Thứ Hai, 9 tháng 5, 2016

Ảnh Nguyễn Chương

Phê Bình Văn Học

NHỮNG SAI LẦM của Học giả HOÀNG XUÂN HÃN
Trong bộ sách LÝ THƯỜNG KIỆT – BÀI 3
 Thái Quốc Mưu


Đôi dòng trước khi vào bài:

* Trong lãnh vực văn học, chúng ta đừng vì học vị của những ông khoa bản mà “BỎ QUÊN” không phê bình những sai lầm trong các tác phẩm của họ.

* Khi phê bình văn học, chúng ta phải ra sức tìm tòi, tham khảo, tra cứu, lấy sự trung thực, lòng ngay thẳng và lương thiện mà nhận định rồi chỉ rõ những chỗ sai lầm. Không nể nang, thiên vị bất cứ kẻ nào! Nếu không làm được những điều đó, chẳng những chúng ta có tội với tiền nhân mà còn có lỗi với những thế hệ mai sau - Thái Quốc Mưu


***

(CHƯƠNG XII. KHÔI PHỤC ĐẤT MẤT. 7. - ĐÒI VẬT-ÁC, VẬT-DƯƠNG.
                                                                            LẠI ĐÀO TÔNG-NGUYÊN. Tr. 342).

Ở trang 345, Hoàng Xuân Hãn lập lại lần nữa:

- “Nói tóm lại, động Vật-dương là đất Nùng Trí-Hội nộp vào Tống năm 1064 và được Tống đổi ra tên Qui-hóa. SAI!

Chúng ta cần biết, chữ ĐỘNG ở đây là danh xưng CẤP SỐ HÀNH CHÁNH, (như xã, ấp, tỉnh, khu), không phải hang động.

Phải dịch như sau mới đúng:

“Khi Tống triều nhận được động Vật Dương của Nùng Trí Hợp, bèn đổi tên theo hệ thống hành chánh của Tống triều. thì tên ĐỘNG đổi thành CHÂU. Còn địa danh VẬT DƯƠNG đổi thành QUI HÓA.

ĐỘNG, tùy theo theo địa lý lớn, nhỏ có thể tương đương với Châu, Quận. Nên biết, Châu, Quận của nước Tàu tương đương với lãnh thổ Việt Nam thời đó. (Việt Nam có tên Giao Chỉ Quận).

Nếu dịch: “... được Tống đổi ra tên Qui-hóa” thì  Hòang Xuân Hãn dịch thiếu, là không dịch chữ ĐỘNG thành CHÂU, khiến cho người đọc hiểu lầm là Tống triều vẫn giữ tên trong hệ thống hành chánh cũ là ĐỘNG, mà chỉ đổi địa danh Vật Dương thành Qui Hóa mà thôi (như vậy, sau khi đổi có nghĩa là ĐỘNG Qui Hóa). Trong khi sau khi đổi tên chính thức là CHÂU Qui Hóa.

Ngoài ra, Hoàng Xuân Hãn dịch Châu Qui Hóa ở mặt chính Bắc châu Quảng Nguyên, liền ranh với Quảng Nguyên. Hoàn toàn SAI! Vì, Châu Qui Hóa ở mặt chính Bắc châu Quảng Nguyên, liền ranh với Quảng Nguyên.

Hoàng Xuân Hãn dịch: “Động Vật-ác là đất do Nùng Tông-Đán nộp Tống triều năm 1057 và được Tống đổi ra châu Thuận-an. Động này ở phía bắc biên thùy huyện Thạch-lâm tức là phần tây-bắc Cao-bằng…...” SAI! Vì, theo địa lý thời đó thì Động Vật Ác ở phía Tây Bắc - thiên Tây, Thuận An, cách Trị sở Thuận An 25 km (cây số) tính theo đường chim bay.

Thực tế, Động Vật Ác và Châu Thuận An là hai địa danh hoàn toàn khác biệt.

Trước khi nhập nhập vào Châu Thuận An, Động Vật Ác nằm ở phía Đông Nam Châu Qui Hóa, tức phía Đông Bắc Châu Quảng Nguyên, và ở phía Tây Bắc Châu Thuận An, cách châu này 24 cây số. Trị sở Vật Ác và Trị sở Qui Hóa cách nhau 17 cây số theo đường chim bay. Châu Quảng Nguyên thời cổ ngày nay là tỉnh Cao Bằng. 

Bản đồ Động Vật Ác và Châu Thuận An thuộc 2 địa khu khác nhau. Sau khi Nùng Tông Đán mang Động Vật Ác về qui thuận, Tống triều mới nhập Động này vào Địa lý Hành chánh của châu Thuận An.

Vị trí Địa lý:
- Trị sở Quảng Nguyên cổ nằm về phía Đông bắc Trị sở Cao Bằng, cách nhau 21 cs.
- Trị sở châu Qui Hóa ở chính Bắc Quảng Nguyên, tức ở Đông bắc Trị sở Cao bằng.
- Động Vật Ác ở hướng Đông bắc Quảng Nguyên, do đó cũng ở Đông bắc Cao bằng.

LỊCH SỬ TƯƠNG QUAN:

Sự kiện Lịch sử. Nhân vật Lịch sử.

Về Lý Công Uẩn ông Hoàng Xuân Hãn viết:

“…….. có người Tống tên Từ Bá-Tường, quê châu Bạch thuộc Quảng-tây, đã cho người thầm thông với vua Lý. Bá-Tường nguyên đậu tiến-sĩ, nhưng không được bổ làm quan. Y viết thư cho vua Lý (1073) nói rằng: “Tiên-thế Đại-vương vốn người đất Mân”
(CHƯƠNG VII. LÝ THƯỜNG-KIỆT TẤN-CÔNG TỐNG. Tr. 176).

Chú thích câu trên Hoàng Xuân Hãn viết:

- Theo sử ta, Lý Công-Uẩn là con vô-thừa nhận. Bố nuôi là Lý Tự-Khánh, cho nên lấy họ là Lý. TT còn chép chuyện hoang-đường mẹ có mang với thần-nhân. Sự thật, chắc rằng thuyết ấy bịa đặt ra, hoặc để che đậy một gốc tích không được đẹp đẽ……

Vì thế thuyết nói Công-Uẩn gốc người Mân có thể là thật. Vả chăng nước ta bắc-thuộc trong nghìn năm, người Trung-quốc hoặc sang buôn bán, hoặc sang làm việc quan, rồi sinh con-gái ở đất ta rất nhiều. Có lẽ hầu hết dân miền trung-châu gốc ở Trung-hoa. Cho nên Công-Uẩn rất có thể là con cháu một người Mân. Tổ-tiên sang nước ta lúc nào? Dựa vào sự họ Lý dấu gốc-tích, tôi (tức Hoàng Xuân Hãn) nghĩ rằng gốc ấy mới. Có lẽ bố Lý Công-Uẩn người Mân, có chức vị quan trọng ở đó. Khi Tống lấy nước Mân (971), họ Lý chạy sang ta ẩn-tích. Sau Công-Uẩn làm vua nước ta, không muốn nói mình là người Bắc; lại nhân muốn tăng lòng dân tin cậy, nên mới bịa ra thuyết con thần. Không biết giả thuyết này đúng hay không. Một điều chắc chắn là đời Tống, người Tống đều nhận Lý gốc ở Mân; không những Từ Bá-Tường nói mà thôi, mà sách Mộng-khê bút đàm cũng nói thế”. (CHÚ THÍCH. Tr. 206, 207).

* Ghi chú:

- Tiếng con-gái trong đoạn trên có lẽ là “con-cái”, do đánh máy lộn mà ra.

- Mân là tên một Sắc tộc cổ tự cổ vẫn tụ cư tại tỉnh Phúc Kiến, cho nên sau này người ta đã dùng chữ “Mân” để gọi tỉnh Phúc Kiến, và gọi người Mân là người Phúc Kiến.”

Trong đoạn chú thích dẫn trên ông Hoàng Xuân Hãn nói Tập “Mộng Khê Bút Đàm” có chép về gốc tích Mân của Lý Công Uẩn, nhưng ông không dẫn nguyên văn.

Sau đây người viết (TQMưu) trích trong tập Bút ký “Mộng Khê Bút Đàm” của Thẩm Quát và cả ghi chép của một vài tập Bút ký đề cập việc này.

Khi dịch đoạn văn trong tập bút ký nầy Hoàng Xuân Hãn viết sai chữ Quát thành chữ Hoạt. Chữ “Quát”: bên trái Bộ thủ [= tay] và bên phải chữ thiệt [= lưỡi], trong khi Hoàng Xuân Hãn ghi lại với Bộ thủy [= nước]).

Thẩm Quát (1031 - 1095) chép:

- “Quốc triều Khai Bảo lục niên Liễn sơ qui phụ, thụ Tĩnh hải Quân Tiết độ sứ; bát niên phong Giao Chỉ Quận Vương.

- Cảnh Đức nguyên niên, thổ nhân Lê Uy sát Liễn tự lập. Tam niên, Uy tử, An Nam đại loạn, cửu vô tù trưởng. Kỳ hậu quốc nhân cộng lập Mân nhân Lý Công Uẩn vi chủ”.
Mộng Khê Bút Đàm. Qu. XXV. Tạp Chí 2. Nam phương Biên hoạn.

Dịch:
- “Năm thứ 6 Niên hiệu Khai Bảo quốc triều (Đinh) Liễn mới qui thuận, triều đình (ban) chức Tĩnh hải Quân Tiết độ sứ; năm thứ 8 phong Giao Chỉ Quận Vương.

- Năm đầu Niên hiệu Cảnh Đức, người bản xứ là Lê Uy giết Liễn tự lên làm vua. Được 3 năm thì (Lê) Uy chết, An Nam đại loạn, không có vua trong một thời gian lâu. Về sau người nước này cùng nhau đưa người Mân là Lý Công Uẩn lên làm vua”.

Tập “Quế Hải Ngu Hành Chí” của Phạm Thành Đại (1126 - 1293) chép:

- “Bất năng tạo chỉ, bút, cầu chi tỉnh địa. Kỳ nhân thiểu thông văn mặc, Mân nhân phụ hải bạch vãng giả tất hậu ngộ chi! Nhân mệnh chi quan, tư dĩ quyết sự. Phàm văn di ngụy, loạn đa tự du khách xuất! Tương truyền kỳ tổ Công Uẩn dịch bản Mân nhân!” (Quế Hải Ngu Hành Chí. Chí Man.)

Dịch: (Dân xứ này) không chế được giấy, bút, những thứ này đều kiếm ở nước ta (tức Tống triều). Xứ này ít người rành chữ nghĩa, người Phúc Kiến đi thuyền qua chắc chắn được họ đãi ngộ hậu hĩ! Sẵn dịp họ cho làm quan, được tham dự, quyết đoán công việc. Nói chung các văn thư viết sai văn pháp, lộn xộn, đa số rồi từ đám du khách này mà ra! Tương truyền Công Uẩn, người khai sáng triều đại này, cũng gốc là người Phúc Kiến!”.

* Phụ chú. Phạm Thành Đại đề tựa cuốn “Quế Hải Ngu Hành Chí”, ghi:

- “Thuần Hi nhị niên, Trường Chí nhật”. Dịch: Năm thứ 2 Niên hiệu Thuần Hi, ngày Hạ Chí”. Năm thứ 2 Niên Hiệu Thuần Hi (1174 - 1189) tức năm 1175. Thực tế Sách hoàn tất năm 1173].

Bộ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” có đoạn chép”

- “An Thạch viết: Giao Chỉ sở nhiệm nãi đa thị Mân nhân, tất kỳ thổ nhân vô túc ỷ trượng dã!”. (Sđd. Qu. CCXLVII. Thần tông kỷ)                             

- Dịch:
(Vương) An Thạch nói:

“Những người Giao Chỉ dùng phần nhiều là người Mân, (vậy thì) hẳn là người bản xứ không đủ để trông cậy!”.
(Phụ chú. Câu trên chép vào tháng 10, ngày Bính Thân (ngày 27).

* Lý Công Uẩn là người đất Mân thì Lý triều có dùng những người gốc từ đất Mân cũng không có gì là lạ!

* Không chỉ Lý Công Uẩn mà còn các vị vua Giao Chỉ ngày trước có gốc từ phương Bắc cũng thấy được ghi lại trong một số tập Bút ký của học giả Trung Hoa.

Dẫn sau đây 2 trường hợp.

Chu Mật (1232 - 1298) ghi lại trong tập Bút ký “Tề Đông Dã Ngữ”:

- “An Nam Quốc vương Trần Nhật Cự bản Phúc Châu Trường Lạc Ấp nhân, tính danh vi Tạ Thăng Khanh”. ( Tề Đông Dã Ngữ. Qu. XIX. An Nam quốc vương)

Dịch:Trần Nhật Cự, Quốc Vương đất An Nam gốc là người ở Ấp Trường Lạc, thuộc Phúc Châu, tên là Tạ Thăng Khanh”.

 - “An Nam Quốc vương Trần Nhật Cự giả, “Cự” nguyên tác “Chiếu”, cứ “Tống Sử” quyển tứ nhị Lý tông kỷ nhị, quyển tứ bát bát Giao Chỉ truyện cải”.

Dịch: An Nam quốc vương Trần Nhật Cự, chữ “Cự” vốn ghi “Chiếu”, cứ bộ “Tống Sử” qu. XLII mục “Lý tông kỷ” phần 2, và quyển CDLXXXVIII, mục ghi chép về Giao Chỉ mà sửa lại”.

Và, Trữ Nhân Hoạch (? - ?), ở sơ kỳ Thanh triều (1644 - 1911), trong “Kiên Hồ Tập” đã cho biết là Hồ Quí Ly gốc người Giang Tây.

Những ghi chép loại dẫn trên về nguồn gốc, quê quán của một vài nhân vật lịch sử của Việt Nam thời cổ nếu chịu khó thì chúng ta có thể tìm thấy trong thư tịch cổ Trung Hoa không mấy khó!

Trong một đoạn viết về nhân vật Nùng Tông Đán ông Hoàng Xuân Hãn viết:

- “Sau khi Nùng Trí-Cao bị bại trận. Họ Nùng còn có bọn Nùng Tông Đán là kiệt-hiệt hơn cả. Tông Đán coi vùng động Lôi-hỏa về phía tây-bắc Cao-bằng ngày nay (TB 185/8b chép Hỏa-động), Tông-Đán tụ họp con là Nhật-Tân và dư-đảng của Nùng Trí-Cao, căn cứ vào chỗ hiểm mà chống với quân Tống. Đối với vua Lý, Tông-Đán vẫn được coi như là phiên-thần nối dòng Trí-Cao.

Trong đời Lý Thánh-Tông, vào năm 1057, Tông-Đán đem quân vào đánh đất Tống thuộc Ung-châu. Tiêu-Chú, coi Ung-châu, muốn đưa quân động-binh đánh. Nhưng quan trên là Tiêu-Cố, coi Quế-châu, không ưng và muốn chiêu hàng. Viên chuyển-vận-sứ Quảng-tây là Vương-Hãn bàn rằng: “Tông-Đán giữ vùng núi rậm, nếu nó đặt phục-binh đón quân ta, thì quân ta chưa chắc đã thắng nổi. Đánh sẽ chỉ làm tăng biên-hoạn mà thôi”. Hãn bèn một mình đem quân tới gần động Lôi-hỏa; sai người triệu con Tông-Đán là Nhật-Tân mà khuyên rằng: “Cha mày, trong thì bị Giao-chỉ thù, ngoài thì bị các quan biên-thần ít thưởng cho. Mày về bảo cha mày nên chọn đường có lợi mà đi”. Sách TB (185/8b) chép luôn: “Sau đó, hai cha con Tông-Đán hàng. Việc ở miền nam mới yên”.
  Thái Quốc Mưu

Tài liệu tham khảo:
- Quế Hải Ngu Hành Chí” của Phạm Thành Đại
- Trung Quốc Độ Lượng Hành Sử. Thượng Biên, của Ngô Thừa Lạc.
- Đệ tam chương. Trung Quốc độ, lượng, hành đơn lượng chi biến thiên.
- Đệ nhị tiết. Trung Quốc xích chế chi tam hệ.
- Sử ký Tư Mã Thiên
- Mộng Khê Bút Đàm
- Kiên Hồ Ngũ Tập. Qu. IV. Nhất Chi Mai
- Tham khảo và trích từng phần tài liệu của Học giả, Giảng sư Minh Di
- Hán Việt Tử Diển của Thiều Chửu
- Khang Hy Tự Điển

- Quế Hải Ngu Hành Chí” của Phạm Thành Đại

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét