Trung Quốc thường được đưa đến tham
quan các nơi: Quảng trường Thiên An Môn, Tử Cấm Thành, Tây Hồ, Tô Châu, Hàn
Châu, Ngũ Dương Thành, Thượng Hải, Bắc Kinh, , Vạn Lý Trường Thành, Miếu Nhạc
Phi, Công ty Tơ Lụa, Tống Thành, Viện Ngọc Trai, Viện Phong Thủy Quốc Gia, tháp
truyền hình Đông Dương Minh Châu, Thái Y Viện, du thuyền trên sông Hoàng Phố,
Hàn San Tự, Phố Nam Kinh, Bắc Kinh Lộ, Chùa Phật Ngọc, Trà Long Tĩnh ở Mai Thôn
Trang, Thập Tam Lăng, v.v...
* Tử Cấm
Thành, gọi tắt là Cấm Thành, cho đến ngày nay, Cấm Thành vẩn còn là một bảo
tàng cung điện lớn nhất và hoàn hảo nhất ở Trung Quốc.
Triều đại Nhà Minh xây dựng
cung điện nầy từ năm 1406, phải mất 14 năm mới hoàn thành. Tất cả 24 đời vua
cùng hoàng tộc Nhà Minh đều cư ngụ nơi đây. Đến năm 1911, Phổ Nghi, vị vua cuối
cùng Nhà Minh bị buộc thoái vị, họ mới rời khỏi nơi đó.
Năm 1987 UNESCO (United
Nations Educational, Scientific, and Cultural Organi- zation (Cơ Quan Văn Hóa
và Giáo Dục Liên Hiệp Quốc) công nhận Tử Cấm Thành là Di Sản Văn Hóa Thế Giới.
Cấm Thành có dạng hình chữ
Nhật (日), từ Bắc xuống Nam dài 960 mét, ngang từ Đông sang
Tây 750 mét. Bên trong có 9.999 (chín ngàn, chín trăm, chín mươi chín) phòng,
tổng diện tích mái nhà 150.000 mét vuông.
Bên ngoài đào một hào rộng
52 mét, gần sát đó là một bức tường cao 9.9 mét bao quanh. Cấm Thành có 4 cửa
Đông, Tây, Nam, Bắc. Ở 4 góc thành có 4 tháp canh hình bát giác.
Để hoàn thành công trình vĩ
đại trên. Nhà Minh phải sử dụng 230.000 thợ thủ công và 1 triệu người lao động
trong 14 năm.
Đá cẩm thạch dùng xây dựng
trong Cấm Thành được lấy từ ngoại ô Bắc Kinh. Loại đá năm màu được khai thác từ
Hà Bắc. Gạch lót được nung từ những lò gạnh nổi tiếng ở miền Nam Trung Quốc.
Gạch đỏ và màu đỏ tươi dùng
xây tường lấy từ tỉnh Sơn Đông. Gỗ quý lấy ở Tứ Xuyên, Quảng Tây, Quý Châu, Hồ
Nam và Vân Nam.
Ngọ Môn Quan còn gọi là Ngũ
Phụng Lầu ở phía Nam - Tác giả thấy cần mở ngoặc ở đây để nói thêm, vì sao công
chính (Ngọ Môn Quan) đặt ở phương Nam?
Bởi, Bắc - Nam là hai cực
đối diện, phương Bắc nằm ở trên, phương Nam nằm phía dưới. Theo quan niệm của
người Trung Quốc, Thiên Tử (Con Trời) được Thượng Đế ủy thác xuống trần gian
chăn trị muôn dân. Do đó, chỗ ngồi của Hoàng Đế được đặt cao hơn tất cả mọi nơi
(tức là phương Bắc) và ngai vàng của Nhà Vua, khi ngồi luôn quay mặt về hướng
Nam (nơi thấp nhất) để dễ dàng cai trị.
Trong gia đình người Trung
Quốc xưa (hiện nay vẫn còn), nơi bàn ăn (hay bất cứ chỗ nào hội tụ đông người)
gia chủ (hay tộc trưởng) luôn luôn ngồi ở đầu bàn, mặt nhìn về hướng Nam, kẻ
ngồi đối diện với gia chủ hay tộc trưởng, mặt quay về hướng Bắc là người có vai
vế thấp nhất.
Lịch sử nước ta, những vị
vua thần phục và chịu triều cống Trung Quốc, khi nhận được chỉ dụ của Hoàng Đế
Trung Hoa, bắt buộc phải quay mặt về hướng Bắc, quỳ xuống lạy ba lạy, rồi ngửa
hai bàn tay, nâng cao lên khỏi đầu mới nhận chiếu chỉ.
Cấm Thành được chia làm
hai, nội điện và ngoại điện. Bên ngoài Ngọ Môn Quan, mỗi bên có đặt tượng một
con sư tử bằng đồng, biểu tượng uy quyền bất tận và phẩm giá vô nhị của Nhà
Vua.
Tượng con sư tử ở mé đông
đang “hí cầu” (chơi bóng) là đực. Quả bóng tròn tượng trưng cho toàn vẹn, thống
nhất lãnh thổ.
Tượng sư tử đối diện bên
kia là con cái, dưới chân nó có chú sư tử con, tượng trưng cho việc vĩnh viễn
kế thừa ngôi báu.
Hiện nay, dù trong chế độ
công sản, nhưng tất cả những cơ quan công quyền ở Trung Quốc trước cửa đều có
đặt một hay hai tượng sư tử to lớn. Và, xem đó là biểu tượng quốc gia. Người
Việt chúng ta, thường hay bắt chước, thấy thế cứ mua (hay thỉnh) tượng sư tử
đem về đặt trong hay trước cổng nhà.
Trên thực tế đó là điều
không nên. Vì, theo lý giải của Viện Nghiên Cứu Phong Thủy Quốc Gia Trung Quốc,
từ lâu người Trung Quốc xem 4 linh vật tượng trưng cho uy quyền và nghề nghiệp
là:
1. Rồng là biểu tượng của
Bậc Quân Vương, được thiết trí trong cung đình hoặc đồ dùng của Vua, Chúa.
2. Sư Tử biểu tượng của Quốc
Gia, nên được đặt ngay cửa chính ở tất cả các nơi cơ quan chính quyền.
3. Kỳ Lân, biểu tượng của
uy quyền công lý, hiện nay vẫn được đặt ngay cửa chính ở tất cả các Tòa Án.
4. Kỳ Hươu, biểu tượng của
may mắn, thành công và hạnh phúc được đặt ở trước cửa những cơ sở thương mại,
tư gia, v.v...
Khi du lịch Trung Quốc, chỉ
cần thấy các linh vật ấy đặt ở đâu, là ta sẽ biết ngay ở đó là cơ quan công
lực, tòa án hay cơ sở thương mại.
Những ai đặt sư tử ở nhà là
không đúng, vì theo lý giải của Viện Phong Thủy Quốc Gia Trung Quốc, Sư Tử là
chúa sơn lâm, là con vật cao hơn tất cả các loài vật khác, nếu đặt tượng sư tử
trong nhà, gia chủ sẽ bị trấn áp, đè bẹp không thể vươn lên được. Chỉ có Quốc
Gia mới có đủ uy lực để chế ngự Sư Tử, vì người lãnh đạo quốc gia là Long Thể
(mình Rồng), là Thiên Tử (con Trời), thứ bậc cao hơn Sư Tử.
- Kỳ Lân là linh vật biểu
hiện của công bằng, uy quyền của luật pháp, không nên đặt ở nhà, vì nghề thương
mại là tìm tư lợi, không thể đòi hỏi công bằng... đặt Kỳ Lân ở nhà thì ngành
nghề sẽ không phát triển.
- Kỳ Hươu, biểu tượng của
ngành nghề thương mại, sự may mắn, hạnh phúc và thành công, rất thích hợp cho
các ngành nghề, sản xuất, thương mại.
Cho đến bay giờ, người
Trung Quốc vẫn đặt Kỳ Hươu trong nhà hay trước cửa cửa hiệu thương mại của
mình. Và, họ cho rằng, khi đến trước tượng Kỳ Hươu vừa cầu nguyện vừa vuốt
tượng Kỳ Hươu mọi sự sẽ được như ý.
Phong Thủy là một vấn đề
hết sức huyền bí, mọi bí ẩn về phong thủy cho đến nay vẫn còn là một ẩn số. Có
điều, cho dù hiện nay nước Cộng Hòa Nhân Nhân Trung Quốc là một quốc gia Cộng
sản thứ thiệt, chẳng những người dân mà ngay cả chính quyền cũng tuyệt đối tin
tưởng và nâng nó lên tầm vóc quốc gia. Nếu phong thủy chỉ là một thứ dị đoan,
huyền hoặc, mơ hồ thì làm thế nào nó chinh phục được các cấp lãnh đạo Cộng Sản
và qua mặt được các nhà khoa học Trung Quốc?
(Xin nói thêm, những ai đã từng đến Seoul, thủ đô Hàn
Quốc, sẽ không khỏi ngạc nhiên, vì sao các nhà lãnh đạo đất nước nầy không làm
việc ở cố cung mà xây dựng dinh thự ở đối diện bên kia đường? Vì, theo phong
thủy, phía sau cố cung không có chỗ dựa, khó thể bền vững lâu dài; còn mặt
trước bị ngăn trở bởi núi non thì không thể phát triển. Dinh thự mới thì xây
dựng ngược lại, phía sau dựa vào núi lấy thế đứng, chỗ dựa bền vững, phía trước
thoáng, bằng, thuận lợi cho sự phát triển. Rất hợp với phong thủy. Khi mua nhà,
những người hiểu biết ít nhiều về phong thủy thường chọn nhà ở phía sau có núi,
đồi hay ít ra sân sau phai bằng phẳng, không chúi xuống. Phía trước, sân nhà
cần hơi có độ cao để tiến lên).
Tất cả những kiến trúc
trong Tử Cấm Thành đều có hai màu chính. Tường màu đỏ, tía, mái màu vàng. Tạo
nên sự tương phản mạnh mẽ, hài hòa, dễ bắt mắt. Và nó còn tượng trưng cho uy
quyền và sự giàu sang của đế chế.
Ở Trung Quốc (và trước kia,
ở Việt Nam ta) màu vàng tượng trưng cho quyền lực đế vương. Vì, theo thuyết ngũ
hành, màu vàng tượng trưng cho đất, chiếm vị trí trung tâm là biểu tượng của
chính quyền trung ương. Màu đỏ, biểu hiệu của tôn nghiêm, may mắn, tốt lành
tượng trưng cho long trọng và hạnh phúc.
* Vạn Lý Trường Thành:
Vạn Lý Trường Thành, cách
Bắc Kinh 75km về hướng Tây Bắc, được xây dựng vào thời Chiến Quốc (từ năm 476
đến năm 221 trước Công nguyên), đây là những đoạn tường chiến lược được xây
dựng từng đoạn dọc theo biên giới phía Bắc bởi những quốc gia thời đó. Đến năm
221 trước Công nguyên, sau khi lên ngôi Tần Thủy Hoàng quyết định nối kết các
đoạn tường ấy thành một dãy dài. Vào thế kỷ thứ 16 Nhà Minh tiếp tục hoàn thành
từ đèo Thượng Hải đến tỉnh Tân Cương, tổng cộng chiều dài trên 6.700 cây số.
Điểm cao nhất thuộc vùng Balading cao 800 mét so với mặt biển.
Sử liệu cho biết, trên một
triệu người, tức khoảng 1/5 dân số Trung Hoa thời đó, đã bị xung công làm việc
trên mười năm mới hoàn thành bức tường ấy.
Có lẽ Vạn Lý Trường Thành
là bức tường chiến lược cổ nhất, dài nhất trên thế giới và cho đến nay nó vẫn
còn tồn tại từng phần ở nhiều nơi.
Theo thời gian, thiên nhiên
xóa mờ dấu vết những đoạn tường thành đã hoặc chưa tìm thấy được. Khi viếng Vạn
Lý Trường Thành, chúng ta chỉ thấy được một phần nhỏ bức tường do Nhà Minh xây
dựng. Những đoạn tường nầy ở gần Bắc Kinh, cao khoảng 6 - 7 mét, xây bằng những
tảng đá lớn và những viên gạch lớn được kết dính bằng đất và đá hòn. Trong khi,
hầu hết những đoạn tường khác chỉ xây dựng bằng đất với đá hòn (người viết chưa
tra cứu được Đá Hòn là chất gì? Phải chăng đó là những hòn đá trứng, tròn tròn,
nhỏ, rắn chắc, na ná như hột mít không?
Suốt chiều dài ở các điểm
cao của bức tường đều có xây cất tháp hiệu ở hai bên tường. Khi thấy kẻ thù
xuất hiện, quân canh, gác liền đốt lửa hiệu báo động.
Mặt tường rộng từ 4 đến 5
mét đủ để cho năm con ngựa chạy ngang nhau. Dọc theo tường đều có hệ thống
phòng ngự, các pháo đài, lỗ châu mai đều xây dựng bằng gạch.
Vạn Lý Trường Thành được
xây dựng theo hình thể thiên nhiên, nó chạy qua núi, khe, đồi và các dốc đứng
thẳng. Nhiều khối đá dài cả 2 mét, nặng cả tấn cũng được đưa lên bằng sức
người, ngựa, dê hoặc bằng sức các thú vật khác. Số lượng gạch đá để xây Vạn Lý
Trường Thành, người ta ước tính có thể xây một bức tường quanh trái đất dày 1
mét, cao 5 mét (?).
Đoạn tường gần Bắc Kinh dài
629 cây số, trong đó có khoảng 100 cây số là nơi còn tốt nhất, một vài chỗ ở
đoạn tường nầy đã được tái thiết hồi năm 1949.
Ngoài ra, đoạn tường thành
Bát Đạt Lãnh ở huyện Hoài Nhu cách Bắc Kinh 79 km là nơi du khách thường đến
nhất. Đoạn tường thành quanh Bắc Kinh được xây dựng khoảng 1.400 năm về trước.
Phân đọan tường thành vùng Bát Đạt Lãnh được Nhà Minh (1368 - 1644) xây dựng
lại và hoàn tất vào thế kỷ thứ 15.
Đoạn tường Simatai, cách
Bắc Kinh 110 cây số, dài 19 cây số, có tất cả 135 vọng gác. Đây là nơi tham
quan rất ngoạn mục, khi nhìn nó như con rắn khổng lồ uốn khúc lên đỉnh núi rồi
vụt trườn mình xuống vực sâu. Tháp gác Wangjinglou trên sườn núi cao 986 mét,
đó là đỉnh Simatai cũng là chỗ nguy hiểm nhất. Muốn đến vọng gác Wangjinglou,
du khách phải đi trên một cầu vượt,
ngang chưa đến 1 mét, không có tay vịn, phía dưới vực sâu 500 mét. Cho đến nay,
ít có người dám đặt chân lên tháp.
Đoạn tường thành Gubeilou
dài 21 cây số, nằm ở phía Đông cách trung tâm thành phố Bắc Kinh 128 cây số.
Đoạn tường nầy bắt đầu xây dựng năm 1368, đến năm 1567 Nhà Minh nối dài, mở
rộng thêm. Hiện nay nó vẫn còn giữ vẽ đẹp nguy nga, ngoại trừ một vài nơi bị
pháo binh Nhật phá hủy trong cuộc chiến năm 1937 - 1945, đoạn tường thành nầy
vẫn đứng hiên ngang trên các đỉnh núi với độ cao từ 400 đến 900 mét. Mặt thành
của đoạn tường thành rộng hẹp khác nhau, có nơi 5 con ngựa có thể chay ngang
nhau và chỗ hẹp nhất chỉ một người lách qua.
Từ tháng 7 năm 1984 đến
tháng 9 năm 1986, những nhà tài trợ trong và ngoài nước Trung Quốc đã đóng góp
được 2.7 triệu dollars để sửa chữa lại Vạn Lý Trường Thành. Chính quyền Trung
Quốc khắc tên những nhà tài trợ chính trên bia đặt tại Bát Đạt Lãnh và
Mutianyu.
* Thiên Đàn:
Thiên Đàn là nơi đặt bàn
thờ riêng của các vị vua Nhà Minh và Nhà Thanh. Chẳng biết từ thuở nào và chẳng
biết phát xuất từ đâu, các vua chúa Nhà Minh và Nhà Thanh bắt buộc phải đặt bàn
thờ tại kinh đô để phụng thờ Thượng Đế và cầu nguyện cho quốc thái dân an, mùa
màng xinh tốt.
Năm 1420, vua Nhà Minh cho
xây Thiên Đàn ở phía Nam thành phố Bắc Kinh. Toàn bộ cấu trúc nầy có 273 mẫu
tây.
Hình thể của công trình to
lớn nầy thể hiện Trời Đất. Phần phía bắc có hình tròn, phía Nam hình vuông. Một
bức tường tròn bên trong, được bao bọc bởi một bức tường vuông bên ngoài.
Mỗi tầng có 9 bậc tam cấp.
Giữa mỗi tầng có một hòn đá tròn được bao quanh
bằng chín vòng đá đồng tâm. Số viên đá vòng thứ nhất là 9, vòng thứ hai
18, vòng thứ ba 27, và... cứ thế cộng thêm 9 viên đá cho mỗi vòng kế tiếp, đến
vòng thứ 9 có 81 viên đá. Cả lan can cũng có những vòng đá theo bội số như thế.
Theo cách suy luận của
người Trung Quốc cổ, Trời mang số lẻ, thuộc về dương, Đất mang số chẵn, thuộc
về âm. Số 9 là số lớn nhất của Trời mà con người có thể đạt đến được. Ngoài ra,
số chín còn biểu hiệu cho thành công, may mắn. Cho nên, Trời có chín tầng mây;
ngai vàng vua ngồi có 9 bậc, gọi là cửu trùng...
Kho Nhà Trời là một công
trình kiến trúc độc nhất vô nhị ở Trung Quốc. Tất cả mái nhà, xà, rầm,... đều
làm bằng gạch, ngói tráng men. Nơi đây chứa tất cả các đồ dùng để cúng, tế lễ.
Ngoài việc kiến trúc rất
độc đáo, sắc sảo còn có hai hệ thống âm thanh khác thường: Tường Phản Âm và Đá
Tam Âm.
Với tường Phản Âm trong Kho
Nhà Trời, chỉ cần một tiếng nói thật nhỏ ở bất cứ điểm nào gần tường, thì người
ở bên kia bức tường ở cách xa 50 mét vẫn nghe rõ được.
Đá Tam Âm đặt trước những
bậc tam cấp ra khỏi tòa nhà. Khi ta đứng trên hòn đá thứ nhất lên tiếng hoặc vỗ
tay, âm thanh sẽ phản hồi lại một lần. Nếu đứng ở hòn đá thứ hai mà làm như vậy
thì âm thanh phản hồi hai lần, nếu cũng làm như thế ở hòn đá thứ ba, âm thanh
sẽ dội lại ba lần.
Trong khuôn viên Thiên Đàn
có khoảng 60 ngàn cây bách, trong đó có 40 ngàn cây trên 100 tuổi. Có những cây
bách đã trên 500 tuổi, thân cành to lớn xoắn lại như hình chín con rồng, nên
gọi là Bách Cửu Long.
Bên trong Thiên Đàn có sảnh
đường Cầu Mùa Màng. Sảnh nầy xây trên nền đá cao 1.5 mét. Cao 38 mét, hình nón.
Bên trong trần nhà được trang trí các linh vật rồng, phượng rất tinh vi, nhưng,
không có rầm nhà, không hề có một cây đinh hoặc xi-măng. Để chống đỡ công trình, toàn bộ kiến trúc có
28 cây cột bằng gỗ lớn. Trong đó, 4 cây cột tượng trưng cho 4 mùa. Ngoài ra,
còn có hai vòng cột nhỏ, mỗi vòng 12 cây, sơn màu đỏ. Vòng thứ nhất tượng trưng
cho 12 tháng trong năm, vòng thứ hai tượng trưng cho 12 giờ trong ngày. Tổng số
cột là 28, tượng trưng cho 28 chòm sao trong vũ trụ (cách suy luận của người
Trung Quốc thời ấy: “28 chòm sao tạo nên bầu trời” - Ngày nay khoa học chứng
minh cách suy luận nầy hoàn toàn sai, chẳng khác gì sự sai lầm từ cách suy luận
của một vài tôn giáo).
* Viện Bảo Tàng Quân Đội Nhà Tần:
Năm 1974, một nhóm nông dân
đào giếng, gần lăng tẩm Nhà Tần, tình cờ họ phát hiện được những mảnh tượng
chiến binh. Sau đó, các nhà khảo cổ học cho khai quật, đã tìm thấy hàng ngàn
chiến binh, chiến mã.
Số tượng quân nhân trên
được tìm thấy trong ba hầm liên tiếp. Hầm 1 có 6 ngàn quan, binh và chiến xa,
hầm 2 có 1.400 kỵ binh, trong đó có một số bộ binh và 90 chiến xa. Hầm thứ ba
có 70 tượng.
* Tây Hồ:
Đó là một cái hồ rộng 6 cây
số vuông với chu vi 15 km. Hồ được những ngọn đồi bao bọc ba phía. Đây là một
nơi nổi tiếng và thu hút du khách nhiều nhất ở Hàng Châu.
Theo truyền thuyết Trung
Hoa, hồ là một viên ngọc từ trên Trời rơi xuống, trong thực tế, đó là một cái
vịnh được hình thành sau nhiều ngàn năm biến đổi bởi thiên nhiên. Mười ngàn năm
trước diện tích hồ lớn hơn bây giờ rất nhiều, sau nầy do bùn đất, phù sa lấp
dần hồ bị thu hẹp lại.
Nét đẹp Tây Hồ là sức quyến
rũ của nó ở bốn mùa trong năm, qua mọi thời điểm trong ngày và qua từng thời
tiết khác nhau.
Tây Hồ có 10 điểm đẹp nhất,
trong đó có hai nơi vượt trội hơn cả, đó là Bình Minh Mùa Xuân và Thưởng Ngư
Trên Hoa Cảng.
- Bình Minh Mùa Xuân, được
xây dựng dọc theo bờ hồ năm 1089, đó là những hàng đào, liễu và những bãi cỏ
chạy dài 2.5 cây số. Khi những tiếng chuông chùa lanh lảnh vang lên trong nắng
sớm, dưới chiều tà hòa trong gió thoảng đong đưa cành liễu, trông chẳng khác gì
bức tranh thủy mạc thần kỳ.
- Thưởng Ngư Trên Hoa Cảng,
cảnh nầy nằm phía Tây ở cầu số 5 và cầu số 6. Nơi đó những tòa nhà xây từ thời
Nhà Tống bao quanh một bể nước nuôi cá chép vàng, quanh bờ trồng đầy các sắc
hoa.
Chính Tây Hồ đã làm nên câu
thành ngữ: “Trên Trời có Thiên Đàng dưới đất có Hàng Châu”
* Những danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử khác:
Ngoài những thắng cảnh nổi
tiếng lâu đời như đã kể trên, chúng tôi còn đến:
1. Ngũ Dương Thành: Là tượng năm CON DÊ được xây dựng trên một đồi cao để kỷ niệm một
truyền thuyết: Ngày xưa, thiên tai làm cho người dân Trung Quốc đói nghèo. Một
hôm, nhà Vua thấy năm nàng tiên đem thóc xuống đổ đầy khắp đất nước Trung Hoa.
Xong năm nàng tiên ấy biến thành năm Con Dê chạy vào rừng. Từ đó, nông dân rất
được mùa màng. Nhớ ơn đó, Nhà vua cho xây dựng một tượng đài để kỷ niệm.
2. Mộ Nhạc Phi:
Nhạc Phi là tướng trung thành của Nhà Tống, bị vợ chồng Tần Cối ám hại chết.
Đời vua sau biết rõ chân tình, sai lập miếu thờ. Bên ngoài Miếu Nhạc Phi, có
tượng hai vợ chồng Tần Cối đang quỳ và bị nhốt trong một vòng rào sắt nhỏ . Trước
kia tượng hai tên gian thần nầy làm bằng xi-măng, bị khách du lịch đến tham
quan dùng đá, sắt gõ vào đầu, tượng bị bể. Hiện nay tượng được đúc bằng sắt
thép.
3. Hàn San Tự (寒山寺) Hàn San Tự là
một ngôi chùa cổ, nhỏ ở sâu trong rừng rậm, nằm ở ngoại thành Cô Tô, phía tây
của trấn Phong Kiều, Tô Châu, thuộc tỉnh Giang Tô. Chùa được xây dựng vào
khoảng đầu thế kỷ VI, trong niên hiệu Thiên Giám (502-519) thời vua Lương Vũ Đế
nhà Lương với tên gọi ban đầu là Diệu Lợi Phổ Minh Tháp viện.
Trong loạn Thái Bình Thiên
Quốc chùa bị phá hủy và được xây lại năm 1905. Đến khoảng niên hiệu Trinh Quán
(627-649) thời Đường Thái Tông, tên gọi Hàn Sơn mới được đặt, nhằm tưởng nhớ
đến nhà sư trụ trì nơi đây. Sau những thăng trầm, Hàn Sơn tự đã được các triều
từ Tống tới Thanh gìn giữ, tu bổ cho đến ngày nay.
Hàn San Tự sẽ không được
khách du lịch biết đến nhiều nếu không có bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương
Kế.
Nhà thơ Trương Kế sống vào
thời Nhà Đường, khi An Lộc Sơn khởi nghĩa, Trương Kế xuống thuyền lẫn tránh
giặc giã, dong thuyền khắp nơi. Một hôm đến Cô Tô ông nằm một mình trên con
thuyền nhỏ, với nỗi lòng người xa xứ, ông cảm tác bài Phong Kiều Dạ Bạc:
楓橋夜泊
月落烏啼霜滿天
江楓魚火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
张继
Phong
Kiều Dạ Bạc
Nguyệt lạc ô đề sương
mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa
đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn
San tự,
Dạ bán chung thanh đáo
khách thuyền
Trương Kế
Trong bài thơ nầy, câu cuối
làm cho nhiều người thắc mắc, cho rằng tác giả ép vận vì: “Dạ bán chung thanh
đáo khách thuyền” (nghĩa: nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San). Bởi, thông thường
nhà chùa chỉ gióng chuông vào khi hoàng hôn và lúc trời hừng sáng, không bao
giờ gióng chuông ở thời điểm nửa đêm. Từ đó, sinh ra điển tích. Khi Trương Kế
hạ bút đề hai câu:
Nguyệt
lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang
phong ngư hỏa đối sầu miên.
vừa làm xong hai câu nhà
thơ hết tứ, bí vận.
Trong thời điểm đó, dưới
ánh trang lưỡi liềm có một nhà sư, phía sau là một chú tiểu đang theo lối mòn
lên núi, trong lúc đi đường, nhà sư cảm hứng, xuất khẩu hai câu (người viết
không nhớù tên tác giả và cũng không nhớ rõ bài thơ, do đó, có thể có sai lầm,
xin bạn đọc miễn thứ):
Sơ tam, sơ tứ nguyệt
mông lung,
Bán tợ ngân câu bán tợ
cung.
Vừa viết xong hai câu, nhà
sư cũng bí tứ, đọc đi đọc lại hai câu thơ vừa sáng tác, đọc đến nỗi chú tiểu
theo sau cũng thuộc làu. Đến Hàn San Tự, trong khi nhà sư lấy nghiên bút tìm tứ
cho bài thơ dang dở, thì chú tiểu ra sau chùa, rửa chân ở hồ bán nguyệt. Chú
tiểu thấy nửa vành trăng trên trời chiếu xuống lòng hồ nửa vầng trăng khác, cậu
ta cảm hứng đọc:
Nhất
phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn.
Bán
trầm thu thủy bán trầm không
Thấy mình tự nhiên làm được
hai câu thơ, chú tiểu khoái chí, vào chùa đứng sau lưng sư phụ. Chú thấy đã nửa
đêm rồi mà thầy mình chẳng chịu vào trong an nghĩ, nên chú bèn lên tiếng đọc
đại hai câu thơ chú vừa làm. Không ngờ, hai câu thơ ấy phối hợp với hai cây thơ
của nhà sư trở thành bài thơ quá hay! Nhà sư bèn vỗ tay bôm bốp, nói to: “Hay!
thật là hay! Có lẽ thi bá Lý Bạch giục khẫu đồ đệ nên đệ tử mới làm được hai
câu thơ nầy!”. Nói xong, nhà sư đích thân chạy lên lầu gióng lên ba tiếng
chuông tỏ lòng nhớ ơn Lý Bạch.
Trong khi đó, Trương Kế
đang bí vận, nằm lim dim ngủ, chợt nghe tiếng chuông từ Hàn San Tự vọng đến,
ông vỗ tay la lên, “tứ đây rồi” bèn ngồi bật dậy cất bút viết tiếp hai câu sau:
Cô
Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền.
Do điển tích trên bài thơ
mới có tiếng chuông chùa gióng lên giữa
đêm. Có lẽ đây là câu chuyện góp vào để hình thành một giai thoại văn
chương làm cho văn học Trung Hoa thêm phong phú!
Đến Hàn San Tự, du khách
thường hay lên lầu chuông gióng chuông, bất kỳ người đó thuộc tôn giáo, quốc
gia nào. Họ xem đó như là một kỷ niệm.
Theo lệ, mỗi người chỉ được
gióng ba tiếng chuông để cầu Phúc, Lộc, Thọ. Nếu ta gióng 4 tiếng chuông, lập
tức các nhà sư sẽ đem dao kéo lên mời xuống cạo đầu. Vì theo quy ước, gióng
liên tiếp bốn tiếng chuông là dành để cho người xin thí phát quy y.
* Tống Thành:
Đó là một công trình tân
tạo kiến trúc theo mô hình thành Nhà Tống ngày xưa.
Vào viếng Tống Thành, chúng
ta sẽ được chứng kiến những sinh hoạt: quán ăn, tiệm thuốc Bắc, chỗ làm đậu hủ,
quan, quân mặc y phục Nhà Tống đi đi lại lại... Hoạt cảnh “Gieo cầu kén chồng”
rất được du khách xem đông đảo.
Tối đến vào xem một chương
trình ca vũ nhạc rất đặc sắc. Sân khấu di động là cả một công trình to lớn,
những hàng ghế ngồi phía trước, thỉnh thoảng chạy dang ra hai bên rồi chạy trở
về chỗ cũ, phía dưới sân khấu những diễn viên từ từ nhô cao, và từ phía trên từ
từ đáp xuống, không phải một, hai mà hàng mấy chục người, hai bên cánh gà bỗng
dang rộng ra làm sân khấu, diễn viên lơ lửng cùng khắp.
* Ngũ Châu:
Ở Trung Quốc có 4 câu thành
ngữ, để nói về cái nhất ở mỗi địa phương:
-
Ăn ở Quảng Châu
-
Chơi ở Tô Châu
-
Lấy vợ Hàng Châu
-
Uống ở Qúy Châu
-
Chết ở Liễu Châu
- Quảng Châu thuộc (dường
như là thủ phủ) tỉnh Quảng Đông mà Quảng Đông là nơi nổi tiếng chế biến thức ăn
ngon nhất chẳng những ở Trung Hoa mà ở khắp nơi. Không có thứ gì người Quảng
Đông không thể chế biến thành món ăn ngon. Người Trung Quốc, có câu chuyện vui:
“Giả sử bắt được một người từ hành tinh khác, thì ở Quang Đông, người ta sẽ tìm
cách nấu nướng, ở Bắc Kinh thì nghiên cứu, tìm tòi”. Đại để, câu nói nầy có
nghĩa người Quảng Đông thứ nào có thể ăn được thì họ chẳng tha.
- Chơi ở Tô Châu, vì Tô
Châu có nhiều thắng cảnh đẹp.
- Lấy vợ Hàng Châu, vì gái
Hàng Châu đẹp, dịu dàng và là quê hương của tứ đại mỹ nhân, là: Tây Thi. Thời
Xuân Thu, khoảng thế kỷ 7-thế kỷ 6 TCN; Vương Chiêu Quân. Thời nhà Tây Hán,
khoảng thế kỷ 1 TCN; Điêu Thuyền. Thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3; Dương Quý
Phi. Thời nhà Đường, 719-756.
- Uống ở Quý Châu, vì ở đó
có rượu Mao Đài rất nổi tiếng. Nhưng đó là quan niệm của thời xa xưa, vì khi
dùng qua rượu Mao Đài, chúng tôi cảm thấy nó thua rất xa các loại rượu Tây hiện
tại.
- Chết ở Liễu Châu, vì Liễu
Châu có một loại gỗ làm quan tài rất tốt, chôn ngàn năm không mụt. Với quan
niệm “Sống gởi, thác về”, người Trung Hoa rất quan tâm đến việc chôn cất của
mình. Đến Liễu Châu, vào những nơi bán vật kỷ niệm, chúng ta không khỏi ngạc
nhiên khi trông thấy những chiếc quan tài nhỏ, xinh xắn bày bán trong tủ kính.
* Viện Ngọc Trai:
Đó là một nơi trưng bày tất
cả các thứ ngọc trai, từ bé đến lớn. Khi vào đó, chúng ta sẽ được mời trà và
được xem tận mắt mỗ trai lấy ngọc. Ông Giám Đốc viện khi cầm con trai lên định
mỗ, nói: “Ai nói đúng trong nầy có mấy viên ngọc, tôi sẽ tặng viên lớn nhất cho
người đó.” Đa số, một, hai, ba, năm viên... trong khi con trai ấy có 33 viên
ngọc lớn nhỏ, sắp thành hai hàng, thẳng băng. Những ai muốn du lịch Trung Quốc,
nên nhớ kỹ điều nầy để hy vọng được tặng viên ngọc trai.
* Thái Y Viện:
Nguyên là nơi làm việc của
các quan Ngự Y của các triều vua ngày trước. Bây giờ là nơi tập trung các Đông
Y Sĩ nổi tiếng của Trung Quốc để nghiên cứu ngành Đông Y.
* Viện Nghiên Cứu Phong Thủy Quốc Gia:
Nơi đây tập trung các nhà
địa lý, phong thủy bậc thầy để nghiên cứu môn học kỳ bí nầy cho Nhà Nước để
chính quyền đem ra áp dụng vào thực tế.
* Bắc Kinh Lộ:
Tức là Đại Lộ Bắc Kinh, nơi
đây khách du lịch sẽ thấy được sự sạch sẽ trên đường phố Trung Quốc như thế
nào! Chẳng phải người ta biết giữ gìn sạch sẽ nơi công cộng mà do lao công quét
dọn thường xuyên.
Lượng khách du lịch đến Bắc
Kinh thật là khủng khiếp. Hãy làm con toán, chỉ tính ở Quảng Châu mỗi ngày có
16 chuyến xe lửa đến Bắc Kinh, mỗi chuyến 16 toa, mỗi toa 200 khách. Ngoài ra
còn những chuyến bay và từ những nơi khác đến, Vì thế, đường phố lúc nào cũng
nghẹt cả người.
Nhân nói về Bắc Kinh, tác
giả xin nói thêm, chúng ta thường nghe “Vịt quay Bắc Kinh” là món ăn ngon. Thực
tế, chẳng có gì đặc biệt hơn vịt quay bán ở các chợ. Có điều, vịt quay Bắc Kinh
người khi chiêu đãi, nhà hàng thái từng miếng mỏng để thực khách cuốn bánh
tráng, chẳng khác gì ta cuốn bánh tráng với thịt heo, tôm, tép luộc hay thịt bò
xào...
Ngoài ra, còn đến Mai Thôn
Trang để thưởng thức Trà Long Tĩnh, đến Xí nghiệp Tơ Tầm xem lụa và...
Cuối cùng xin thưa, khi đi
du lịch Trung Quốc chỉ nên với mục đích duy nhất là “đi cho biết đó biết đây”.
Tuyện đối, không nên mua bất cứ vật gì để làm kỷ niệm. Trong kinh doanh, dân
Tàu có nhiều cách chiêu dụ khách du lịch rất bài bản và hấp dẫn. Nhẹ lòng mua
về coi như “tiền mất, tật mang”, chắc chắn sẽ hối hận dài dài.
Bài viết nầy nhằm mục đích
kể lại một cuộc hành trình với gợi ý cho những ai có cơ hội du lịch Trung Quốc
nắm được một vài sự kiện để làm hành trang cho cuộc hành trình. Tuy nhiên, chắc
chắn còn có rất nhiều thiếu sót.
Xin cảm thông.
Thái Quốc Mưu
(Tác giả
đứng trên đoạn tường thành Bát Đạt Lãnh)
(Tác giả bên
bia kỷ niệm với thủ bút của Mao Trạch Đông “Bất đáo trường thành, phi hảo hán”)
(Tác giả
viếng Thiên Đàn)
(tác giả
viếng Ngũ Dương Thành)
(tác giả bên
mộ Nhạc Phi)
(tác giả
gióng chuông trên gác Hàn San Tự)
(Tác giả cùng hiền nội
trên Bến Tây Hồ)
(Tác giả cùng hiền nội
bên cây uyên ương)
_________________
Tham
khảo:
- Sử Ký Tư Mã Thiên
- Tủ sách Khoa Học
- Wikipidea
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét