Tùy
bút
TRƯỜNG XƯA BẠN CŨ
ĐIỆP-MỸ-LINH
Vì
đến trễ, tôi phải sắp hàng nơi cửa hội trường, chờ người kiểm vé. Trong khi
đứng đợi, tôi nghe ban nhạc đang hòa tấu một nhạc khúc rất quen thuộc. Rồi một
tổng hợp âm thanh nữ vang lên: “Trường
làng tôi cây xanh lá vây quanh, muôn chim hót vang lên êm đềm…”(1) Tôi
chợt cảm thấy nôn nao trong lòng, vội chồm người về phía trước để nhìn lên sân
khấu.
Trên
sân khấu, hai hàng phụ nữ mặc đồng phục trắng, trên mỗi chiếc áo dài có một vệt
đen dài xeo xéo nơi tà áo phía trước. Vừa hát những phụ nữ này vừa uốn nhè nhẹ
thân hình theo điệu Valse Lente: “…Trường làng tôi không giây phút tôi quên nơi
sống bao kỷ niệm ngày xanh…” Giai điệu êm đềm của dòng nhạc và sự lay động
nhẹ nhàng của những tà áo dài như từng đợt sóng ngầm dìu hồn tôi trở về khung
trời mà tôi đã phải lìa xa. Trong trạng
thái bềnh bồng, tôi tưởng như tôi có thể thấy lại tôi của những ngày thơ dại,
chỉ biết đi học rồi về miệt mài với cây đàn.
Khi
mới bắt đầu dạy tôi học đàn Accordéon – lúc đó tôi chỉ hơn mười tuổi – ngoài
những bài thực tập trong sách, Ba tôi thường tìm những bản nhạc dễ đàn để tôi
đàn cho khỏi chán. Một trong những nhạc khúc Ba tôi cho tôi đàn là bản Trường
Làng Tôi. Tôi vừa nhìn bản nhạc vừa để ý bàn tay của Ba tôi và vừa nghe Ba tôi
đếm “chát chát chình, chát chát chinh”
để vào cho đúng temps fort (thì mạnh
của nhịp 3/4).
Thời
gian học Accordéon tôi chưa hiểu nhiều về nhạc lý, nhưng không hiểu tại sao mỗi
khi đàn nhạc khúc Trường Làng Tôi, giai điệu thiết tha của bản nhạc như quyện
vào hồn tôi và trong lòng tôi niềm bùi ngùi thương cảm dâng tràn!
Niềm
bùi ngùi thương cảm lại trở về chất ngất trong tôi khi tôi trở về quê Nội, ghé
thăm Trường xưa sau hơn 40 năm xa cách.
Khi
ghé thăm thầy Bửu Thả, giáo sư toán và cũng là giáo sư hướng dẫn lớp tôi, lớp
Tam B4, Thầy bảo: “Chừ không còn là
Trường Trung Học Võ Tánh nữa mô! Họ đổi tên rồi!” Tôi buồn nhưng chưa cảm
thấy xót xa.
Đến
khi tôi đứng trước ngôi Trường cũ, thấy Trường tôi vẫn như xưa, vẫn mái ngói đỏ
và tường sơn màu trứng sáo, dưới một bảng tên tôi chưa từng biết khi học Việt
sử, lòng tôi mới đắng cay, ngậm ngùi! Sự ngầm ngùi cứ dâng lên, dâng lên mãi
khiến tôi muốn đi nhanh đến chiếc xe thuê như trốn chạy, như chối bỏ một thực thể
mà tôi không chấp nhận được! Nhưng không hiểu tại sao đôi chân của tôi lại
không thể rời Trường! Tôi tựa vào gốc cây sao, nhìn lên lầu, nơi lớp đệ Tam B4
“của tôi” năm xưa; toàn Trường thường “chọc quê” chúng tôi, gọi là Tam “Bê
Bối”. Lớp B4 chỉ có hai nữ sinh là Đỗ Thị Nghiên và tôi.
Nghiên,
về sau dạy học tại Quảng-Ngãi. Khi Nghiên theo chồng sang Mỹ theo diện H.O. tôi
sang San Jose thăm Nghiên ngay. Nghiên bỏ tấm nệm trên sàn nhà, “ra lệnh” cho
tôi: “Mày ở đây, ngủ tại đây. Mày mà ra
khách sạn, tao…từ mày liền!” Suốt đêm nhắc lại thời thơ ấu, trong các lớp
“Bê Bối”, dưới mái trường Võ-Tánh, Nghiên kể cho tôi nghe về những nam sinh mà
Nghiên đã lên lạc được. Sau này Nghiên trở thành Ni Sư Thường Như.
Cố
nhớ lại tên những nam sinh mà Nghiên đã liên lạc được, tôi chỉ nhớ vài người.
Lúc
Trần Ngọc Phê – tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh – cùng vợ sang Mỹ tham dự Đại
Hội Quốc Gia Hành Chánh, ghé thăm tôi và cho tôi biết rằng Lưu Khương Đức, sau
khi tốt nghiệp Kiến Trúc Sư, bị động viên. Sau khi mãn khóa sĩ quan, Đức “cả
gan” tình nguyện về Biệt Động Quân; để rồi…Đức bị tử trận trong một cuộc đụng
độ rất ác liệt với địch quân, tại Pleiku, năm 1972!
Rồi
Phú “đen” gia nhập Không Quân. Phú “đen” đã tử trận khi trực thăng do Phú “đen”
lái bị trúng hỏa tiễn của địch!
Đến
Nguyễn Công Tạo, người bị địch bắt, bị cầm tù dài hạn, rồi được trao trả tù
binh.
Riêng
Vũ Mạnh Hoàn, sau khi đỗ Tú Tài II, được du học và ở lại Bỉ. Huỳnh Tri Chánh
được sang Nhật du học và cũng ở lại Nhật.
Và
Nguyễn Đăng Dự, sau này là hiệu trưởng Trường Trung Học Pleiku. Khi vợ chồng Dự
từ Canada sang Texas, ghé Houston thăm tôi, Dự kể cho tôi nghe, khi cuộc rút
quân đẩm máu từ cao nguyên theo tỉnh lộ 7 đang diễn ra, giữa những tràng pháo
kích ồ ạc của địch quân, Dự và vợ con không biết làm thế nào để thoát khỏi
những trái đại pháo và dòng người cùng xe cộ ngổn ngang trên đường thì một quân
nhân từ trên xe nhà binh nhận ra Dự, gọi lớn: “Thưa Thầy!” Dự nhìn bảng tên của anh sĩ quan trẻ, thấy tên Lại Quyền
Thế. Thế chận chiếc xe chở hàng, buộc tài xế phải cho gia đình của Dự lên xe.
Khi
dòng người chạy loạn đến cầu Sông Ba, Dự thấy nhiều trực thăng vận tải quân
dụng để Công Binh dựng cầu dã chiến cho đoàn người qua sông. Trong cảnh hỗn
loạn này, Lại Quyền Thế lại xuất hiện. Thế canh chừng, khi trực thăng vừa thả
quân dụng xong, Thế giúp gia đình Dự lên trực thăng, còn Thế ở lại! Vừa vào
trực thăng, Dự lại ngạc nhiên khi nghe anh phi công: “Dạ, thưa Thầy.” Dự cũng kể
cho tôi nghe nhiều nam sinh ngày xưa học lớp “Bê Bối” sau này thành công trên
nhiều lãnh vực. Nhưng, vì tính hay quên, tôi chẳng nhớ được tên.
Tôi
chẳng nhớ được tên những người Bạn đã thành công trên đường đời; nhưng tôi lại
không thể quên được tên những người Bạn đã hy sinh tuổi trẻ, đã hy sinh một
phần cơ thể và có Bạn đã hy sinh cả mạng sống để chúng tôi được yên bình chốn
hậu phương!
Những
người bạn đã dấn thân của lớp “Bê Bối” có: Phạm Khắc Sinh, Luyện Thái, Nguyễn
Minh Châu, Trần Chánh Tùy, Bùi Ngọc Long, v. v…
Ngoài
những bạn lớp “Bê Bối của tôi”, tôi còn có những bạn khác cũng học ban B Võ
Tánh.
Lớp
B1 có Võ Ấm, xuất thân Trường Võ Bị Quốc Gia Dalat. Anh ruột của Võ Ấm là chánh
văn phòng cho một nhân vật đầy uy quyền. Nhưng, sau khi tốt nghiệp, Ấm đã không
đồng ý cho người anh biết số quân để anh của Ấm xin cho Ấm về đơn vị không
chiến đấu. Chỉ vài tháng sau, Ấm tử trận tại Mỹ Tho!
Lớp
B2 có Võ Thành Đông, gia nhập khóa 17 sĩ quan Hải Quân; Nguyễn Triệu Khâm, khóa
12; Bùi Tiết Quý và Mùi, khóa 14. Rất tiếc, tôi không nhớ Mùi họ gì và Mùi lớp
B mấy cũng như tôi đã quên Mùi xuất thân khóa mấy sĩ quan Hải Quân. Mùi mất
tích ngoài biển khơi khi chiến hạm đang tuần dương! Nguyễn Đình Tân, cũng “dân”
B2. Tân rất điễn trai, lúc nào cũng cười và đôi môi hồng hồng. Tân tình nguyện
gia nhập Không Quân. Sau khi tu nghiệp tại Mỹ, trở về, trong một chuyến công
tác, chiếc C-130 do Tân lái bị bắn hạ tại đèo An-Khê!
Quân
chủng Hải Quân cũng thân ái đón nhận những người Bạn lớp B3 như: Nguyễn Lương
Thuật, khóa 16; Trương Hoàng Đông, khóa 13; Phan Hữu Niệm, Nguyễn Sỹ và Đặng
Hữu Thân, khóa 12, v.v…
Riêng
bạn Đặng Hữu Thân – sau tháng Tư, 1975 – đã trở thành Người Hùng của Hải Quân
V.N.C.H; vì Ông thành lập Mặt Trận Dân Quân Cứu Quốc, tại Nha Trang, để chống
lại Cộng Sản Việt Nam. Ông bị bắt và bị Cộng Sản Việt Nam xử bắn! (Muốn biết
thêm chi tiết, kính mời vào link này http://www.diepmylinh.com/dang-huu-than
)
Nguyễn
Dinh gia nhập khóa 13 sĩ quan Hải Quân. Dường như Dinh học lớp B3, tôi không
nhớ rõ.
Khi
đơn vị của Dinh, dường như là Giang Đoàn 24 Xung Phong, tham dự hành quân vùng
Dầu Tiếng, Dinh bị mìn, nát cả đôi chân! Bố của các con tôi – cố Hải Quân Trung
Tá Hồ Quang Minh – cho tôi biết tin Dinh
bị thương và dặn tôi: “Muốn đi thăm Dinh
thì đi ngay; vì không biết Dinh có thể ‘qua’ được hay không!”
Minh
đưa tôi đến ngay bệnh viện Cộng Hòa. Nhìn đôi chân của Dinh được băng bột,
cứng, to và máu đã khô, trở nên màu nâu và sần sùi như gốc cây sao trước Trường
Võ Tánh, tôi khóc! Dinh vẫn mê man trong khi tôi cứ âm thầm quẹt nước mắt,
thương người Bạn xưa! Một lúc sau, Dinh từ từ hé mắt, nhìn tôi. Tôi hỏi: “Dinh! Biết ai đây không?” Dinh đáp: “Biết. Thanh Điệp”. Tôi lại khóc nhiều
hơn và thương Bạn nhiều hơn!
Trong
những dòng nước mắt khóc thương các bạn nam sinh ban B, tôi cũng dành những
giọt lệ muộn màng khóc chị Đỗ Minh Tham, người bạn ban A. Chị Đỗ Minh Tham,
biệt hiệu Thúy Minh, ngày xưa cùng sinh hoạt với tôi trong ban ca nhạc Bình Minh,
do Ba tôi – Cụ Điệp Linh Nguyễn Văn Ngữ –
thành
lập để phụ trách phần văn nghệ cho đài phát thanh Nha Trang vào mỗi tối thứ Năm
và tối Chủ Nhật.
Được
tin chị Đỗ Minh Tham qua đời, tôi đi New York, dự đám tang của Chị. Khi được
chị Đỗ Khánh Niệm, chị của chị Đỗ Minh Tham và cũng là phu nhân của Cố Y Sĩ Thiếu Tá Phạm Văn Lương –
người đã cầm lựu đạn trước Quốc Hội, năm xưa – bảo hãy nói vài lời tiễn
biệt chị Thúy Minh, tôi đã nhắc lại những kỷ niệm với chị Thúy Minh dưới mái
Trường Võ Tánh cùng những kỷ niệm văn nghệ với chị Thúy Minh trong ban Bình Minh.
Trước khi dứt lời, tôi nói: “Thưa chị
Thúy Minh, em xin lỗi Chị, em không thể ở lại để dự lễ hỏa thiêu của Chị. Em
không đủ can đảm nhìn Chị bị hủy diệt. Đối với em, Chị không thể bị hủy diệt!”
Ai
rồi cũng sẽ bị hủy diệt, vì đó là định luật của thiên nhiên! Nhưng định luật này
chỉ có thể hủy diệt xác thân của Bạn tôi, chứ trong lòng tôi, nhân dáng và kỷ
nệm của những người Bạn này vẫn sống mãi.
Dòng
hồi tưởng của tôi vừa đến đây thì người kiểm vé đưa tôi vào bàn.
Nhìn
những vạt áo dài có vệt đen xeo xéo của ban hợp ca, tôi tự hỏi: “Có phải vệt đen đó để tang cho Ngôi Trường
Đã Mất Tên hay không?” Trong khi tôi không thể tự giải đáp được thì ban hợp
ca đang hát đến câu cuối. Tôi không hát theo nhưng trong lòng tôi tiếng hát
ngân dài, vang xa: “Trường làng tôi không
giây phút tôi quên, dù cách xa muôn trùng Trường ơi!”
Tôi
lấy khăn giấy, thấm nhẹ những giọt nước mắt, lòng ngậm ngùi nghĩ đến các Bạn
tôi – những Người Trai rất xứng đáng là Hậu Duệ của Danh Tướng Võ Tánh trong
Thiên Hùng Sử Việt Nam.
ĐIỆP-MỸ-LINH
http://www.diepmylinh.com/
(1)Những phần trích dẫn là lời ca trong nhạc khúc
Trường Làng Tôi của Phạm Trọng Cầu.
(2) Ảnh Newvietart.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét