Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

Ảnh Tác giả

              MỐI TÌNH MẦU HOA ĐÀO

                      

 

TruyỆn NgẮn

Mang Viên Long

 

                                                                                                          Tặng bạn - nhỏ - năm - xưa

 

 

      Qua dịch vụ Cali Tourist, cha con tôi được trở về thăm quê nhà sớm hơn dự kiến một tuần. Tôi nao nức được trở về, vì sau hơn hai mươi năm tôi mới có dịp đặt chân lên mảnh đất quê hương mà chúng tôi đã phải rời xa. Sự chia cắt giống như một cơn bão, cuốn phăng chúng tôi cùng nhiều người bay đi như những chiếc lá…Cơn bão làm tản mát, phân tán nhiều gia đình; nhận chìm, chôn lấp nhiều người chỉ sau hai mươi bốn giờ hỗn loạn đao binh…

         Khi mẹ tôi nói ý định sẽ cho tôi cùng cha tôi về nghỉ hè hai tháng ở Việt Nam khi đã kết thúc năm cuối ở đại học - tôi reo lên : “Oh! Excelent!”. Và từ đó, tôi luôn mơ nghĩ về quê cha rợp bóng dừa xanh, quê mẹ chập chùng đồi núi, có dòng sông Côn xanh mát mỗi chiều cùng lũ bạn rủ nhau ra bãi cát thả diều, đi dọc bờ đập câu cá bóng cá luối, rồi nhảy ùm xuống dòng sông êm ả …Tôi đã từng được đi thăm viếng nhiều nước, chiêm ngưỡng nhiều thắng tích vĩ đại, huy hoàng của châu Âu; nhưng trong tôi, hình bóng quê nhà chưa bao giờ mờ phai, quên lãng.

         Rồi điều gì đến cũng sẽ đến: Cha con tôi đã rời bang California vào một sớm tinh sương. Tôi hân hoan vô hạn khi nghĩ rằng, chỉ một khỏang thời gian ngắn nữa thôi - là tôi sẽ được nhìn thấy quê hương, nơi đã chôn nhau cắt rốn, đã ôm ấp, lưu giữ rất nhiều kỷ niệm khó quên của tuổi thơ tôi, của gia đình, của những người thân yêu…Tôi muốn “nhìn mặt” lại quê nhà, muốn lang thang trên con đường đất dẫn vào xóm nhỏ, muốn nâng niu những cánh hoa dại dọc ven sông Côn - tôi muốn  “hít thở” cái không khí mà tôi đã hít thở lúc được sinh ra và lớn lên, cho đến năm lên tám tuổi.

         Về đến khách sạn Saigon Tourist, cha tôi nói: “Ngày mai, cha con mình sẽ về Phú Yên thăm quê nội vài hôm trên chuyến tàu lửa tốc hành SE1,  Sau đó, có lẽ sẽ lên Đà Lạt nghỉ vài hôm - rồi mới về quê ngoại!”.

         Tôi hoàn toàn đồng ý, bởi vì về lại Việt Nam, cha tôi sẽ là “hướng dẫn viên” duy nhất. Tôi như một thân cây bị bứng lìa khỏi đất từ hơn hai chục năm; lửng lơ, xa lạ ngay trên quê hương của mình. Tôi trở về với tâm trạng của một kẻ lạc lõng, thèm được ấp ủ, tẩn mẩn thu nhặt tình thương quê kiểng, xóm giềng cho hành trang vào đời còn dài xa phía trước.

         Về lại Sông Cầu đã hơn tuần lễ, mà cha tôi vẫn còn muốn ở lại thêm. Suốt ngày, ông hết tiếp khách, lại đi thăm bà con, bạn bè - tôi bắt đầu cảm thấy nóng ruột! Mấy ngày đầu, hết chú đến các cô chở tôi trên chiếc Futures đi thăm nơi nầy chốn nọ. Vào Gành Đỏ ăn cháu hàu, đến đầm Ô Loan mua sò huyết, ghẹ tươi; ngắm biển Sông Cầu vắng, êm ã - gợi cho tôi nhớ một lần theo cha đi bủa lưới…Sau nầy, mỗi ngày, tôi đều tự mình đạp xe vòng qua vài dãy phố, ghé chỗ nầy uống ly nước dừa - thăm nơi khác gọi ly café đen, nhưng chỉ trong nửa giờ là tôi đã “quen mặt” hết phố chợ Sông Cầu…Tôi đã tìm đến thăm vài ngôi nhà cũ thuở xưa để tìm vài người bạn thời tóc để chơm, nhưng - buồn thay, không gặp được đứa nào? Cuộc biển dâu chỉ hai mươi năm sao mà hung hãn, khắt nghiệt đến vậy?

            Tôi mơ nghĩ đến phố hoa Đà lạt mùa hè tươi mát, yên lành, như có lần đã được nghe mẹ tôi kể thuở bà còn là nữ sinh trường nữ Bùi Thị Xuân dập dìu hoa bướm mỗi sáng chiều...

         Một buổi sáng - tôi nói :

         - Cha cho con đi Đà Lạt trước, đến nơi ở khách sạn nào, con sẽ gọi về cho cha!

         - Con không được khỏe à ? - Ông hỏi.

         Tôi cười :

         - Có lẽ - tôi gắng giữ vẻ uể oải, con muốn có khí hậu mát hơn một chút …

         Trên chuyến xe du lịch 12 chỗ ngồi, tôi đến Đà Lạt vào một buổi trưa. Xe đưa tôi đến khách sạn Hoàng Lan, đầu đường Bùi Thị Xuân. Tôi chọn nơi này vì khách sạn nhỏ thôi, nhưng có một không khí đầm ấm, yên tĩnh.

         Sau khi tắm vội rồi ngủ một giấc dài, khoảng 4 giờ chiều, tôi gọi taxi đến đồi Cù, sau khi bảo tài xế chạy một vòng quanh phố chợ. Thành phố được mệnh danh là “Thành phố ngàn hoa” tươi mát vào buổi hoàng hôn đã đem lại cho tôi cảm giác dễ chịu, thoải mái.

         Đồi Cù chiều hôm ấy vắng khách, nhưng kìa - trên triền đồi, có bóng một thiếu nữ đang đi thơ thẩn như tìm kiếm điều gì! Tôi nhìn theo bóng nàng, dõi theo từng bước đi chậm, nhẹ tênh, nhưng dường như nàng chỉ bước đi, mà không định hướng.

Không suy nghĩ nhiều, tôi thả bước tiến về phía cô gái. Đến gần, tôi thấy nàng đang cầm trên tay một cành hoa đào tươi thắm. Màu hoa Đào và màu đôi má nàng đều ửng hồng như có sự phản chiếu mầu nhiệm dưới nắng chiều. Cảm nhận này, đã khiến tôi nhớ lại mối tình trong giây phút của chàng thư sinh nghèo Thôi Hộ bên đất Trung Hoa, nhưng ngàn năm sau vẫn còn được nhắc nhở, thương tiếc. Thôi Hộ đã lưu lại bài thơ tuyệt tác mà tôi đã có lần được đọc trong một tờ tạp chí văn học:

Khứ niên kim nhật thử môn trung,

Nhân diện đào hoa tươnng ánh hồng …

Nhân diện bất tri hà xứ khứ,

Đào hoa y cựu tiếu đông phong!”

(Cửa này, năm ngoái - hôm nay / Hoa đào phản chiếu mặt người thắm tươi/ mà người giờ ở nơi nao / Hoa đào còn đó cười chào gió đông…).

Tôi đến bên nàng - giọng chân thành:

- Cô đi dạo một mình sao ?

Nàng cười - hiền, rạn rỡ như những cánh hoa đào trên tay: “Chứ anh nghĩ là phải bao nhiêu mình nữa!?”

- Tôi cũng vừa đến đây một mình - tôi cười, hay cô cho phép tôi cùng đi dạo cho vui được không?

Nàng im lặng.

Nhìn vẻ yên lặng dịu dàng của nàng, tôi đoán biết là nàng đã không nỡ từ chối. Ánh mắt long lanh chảy dài xuống tận chiếc miệng thon thon đang nở nụ cười như đóa Đào trên tay, cho tôi yên tâm bước từng bước bên nàng…

Chúng tôi cùng đi lên triền đồi, đón những ngọn gió mát rượi đang bắt đầu rì rào gọi, nhìn ngắm trời mây xanh cao lồng lộng phía trên; lòng cảm thấy có một niềm vui thật lạ, thật tinh khôi, đang dâng lên trong hồn mình. Đã bao năm qua, sống giữa phố người hoa lệ, nhìn bao bóng dáng diễm kiều, nhận bao nụ cười điệu đàng; nhưng, cho mãi tới hôm nay - tôi mới thật sự thấy được ý nghĩa dịu kỳ trong sự im lặng của ánh mắt và nụ cười của một người  con  gái…

Tôi quay lại, bất chợt cầm lấy tay nàng: “Chúng ta đến ngồi bên gốc thông kia nghỉ một lát nhé !”.

Nàng yên lặng đi theo tôi. Ngoan hiền như một đứa em gái. Sự im lặng, điềm nhiên nơi nàng có lúc làm tôi bối rối.Tôi thường bất chợt nhìn lên khuôn mặt không phấn son dịu mềm nhân hậu nàng, với rung cảm đằm thắm, trân quý. Chúng tôi ngồi tựa lưng vào một gốc thông già, nghe tiếng gió vi vu reo trên ngọn cao, nhìn lơ đãng buổi chiều Đà lạt êm đềm đang rơi dần -  tôi thầm cảm ơn buổi chiều Đà Lạt, cảm ơn duyên lành tình cờ được sống phút giây êm đẹp đầu đời bên nàng…

- Em cho anh xin một cánh hoa đào, được không? Tôi nhìn cành Đào trên tay nàng, mở lời.

Nàng ngắt một bông hoa tươi nhất, lớn nhất, đặt vào lòng bàn tay tôi. Khẻ khàng. Trân trọng. Tôi kịp giữ bàn tay nàng lại. Hai bàn tay đang ép một cánh hoa...

Nàng hỏi: “Anh xin để làm gì?”- và rút bàn tay lại đặt lên chân mình.

- Anh sẽ ép nó vào quyển nhật ký của anh cùng với hình ảnh, nụ cười, hơi ấm của bàn tay em …

- Anh nói giống thi sĩ quá - nàng đưa tay che miệng, cười hồn nhiên.

- Đúng vậy, sinh ra, hình như mỗi người đều là một nhà thơ kia mà! Tôi nhìn nàng - cười. Có điều, chỉ có ít người còn lại với thơ lâu dài…

Tôi bất chợt cầm lấy bàn tay nàng - đưa lên môi hôn, trong khi nàng vừa mới nói dứt câu “ Đã đến giờ rồi, em về…”

Chúng tôi chia tay khi bóng chiều đã dần khuất sau dãy núi thẩm đen xa phía xa. Cảnh rừng dồi chìm dần vào bóng đêm mờ nhạt. Từng chùm ánh đèn phía dưới chân đồi đã lấp lánh. Tôi bước theo nàng từng bước chậm, xuống đến con đường nhỏ, rẽ vào một ngã phố; lòng dâng tràn bao nổi xao xuyến, tiếc thương!

Nàng đưa tay chào từ giã tôi, im lặng chìm khuất trong con đường bồng bềnh bóng người…

 

 

 

Mấy hôm sau, ngay cả lúc cha tôi đã lên sống với tôi ở Hoàng Lan, tôi vẫn luôn đến thăm Đồi Cù; nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng nàng! Có hôm, tôi đã thử lần đi theo con đường rẽ vào phố với hy vọng sẽ bắt gặp dáng nàng thấp thoáng đâu đó trong khu vườn hoa của dãy biệt thự kín cổng rợp bóng cây và hoa, nhưng chẳng tìm thấy gì!

Nhiều hôm, tôi đi thơ thẩn quanh đồi, rồi đến ngồi bên gốc cây thông già hôm trước, mà lòng cứ xốn xang buồn. Cha tôi ngạc nhiên: “Con làm sao thế?”, nhưng tôi chỉ mỉm cười, để ông yên tâm: “Nothing - thanks!”.

Một buổi sáng sớm, trước ngày cha tôi quyết định rời Đà lạt - tôi đã tìm đến đồi Cù lần cuối - như để vĩnh biệt nàng. Từ xa, tôi đã nhìn thấy cành hoa Đào còn tươi mới nằm ngay dưới gốc thông già mà chúng tôi đã ngồi. Tôi vội vàng chạy đến: Cành hoa Đào được đặt trên một phong thư - có bài thơ viết tay trên trang vở học trò, nét chữ tròn đầy – cẩn trọng:

             “KHÚC HÁT TINH KHÔI (1)
          tình yêu nở bung như cánh đào buổi sáng
          không cần sương đêm nuôi dưỡng
          không sợ mây chiều dòm ngó
          ta yêu nhau, một điều rất đỗi bình thường
          cỏ cây mở lời chúc tụng
          sỏi đá biết thầm thì
          xòe tay anh ra để thấy đời em
          xòe tay em ra để thấy đời anh
          xin nhau một chút ngọt ngào
         trên nụ hôn đầu ở bàn tay nhau
         tình yêu anh và tình yêu em
         hát say sưa khúc hát cũ càng
         mà ngàn sau vẫn mới tinh khôi
         ngàn sau, ngàn sau tim đập một nhịp thôi
         hãy xin em bé nhỏ
         hãy xin em hiền lành
         hãy xin đời mộc mạc
        uống trọn hạnh phúc trong
        *
        này người yêu dấu bên kia một nương đồi gió bão
        bên kia một trùng dương thăm thẳm
        vì sao bóng mắt ngó nhau cười
        khi đã đầy lệ ứa
        những ngọn roi đời tàn bạo quất đôi chân
         khóc giùm nhau nỗi sầu chín rũ
         tan vào nhau trăm đau đớn phân ly
         *
         ném tung hết gương đời hệ lụy
         xin soi chung một mặt trời”
        Người bạn nhỏ “

 

Chúng tôi quay về Nha Trang sớm hơn hai ngày để ba tôi có thời gian ghé thăm vài người bạn thân cũ mà trước 1975 đã cùng ông làm việc ở Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp.

Ngôi nhà đầu tiên chúng tôi đến thăm nằm ở gần cuối đường Sinh Trung. Đó là một ngôi nhà cấp 4, mái ngói đã bám đầy rêu xanh, ẩn mình trong cây lá yên vắng. Nhìn ngôi nhà, tôi đã cảm thấy rất yêu mến, vì vẻ giản dị, hiền hòa, được phủ mát bóng cây. Có điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là trước hiên nhà lại có một gốc hoa Đào đang độ cuối mùa.

Tại gian phòng khách ấm cúng với vài bức thư pháp, vài bức tranh lụa thủy mặc đã cũ; tôi thật sự bàng hoàng đến ngây ngất, khi người bạn của cha tôi giới thiệu cô con gái út của ông: Bảo Trang - nàng chính là cô gái đã cho tôi cánh hoa Đào ở đồi Cù hôm nào và bài thơ từ biệt dào dạt xúc cảm yêu thương, nhưng cũng quá đổi ngậm ngùi …

Hình như cha tôi (và cả người bạn) đã nhận ra sự xúc động khác lạ của tôi, nhận ra là chúng tôi đã quen nhau.

Người bạn hỏi: “Cháu đã quen em Bảo Trang trước rồi sao?”.

Cha tôi đã giúp tôi - ông trả lời:

- Có lẽ chưa! Ông cười, chúng tôi vừa về nước chưa được hai tuần. Cháu là lần đầu tiên mới trở về …

sau mấy ngày liền suy nghĩ, về đến Quy Nhơn rồi, tôi mới thú thật với ba tôi về Bảo Trang. Về buổi chiều đầu tiên tuyệt đẹp ở Đồi Cù, về bài thơ và cánh hoa Đào từ biệt, và nhất là tình cảm đặc biệt của tôi đã dành cho nàng.

Theo kinh nghiệm, ông đã biết tôi yêu Bảo Trang không thể xa. Ông cười, hỏi: “Vậy ý con muốn thế nào?”.

- Con muốn nàng sống mãi mãi bên con!

Thế là chiều hôm ấy ông điện thoại ngay cho mẹ tôi ở Cali, các anh chị tôi - tất cả đều vui mừng khi biết tôi đã chọn được một người bạn đời ở Việt Nam, là chỗ thâm giao của gia đình từ thưở xưa…

Sau đó, ông điện thoại thăm người bạn - cha của Bảo Trang, ngỏ ý kết nghĩa “sui gia” với người bạn - cho tình cảm bạn bè càng thêm gắn bó, gần gũi.

Chỉ một ngày sau, người bạn gọi cho cha tôi cho biết Bảo Trang tỏ ý không bằng lòng. Nàng chỉ khóc mà không nói được gì thêm…

 

(1) Thơ NB

Saigon,Tháng 5 năm 2000

MANG VIÊN LONG

 

 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét