Thứ Tư, 20 tháng 1, 2016

Ảnh Tác Giả

NGÀY XUÂN
XEM HÁT BỘI


                              
Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG      
                    
Sinh hoạt ở miền quê tôi chỉ có vẻ tươi tắn, nhộn nhịp lên đôi chút khi có một gánh hát bội nào đó đến lưu diễn tại rạp Sao Mai. Buổi sáng gánh hát dọn đến, ngay buổi trưa cả xã đều đã biết tin. Ngoài chợ, bà con bàn tán về các diễn viên, kể cho nhau nghe về vở tuồng mà gánh hát sẽ diễn vào buổi tối… Mọi người đều có vẻ háo hức, sôi nổi, như họ đang có một niềm vui mới lạ nào chờ đợi.

          Bọn trẻ chúng tôi thì bao giờ cũng nhiệt tình hơn hết. Ở trường, giờ ra chơi, chúng tôi xôn xao bàn tính đến các dự định vào buổi tối, hay bu quanh một đứa nào nghe lỏm được ở nhà về vở tuồng, đang say sưa kể lại khúc được khúc mất, không đầu không đuôi.
          Tôi luôn luôn là kẻ chỉ đứng dựa cột mà nghe, bởi vì tôi biết tôi không còn cha hay mẹ dắt đi theo, không có xu nào để mua vé, và nhất là ông anh cả khó tính của tôi không dễ gì thả cho tôi đi ra khỏi nhà lâu!
          Nhớ một cái Tết năm học lớp Nhì – lớp Bốn bây giờ, vì không cưỡng lại được tiếng trống thúc giục khán giả vang vọng từng hồi từ rạp hát, tôi đã lén trốn anh, chạy ra rạp để xem thử. Điện thắp sáng choang, các tấm bảng vẽ quảng cáo nhiều vở tuồng đầy màu sắc, chân dung của nam nữ diễn viên được phóng lớn treo dọc vách tường trước cửa, tiếng trống xen lẫn tiếng máy phóng thanh mời gọi mọi người dồn dập… Đứng giữa đám người áo quần sạch đẹp, nói cười dòn dã, tay cầm sẵn tấm vé hay chen nhau ở ô cửa phòng bán vé; tôi không tìm ra được một gương mặt thân thiết nào để đủ can đảm xin họ dắt vào rạp giúp. Trước mắt tôi, lũ trẻ bị họ từ chối, rầy rà, làm tôi càng lo sợ. Cuối cùng, gần đến giờ mở màn, tiếng trống lệnh bên trong đã nổi lên đến lần thứ ba, tôi phải làm dạn cầm lấy cánh tay của một ông già trạc trên sáu chục tuổi. Ông ta quay phắt lại trố mắt nhìn tôi, và bắt gặp ánh mắt van xin khẩn thiết của tôi; ông đành im lặng. Có lẽ ông đang nhớ ra nét mặt quen quen của tôi, hay nhớ tới một đứa cháu tội nghiệp nào đó…
          Lúc gần đến cửa, chỗ hai nhân viên đang kiểm soát vé, ông quay lại dặn: “Cháu bám chặt vào!”. Thế là tôi qua lọt cửa ải gian nan. Đêm đó tôi được xem vở “Bao Công Tra Aùn Quách Què” mà quên bẵng ông anh đang gầm gừ ở nhà. Đến khuya, tuồng hát mãn, mọi người ra về nói cười, gọi nhau rộn rã, còn tôi phải chạy một mạch về nhà, trong đầu quên mất gương mặt đen sì của Bao Thanh Thiên, mà chỉ hiện ra nét mặt đỏ bừng của anh tôi. Đêm Mồng Bốn Tết năm đó tôi bị “xử án” cột hai tay vào gốc cây sau vườn, tha hồ bị muỗi cắn và sợ ma…
          Tết năm sau, đoàn “Tân Thành Ban” của ông bầu Văn Chinh lại dọn về rạp Sao Mai . Trước khi gánh hát lục đục dọn đến cả tuần lễ, người ta đã biết rõ tin tức, loan báo cho nhau nhiều chi tiết hấp dẫn: Gánh hát sẽ tăng cường thêm diễn viên nào diễn viên nào, sẽ hát tuồng gì tuồng gì, tại sao bà Mộng Thu sẽ đóng vai Tiết Nhơn Quý thay Văn Chinh trong tuồng “Tiết Nhơn Quý Chinh Đông”… Tóm lại, mỗi ngày, mỗi người, không biết đã đào ở đâu ra những điều mới lạ quanh gánh hát chưa kịp dọn đến rạp để mà bàn chuyện. Kép thì có Văn Chinh, Long Trọng, Tư Cá, Nguyên Lai. Đào thì có Mộng Thu, Ngọc Cầm, Thu An, Bích Thủy. Hề thì ngoài Hề Công, còn có thêm Tư Lé, Minh Hiện… Cái không khí mùa xuân, ngày Tết cũng vì thế thêm gần, thêm rõ, thúc giục mọi người…
          Khác với người lớn, bọn trẻ chúng tôi chỉ chú ý đến các vai hề, vì mỗi lần họ xuất hiện, là chúng tôi đều ôm bụng mà cười. Chúng tôi cũng tụ nhau nhắc kể lại các pha chọc cười của các vai hề của mỗi gánh hát đã được xem. Bọn chúng tôi đều chịu nhất là Hề Công- ông ta gây cười rất duyên dáng, và cũng rất sâu độc. Hình như lúc xem diễn, bao giờ bọn tôi cũng mong ngóng được thấy họ trên sân khấu. Giống như cuộc đời mà không có những “tay hề” nhũng nhiễu múa may thì cũng buồn…
          Ba ngày Tết năm ấy, tôi được tự do hơn vì anh tôi bận bịu với vợ con, bè bạn… Tuy có thể đi xem hát mà không bị cột tay vào gốc cây, nhưng ngặt nỗi không có tiền mua vé – dầu chỉ là tấm vé hạng chót. Bọn thằng Thu, thằng Tỷ, thằng Vinh rủ tôi đến rạp hát thật sớm. Đang thơ thẩn trước cửa rạp, xem mấy tấm chân dung của diễn viên được tô màu sặc sỡ, thì người gác cửa gọi chúng tôi lại – hỏi : “Chúng mày muốn xem hát tuồng không?”. Cả bọn nhao nhao lên: “Muốn. Muốn”. Gã ta ra lệnh : “Vào khiêng chiếc trống đến chỗ kia, thay phiên nhau đánh, đến lúc gần mở màn tao cho khiêng vào rạp, ở trong đó coi luôn!”.
          Thật là may mắn. Và sung sướng. Bọn tôi luân phiên đánh trống, từ lúc xế chiều cho đến tối mịt, rồi được khiêng trống ngang nhiên đi vào rạp giữa bao cặp mắt thèm thuồng của lũ trẻ không có tiền vào cửa. Đêm đó, tuy hai cánh tay đứa nào cũng muốn rã ra, nhức mỏi, nhưng bù vào đã được xem ông Văn Chinh đóng vai Tiết Đinh Sang, còn bà Mộng Thu đóng vai Phàn Lê Huê, trong vở “Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê” hấp dẫn…
          Chiều hôm sau, dầu cho hai cánh tay vẫn còn ê ẩm, chúng tôi lại hẹn nhau ra rạp hát. Bọn tôi đến sớm như hôm qua, nhưng bọn thằng Bổn, thằng Minh, thằng Hùng - cà lại có mặt sớm hơn : Chúng đang loay hoay kê chân trống, cầm cặp dùi, chuẩn bị thay phiên nhau đánh…
          Theo lời chiếc xe ngựa đi quảng cáo vào buổi sáng cho biết, đêm nay sẽ diễn vở “Hộ Sinh Đàn” của Đào Tấn. Tôi được nghe nhiều người kể rằng, ông Đào Tấn làm quan tới chức Thượng Thơ, Cơ Mật Viện Đại Thần, nhưng ham mê viết tuồng hát hơn chuyện quan trường, danh lợi. Ông còn quy tụ nhiều nghệ sĩ dạy họ hát, tập họ diễn, làm thành một đoàn hát rất nổi tiếng trước đây. Ông được coi là Tổ của ngành hát bội, hiện quê ông ở Vinh Thạnh – Tuy Phước, vẫn còn đền thờ. Cả ở Huế cũng còn đền thờ Tổ Đào Tấn nữa… Vở “Hộ Sinh Đàn” là một vở tuồng rất hay của ông, nếu không được xem, có lẽ tôi sẽ tiếc lắm, vì ít có dịp được xem lại.
          Chúng tôi đều buồn thiu như vừa mới đánh mất một cơ hội đáng giá ngàn vàng. Đang thất vọng cùng cực thì thằng Thu chợt reo lên : “Tao có cách rồi!”. Thằng Tỷ sốt ruột : “Cách gì? Nói lẹ đi, mày!”. Thu kéo chúng tôi qua bên kia đường, bày kế : “Bọn mình đứng chơi ở đây, đợi khách vào rạp đông một chút, cùng nhau lội mương qua phía sau hông rạp. Giữa vách tường của rạp với sau vườn nhà bên cạnh, có một giếng nước. Một nửa ở phía trong, một nửa ở phía ngoài. Bọn mình cứ từng đứa vịn bờ giếng ngoài, ngóc đầu lên phía bên kia, rồi leo qua…”.
          Dự tính của thằng Thu được thằng Tỷ, thằng Vinh tán thành ngay, khen là diệu kế, vì nghe rất gọn. Tôi im lặng vì còn phân vân, chưa biết phải làm thế nào để vào rạp xem “Hộ Sinh Đàn” cho được an toàn hơn là cách phải chui qua miệng giếng.  Rủi ro bị rớt tủm xuống giếng thì sao? Tôi thử đề nghị: “… Hay là mình trèo lên mái nhà hai bên hông rạp, chui qua mái rạp còn chừa trống, rồi nhảy xuống?...”. Thằng Vinh phản đối liền: “Thôi đi cha, đường đó bị lộ rồi… Tối hôm qua tụi nó vừa mới thò đầu vào, đã bị tóm mấy trự…”.
          Cuối cùng tôi cũng đành phải chọn cách theo thằng Thu lội qua mương để mong sẽ được thấy tận mắt một Tiết Cương “anh hùng mang nặng gánh non sông”,một Lan Anh “trọn nghĩa trọn tình”, một Tiết Bất Nghĩa “bạc nghĩa, bạc tình – ham danh lợi, phản bạn tâm giao”, một Dương Tú Hà “chẳng phụ ân là nghĩa, giữ trọn tiết là trinh”…
          Lúc đã đứng bên miệng giếng, cả thằng Tỷ, thằng Vinh cũng bắt đầu ngần ngại. Tới phút này, có lẽ chúng mới biết rõ rằng, cách chui qua miệng giếng của thằng Thu không gọn chút nào. Nói thì xuôi tai, nhưng làm thì khó trôi chảy. Thu lên tiếng :”Bọn bay sợ thì để tao vào trước!”. Nói dứt lời, Thu dang hai tay vịn vào thành, đu người xuống, bám chặt hai chân, ngóc đầu sang bờ giếng phía trong, lẹ làng chuyển hai tay qua… thế là thằng Thu đã được vào trong rạp hát ngon lành. Thằng Vinh nói với Tỷ : “Mày vào đi!” – nó dặn thêm : “Nhớ đứng đó chờ kéo tao lên nghe không?”. Một phút e ngại, Tỷ cũng bám hai tay vào thành, đu người xuống, ngóc đầu lên, đổi dần hai tay qua… Thằng Tỷ cũng vào được an toàn tuy có vất vả hơn thằng Thu. Còn lại bên này là Vinh và tôi, hai thằng nhác gan nhất trong bọn. Vinh vỗ vai tôi: “Mày vào trước đi!”. Tôi lo sợ : “Không- mày vào trước…”. Vinh bắt chước các động tác của Thu và Tỷ, nhưng vì đôi tay run, hay hai chân bị trợt bởi rong rêu; tôi thấy đầu nó bị tụt xuống… Tôi hốt hoảng vội với tay xuống miệng giếng, kéo ghì hai vai áo nó lên. Phía trong, Thu và Tỷ cũng vừa kịp mỗi đứa giữ một cánh tay nó, lôi lên một cách khó nhọc như lôi một bao bột mì!
          Bây giờ chỉ còn lại một mình tôi bên này bờ giếng tối om. Vắng vẻ. Mỗi lần thử đặt tay lên thành giếng, là y như người tôi run lên. Tôi cảm thấy nước mương còn ướt đang làm tôi lạnh. Tôi nghĩ đến lòng giếng sâu, đen ngòm, chợt rùng mình, lo sợ. Tôi quyết định dò dẫm từng bước ra khỏi khu vườn, lội qua mương, trở về…
          Đã hơn bốn mươi năm trôi qua, cuộc đời đổi thay, chúng tôi mỗi người một ngã: Thu sau khi thi hỏng Tú Tài một hai năm, đi lính, đã chết từ lúc anh vừa mới hai mươi mốt tuổi. Vinh thi đậu Tú Tài hai hạng ưu, được đi du học ở Pháp, rồi sống luôn bên ấy. Tỷ theo gia đình vào vùng Chợ Lớn nhờ cậy người đồng hương giúp đỡ làm ăn, đã cùng gia đình ra nước ngoài theo diện người Hoa cách đây gần hai mươi năm. Chỉ còn một mình tôi trở lại quê nhà sau nhiều năm phiêu bạt đó đây với nghề “bán cháo phổi”.
          Những ngày gần cuối tháng chạp năm ngoái, tôi nhận được điện thoại của anh tôi từ nước ngoài gọi về cho biết anh sẽ về Sài Gòn để làm đám cưới cho một đứa con trai ở Nhật: “… Tụi nó gặp nhau ở Nhật, thương nhau, nhưng sẽ về Sài Gòn tổ chức lễ cưới, vì ở quê còn nhiều bà con, chi phí rẻ, lại được ăn Tết… Thế nào chú cũng phải vào để cùng tôi lo cho cháu nhé!”.
          Tết gần kề, tuy rất bận, nhưng tôi đã thu xếp để ra đi, vì muốn gặp lại anh tôi sau nhiều năm xa cách và vắng tin. Hai lễ cưới và rước dâu tổ chức ở nhà riêng vào buổi sáng, còn tiệc liên hoan được đãi ở nhà hàng Đồng Khánh vào buổi chiều. Tôi đến Đồng Khánh đúng giờ hẹn cùng với đứa con gái đang làm việc ở Công ty Dược phẩm dược liệu CaViMedic.
          Vừa bước qua khung cửa kính để đến phòng thang máy, thật lạ lùng- tôi đã nhìn thấy Vinh đang ngồi ở chiếc bàn tròn đặt giữa phòng với một người đàn bà đẹp, gương mặt tròn đầy, phúc hậu. Tôi đến gần, và Vinh cũng vừa kịp nhận ra tôi: Anh đứng dậy, xô ghế, bước lại: “Viên phải không? – Trời ơi…”. Chúng tôi cùng ôm nhau, khá lâu, Vinh nói : “Ngồi đây với bọn mình một chút đã…”. Tôi hỏi: “Cậu về quê ăn Tết à ?”. Anh kéo ghế, cầm tay tôi, ấn tôi ngồi xuống – cười: “Thỉnh thoảng mình cũng về nước ăn Tết… Người thân mình ở đây còn nhiều.” – “Sao không về ngoài quê ăn Têt một lần?”. Suy nghĩ một phút, anh lại cười: “Người thân mình đã vào đây cả rồi, ngoài quê chẳng còn gì…”. Tôi nói chậm rãi – giọng buồn buồn: “Cậu nói thế thì chưa đúng hẳn, ngoài quê mình còn nhiều chứ, chẳng hạn như mấy gánh hát bội…”. Vinh chồm lên, lấy tay đập vào vai tôi, cười thoải mái : “Ông nhắc làm tôi nhớ mãi cái đêm mồng Ba Tết đi xem “Hộ Sinh Đàn” của Đào Tấn… Bên ấy, tôi cũng có mấy cuốn băng Video ghi tuồng hát bội, có cả “Phụng Nghi Đình”, “Tiết Nhơn Quý Chinh Đông”, và “Hộ Sinh Đàn” nữa! Lâu lâu, mình cũng có xem lại với các con, bè bạn đồng hương …”.
          Đứa con gái tôi đang đứng ở gần phòng thang máy chờ, tôi gọi nó lại, giới thiệu với vợ chồng Vinh : “Đây là đứa con gái giữa của tôi, dược sĩ…”.
          Khách mời đã lần lượt lên phòng tiệc, tôi xin tạm biệt anh. Vinh rút trong ví ra trao cho tôi một tấm danh thiếp – dặn: “Ông nhớ viết thư hay gọi điện cho tôi nhé!”.
          -Bao giờ thì cậu mới có dịp về ngoài quê ăn một cái Tết?
          -Tôi đang ao ước….
          -Tôi sẽ đợi cậu về, để cùng nhau ra rạp Sao Mai…
          Tất cả chúng tôi đều cười…

                                                    Quê nhà, tháng 10.2000
                                        

  


      MỘT  ĐÊM 

      Ở  Q U Ê  N H À

     Truyện Ngắn
MANG VIÊN LONG




TÔI mồ côi cha mẹ từ năm lên 8 tuổi, nên trong thời gian đầu ở Tiểu học, anh chị tôi phải gửi tôi đến ở nhờ nhà bác tôi ở thị trấn để tiếp tục được đi học. Vì vậy, tôi có dịp sống trong gia đình bác gần hai năm. Bác tôi làm hiệu trưởng một trường tiểu học. Vợ bác có một sạp hàng buôn vải và áo quần may sẵn ở chợ. Bác có cả thảy bốn người con – ba trai, một cô gái út.
Khi lên Trung học, tôi phải về thị xã trọ học; lúc này anh chị tôi  đã có thể xoay xở, dành dụm, để lo cho tôi qua ngày được. Thời gian này, tôi ít có dịp gần gũi vợ chồng bác và các anh chị – ngoại trừ các ngày giỗ hay lễ Tết.
Sau này, lớn lên- được vào Saigon học; tôi càng ít có dịp đến thăm gia đình bác, nhưng qua tin tức của anh chị – tôi cũng được biết sơ lược những sinh hoạt, đổi thay trong gia đình bác: Người con trai trưởng tốt nghiệp đại học Nông lâm, đang công tác ở phòng Nông nghiệp huyện. Hai anh trai kề, cũng đều học xong đại học, đang làm việc ở Saigon. Cô con gái út thi hỏng đại học– gặp cảnh bác gái tôi mất – ở nhà thay mẹ trông coi sạp hàng ngoài chợ…
Về sau, anh chị tôi cũng đều sống xa quê – chị tôi thì vì tình duyên, còn anh tôi vì sinh kế. Hơn 10 năm sau tôi mới có dịp về lại quê nhà để thăm bác.
Theo lời chỉ dẫn của vợ người anh con trưởng – tôi tìm đến thăm bác tại một ngôi nhà nhỏ nằm sâu trong xóm lao động ngoại ô. Tôi tìm về thăm bác như để tìm lại chút hơi ấm của người thân, chút an ủi nghĩa tình của quê nhà, và cũng để tạ ơn bác đã nhận tôi về sống với gia đình lúc ba anh em tôi đang gặp cảnh khốn khó.
Gặp lại bác, tôi nhìn thấy bác đã thay đổi quá nhiều : Người gầy cao dỏng, râu tóc bạc, dáng điệu chậm chạp; tất cả toát lên vẻ vừa bơ phờ, vừa thanh thoát. Khi biết bác về sống trong ngôi nhà quạnh vắng này một mình – tôi đã quyết định ở lại thêm với bác một đêm nữa.
Chiều tối, bác bảo tôi mang chiếc bàn con đặt giữa sân – hai chiếc ghế dựa thấp. Bác mang hai ly cafe nhỏ, bộ bình trà, và cả gói Basto đỏ còn nguyên đặt lên bàn .
-Cháu ngồi xuống đây – bác ôn tồn nói, đêm nay bác cháu mình thức một đêm…
Tôi đáp nhỏ : “Dạ!”
-Cháu có đồng ý không ? Bác nhìn lên mặt tôi, ánh nhìn như chờ đợi một sự đồng tình. Tôi cảm thấy thương bác vô hạn. Tuổi già thường có nhiều tâm sự và cũng thèm muốn được chuyện trò

VỀ NGƯỜI VỢ ĐÃ MẤT: “Bác gái cháu mất, bác nghĩ đời bác còn lại thật nhạt nhẽo, thật vô nghĩa – dầu rằng bác đã từng thấm thía ý nghĩa sâu xa của hai tiếng “vô thường” từ khi ông bà nội cháu lần lượt qua đời… Trong cuộc đời bác, đã từng tiễn đưa bao người thân, bạn bè, bà con xóm giềng ra đi – nhưng chưa lần nào bác cảm thấy quá chua xót, quá đau đớn như đã tiễn đưa bác gái cháu ngày ấy! Bởi vì, bác biết được rằng, cũng từ ngày ấy – cuộc đời của bác sẽ đổi thay hoàn toàn… Người xưa, gọi nghĩa vợ chồng là cái “Đạo”. Đạo vợ chồng. Trong tuổi xế chiều, cái nghĩa tình sâu nặng ấy lại càng cần thiết cho đời người nhiều hơn nữa. Tuổi già là tuổi cần nương tựa, cần nhiều an ủi, chia sẻ, cảm thông để sống. Mà có ai trên đời này làm được việc ấy hơn chồng với vợ, vợ với chồng đâu? Bác cảm thấy bị hụt hẫng, như vừa từ trong một giấc mơ choàng tỉnh. Cả năm sau, hễ mỗi lần thắp hương trên bàn thờ bác gái cháu, bác không ngăn được nước mắt. Bác luôn cảm thấy một nỗi cô đơn trống vắng bao trùm, cho dầu sống giữa con cháu… Bác có được nỗi cảm thông sâu thẳm với người bạn già đã khóc vợ đến mù đôi mắt, và cũng hiểu ra tại sao bác Tâm Cảnh cũng đã ra đi đúng vào ngày chung thất của vợ bác ấy! Hơn bốn mươi năm chung sống, biết bao cay đắng ngọt bùi đều có nhau, đều nương tựa xẻ chia, nay còn ai? (Bác bỗng im lặng. Cúi xuuống bưng tách trà uống một ngụm nhỏ. Nhìn ngó mông lung ra phía vườn đã chập choạng bóng tối). Có lẽ cháu sẽ ngạc nhiên, tại sao bác chưa chết? Tại sao bác vẫn còn sống – sống một mình trong căn nhà bỏ hoang của một người bạn đã đi xa ?
Nhân ngày cúng thất tuần, cúng tròn 100 ngày và chung thất bác gái, bác có viết được ba bài thơ. Bác sao gởi cho mỗi đứa con một bản; nhưng không biết chúng có để mắt đọc đến hay không ? Bác đọc cháu nghe một bài mới viết – sau hai năm bà ấy mất:


Cầm kim tra nút áo
Nhớ vợ hiền năm xưa…
Đèn khuya mờ một bóng,
Dịu dàng mũi kim đưa !

Cầm kim – giọt lệ chảy…
Khóc đời mênh mang buồn !
Trăm năm là bao nhỉ?
Mà sầu giọt giọt tuôn!


          CHUYỆN NGƯỜI CON TRAI TRƯỞNG: “Bác sống với vợ chồng thằng Nguyên đâu được gần hai năm. Vợ chồng nó có hai đứa con trai, một lên 8, một lên 6. Vợ chồng đi làm suốt ngày; thứ 7 chủ nhật đi học thêm Anh văn và Vi tính. Bác ở nhà với chị giúp việc, phụ bà ấy chăm sóc, dạy dỗ hai đứa nhỏ. Trông nom nhà cửa, chăm sóc nhang đèn các bàn thờ, còn thời gian thì đọc kinh sách, đôi khi cũng làm đôi ba bài thơ… Nhờ đọc kinh sách mà nỗi buồn thương bác gái nguôi ngoai dần, biết đời mở mắt hay nhắm mắt cũng đều là giấc mộng cả. Mượn thân giả để học Phật, tu hành – tuy với bác có hơi muộn. Nhưng Phật đã dạy sớm hay muộn chẳng có gì để lo, đều quan trọng là có vào được Đạo hay không? Có tinh tấn sống theo lời Phật dạy hay không…
          Vì tay chân cũng đã yếu, mắt không còn lanh lợi, mỗi lần bước ra đường là phải ăn mặc, đàng hoàng, đều lo ngại xe cộ, nên thỉnh thoảng bác có nhờ thằng Nguyên trên đường đi làm ghé bỏ cho bác cái thư, hay mua cho bác tờ báo, quyển sách có khi nó nhớ. Nhiều lúc nó quên. Một hôm nó nhăn nhó, lớn tiếng với bác : “Ba già rồi, còn thư từ, sách báo làm gì nữa? Tuần nào ba cũng gửi hai ba cái thư để làm gì? “ Bác im lặng.
          Một tháng hai lần, bác đều đến chùa G.H để thọ bát quan trai. Nghe quý thầy giảng pháp. Gặp lại bạn đạo, bạn thơ – hàn huyên tâm sự – coi như một nguồn an ủi quý báu của tuổi già. Có lần vừa ở chùa về – vợ thằng Nguyên trông thấy đã lên tiếng : “Ba có mấy ông bạn ở T.P đến thăm – ba già rồi còn bạn bè chi nhiều cho mệt? Lại sinh chuyện đi chùa cả ngày để làm gì? “ . Bác lặng thinh. Bác ở trong nhà thấp thoáng như một cái bóng.


          VỚI NGƯỜI CON GÁI ÚT: “Con Thảo có chồng là kỹ sư làm việc ở nhà máy cơ khí Q.T, có một đứa con trai lên ba. Nó ở luôn ngoài chợ. Chồng một tuần về nhà một lần vào chiều thứ bảy. Việc nhà có nhờ một con bé khoảng 17 tuổi giúp. Nó lên nhà Nguyên gặp bác, gọi bác về ở với vợ chồng nó, vì giao con và nhà cửa cho một con bé xa lạ nó không yên tâm.
          Bác về sống chung với gia đình con Thảo chưa hết tháng, nghe nó than thở việc buôn bán ế ẩm, chi phí cho con nhiều, chồng đi làm khổ mà lương hướng không có bao nhiêu, lại thêm tiền cho con bé giúp việc; bác có hứa hằng tháng sẽ chia tiền lương hưu của bác cho nó một nửa – gọi là để chia sớt gánh nặng cho vợ chồng nó.
          Thằng nhỏ con Thảo rất mến bác, suốt ngày cứ đeo theo ông ngoại, đòi bày đủ thứ trò chơi, kể đủ thứ chuyện. Bác thay vợ chồng Thảo chăm sóc nó, từ miếng ăn, giấc ngủ – nhất là lúc ốm đau. Một hôm nó biếng ăn, có triệu chứng ói – bác phải chạy qua sạp bán đồ chơi trẻ em, mua cho nó cây đờn nhựa điện tử như đã hứa từ trước. Nó vui vẻ vừa chơi đờn, vừa ăn… Tối về, biết chuyện – Thảo đã nói với bác : “Có mấy đồng tiền hưu rủng rẻng lại bày đặt! Sao ba không mua cho nó hộp sữa, ba có nuôi nó được bữa nào không?”. Trong bữa cơm tối, có chồng nó về, bác có khuyên chúng mấy ý về sự cần thiết của đồ chơi cho trẻ con. Ăn mặc rất cần, nhưng đồ chơi cũng rất cần cho chúng. Lời hứa với trẻ là rất quan trọng. Không nên quá nuông chìu cũng không nên khắc khe với chúng… Chồng của Thảo vụt nói : “Ba nói lung tung quá, nhiều chuyện quá!” – Vội bỏ đũa đứng dậy! Bác điếng lặng.
          Thỉnh thoảng có vài tờ báo đăng thơ của bác – bác đọc lại, cảm thấy rất sung sướng – cầm tờ báo đưa cho vợ chồng nó đọc – cả hai đứa đều ngó lơ. Thảo chỉ liếc mắt lên bài thơ – cười nhạt : “Được bao nhiêu đồng?”. Chồng nó nói : “Mấy ông bạn thơ của ba rầy rà quá!”. Chúng đã không dành chút thời gian nào cho bác cả, thì bạn bè là nguồn an ủi duy nhất còn lại cho đời bác chứ?


          VỀ HAI ANH CON TRAI Ở SAIGON: “Cả  năm trời, hai đứa chẳng viết về cho bác một lá thư nào. Năm kia, bác gởi thư vào, nhờ chúng đến tòa soạn để đăng ký  cho bác hai tờ báo dài hạn – chúng đều im lặng. Điện thoại hỏi, chúng bảo đã quên . Rõ ràng là chúng đã quên bác thật rồi. Hình như chúng không còn biết có bác trên cõi đời này nữa ! Người xưa có nói “trẻ cậy cha, già cậy con” – nhưng có mấy người  già cậy nhờ được con? Có mấy đứa con để mắt đến cha mẹ? Nuôi con, bác không hề mong sẽ được nhờ con về chuyện tiền nong, về đời sống vật chất – bác chỉ mong được an ủi chia sẻ mọi nỗi buồn vui, được cảm thông, gần gũi khi tuổi gìa, lúc ốm đau, cô độc… Ca dao xưa có nhiều câu hát thật chí lý : “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng / con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”! Chẳng lẽ mãi mãi đều quay theo cái vòng đau  buồn oan khiên ấy? (Trời đã về khuya. Gió cuối đông vẫn còn cái lạnh tê tái. Tôi rót thêm cho bác một tách trà. Đốt cho mình thêm một điếu thuốc.). Lâu lâu gửi cho cha mẹ một ít tiền là đủ rồi sao? Là xong rồi sao? Cũng may là bác còn mấy đồng lương hưu để sống – nếu không, thì cũng chẳng biết sẽ như thế nào? Có nhiều vị thầy trụ trì ở  các chùa bác quen thân, đều hoan hỉ kêu bác đến sống – bác còn đang suy nghĩ. Biết rằng “trẻ vui nhà, gìa vui chùa” – nhưng “vui” phải được lợi mình, lợi người. Lợi mình không thôi thì có ích kỷ quá không cháu? Ngày đêm bác đều niệm Phật A Di Đà chỉ nguyện ra đi cho nhanh chóng, nhẹ nhàng, không làm phiền khổ đến con cháu. Được vậy, kiếp này bác đã mãn nguyện rồi. Nghĩ lại, suốt đời đi dạy học, sống thanh bần, lương thiện, học Phật tu hành – bác nghĩ tin là bác sẽ được như thế. Việc nhỏ hằng ngày chúng không hề quan tâm chia sẻ, thì hỏi việc lớn chúng có thể vui vẻ tự nguyện để làm hay không? Đời bác, không hề muốn việc làm trong sự ép buộc – cho dù đó là tình yêu, một nụ cười… Thư bác viết vào cho con là cả tâm tình, nước mắt đọng lại mà chúng đâu có thèm đọc. Có lần lại nói : “Ba viết thư nhiều chi cho tốn công, chúng con đâu có thời gian để đọc?” Công việc gì cấp thiết quan trọng hơn tình nghĩa cha con hả cháu?
          Bác quyết định dời đến ở tạm ngôi nhà này là do yêu cầu của một người bạn có hoàn cảnh phải đi xa ; đúng lúc bác nhận thấy sự có mặt của bác trong gia đình con Thảo là “thừa thãi”. Vợ chồng nó đã gởi con cho nhà trẻ, con bé giúp việc nghỉ, chúng bắt đầu xem bác như một sự “vướng bận” hay là một gánh nặng. Bác phải quyết định ra đi trước; để chúng khỏi áy náy, lo nghĩ. Nhân dịp một buổi sáng, bác xách cà mèn đi mua về một tô phở. Nghe mùi thơm thằng cháu đòi ăn. Nghĩ bát phở ngon, bác cho nó ăn vài ba muỗng cho nó vui – con Thảo thấy được la lêân, cấm thằng nhỏ ăn. Nó nói : “Ba muốn ăn gì thì mua về ăn, đừng cho nó ăn đồ không hợp vệ sinh nữa!”. Bác nghẹn ngào, không muốn ăn tô phở nữa. Tuy tuổi đã 70 nhưng bác vẫn khỏe, không có bệnh tật gì, còn đi xe đạp lên phố bỏ thư, mua sách báo, thăm bạn bè được– có gì ảnh hưởng đến con cháu đâu? Nếu có bệnh gì, bác phải biết tự lo trước chứ? Trước mặt người bạn và cả vợ chồng nó – bác ngỏ ý dời đi, chúng đều im lặng. Thảo nói : “Chuyện đó tùy ba thôi!”.
          Về sống ở đây, bác có ba thời công phu đều đặn mỗi ngày. Chăm sóc vườn rau xanh để tự túc. Trồng thêm giàn bầu giàn bí, chậu hoa cho vui. Bác dành nhiều thời gian để đọc và viết. Có bạn bè lui thời thường xuyên, học hỏi chuyện Đạo, đàm luận chuyện thơ… Bác lại có tâm nguyện chép tay bộ kinh Pháp Hoa cho thật đẹp, để lại cho con cháu kỷ niệm… Công việc đã làm cho bác có nhiều niềm vui, nguồn an ủi – có một nhà văn nào đó đã nói, sống lâu hay chết yểu điều đó không quan trọng, cái quan trọng nhất là phải sống như thế nào ?
        (Có tiếng gà đâu đó trong xóm bỗng cất vang tiếng gáy. Tôi vén tay áo xem lại giờ – và nói : “Cháu hiểu bác. Bây giờ ,bác cháu ta nên đi nằm nghỉ một lát …”).





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét