Message body
Tôi biết Trần Nhuận Minh, anh ruột Trần Đăng Khoa là một nhà thơ nhưng không quen còn Nguyễn Khôi thì có giao du trên mạng qua Mail nhưng chưa từng gặp mặt.
Bác hỏi, thôi thì lại xin biết đâu nói đó cùng bác:
A/ Về từ KẺ với nghĩa là làng:
A1/Theo Từ điển Tiếng Việt: (Từ cũ) đơn vị dân cư, thường là nơi thành thị hoặc nơi có chợ búa: kẻ chợ
"Đồn rằng Kẻ Lạng vui thay, Đi ba bốn ngày kể đã lắm công." (Cdao)
A2/ Theo Giáo sư Đào Duy Anh cho biết: Cổ là cách Hán Việt hoá từ nôm "kẻ" trong tiếng Việt (với ý nghĩa là “làng”) mà thành. Đồng thời cũng nhờ cách giải thích nói trên của ông mà chúng ta nhận biết Cổ Loa, Khả Lũ (địa danh Hán Việt khác của Cổ Loa) xuất hiện trong thư tịch Hán Việt, sớm nhất, cũng chỉ từ thế kỉ XIII trở về sau.
Như vậy, GS Đào Duy Anh cho rằng Cổ Loa vốn là do tên cũ Kẻ Loa mà ra và xuất hiện sớm nhất, cũng chỉ từ thế kỷ 13.
A3/ Ý kiến của GS Đào Duy Anh bị nhà nghiên cứu Thu Tứ đã bác lại rất có lý như sau:
Xét những tên làng chữ Hán ở Việt Nam mà ông đưa ra làm ví dụ, thấy điều này hơi lạ. Là khi đặt tên chữ Hán cho làng, các cụ ta điển hình chỉ giữ cái chữ sau của tên nôm, chứ không mấy khi giữ chữ Kẻ:
Kẻ Trôi thành Lôi Xá chứ không thành Cổ Lôi, Kẻ Mọc thành Nhân Mục chứ không thành Cổ Mục, Kẻ Thốn thành Thuấn Nội chứ không thành Cổ Thuấn, Kẻ Sặt thành Tráng Liệt chứ không thành Cổ Liệt v.v.
Trường hợp tên chữ Hán có phiên cả chữ Kẻ hình như chỉ có ba: Cổ Bôn, Cổ Ðịnh, Cổ Loa.
A4/ Theo một số nghiên cứu khác:
Kẻ trong Kẻ Noi dùng để gọi làng Nhuế, tức Cổ Nhuế. Cổ do đó là một từ Hán Việt tương đương với Kẻ. Kẻ có trong tự điển Việt-Bồ-La (1651) của Alexandre de Rhodes (A-lịch-Sơn Đắc Lộ) qua câu: ‘Mày ở kẻ nào?’ (Latinh: Patria tua quaenam est?) nghĩa ‘Quê mày ở đâu?’. Tiếng Mường ở vùng Hoà Bình có một từ đồng nghĩa với ‘kẻ’, đó là KUEL mang nghĩa một đơn vị xã hội của người Mường. Quyển ‘Việt Ngữ chánh tả Tự Vị’ của Lê Ngọc Trụ xuất bản ở Sàigòn có ghi kẻ chỉ chỗ, nơi, như trong kẻ Chợ (dùng để chỉ thành Thăng Long ngày xưa).
A5/ Nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ cho biết thêm:
Không phải chỉ có những làng được gọi là “kẻ” mới là cổ. Có những “kẻ” mới thành lập dưới thời Nguyễn. Nhiều làng cổ còn gọi bằng những từ tương tự “kẻ” như: “khả” (Khả Lam, Khả Lao, Khả Lập…), “cả” (Cả Trọng, Cả Mau, Cả Cát,…), “trang” (Bái Trang, Hoa Trang, Cồng Trang…). Đại đa số làng có tên nôm, tên chữ, tên nôm là tên thường gọi, tên chữ là tên ghi vào sổ sách, khai báo với cấp trên.
A6/ Làng Vòng quê tôi xưa cũng gọi là Kẻ Vòng, rất gần Kẻ Noi, Kẻ Trôi, Kẻ Diễn…Hồi còn bé, bọn trẻ chúng tôi hay hát bài đồng dao:
Vừa mưa vừa nắng
Trâu trắng chết toi
Kẻ Noi làm thịt
Kẻ Diễn vác liễn đi xin…
B/ CÁI:
B1/ Theo Từ Điển Tiếng Việt, chỉ xét về măt Danh từ thì CÁI có nghĩa thứ nhất là:
(Từ cũ) mẹ
con dại cái mang (tng)
B2/ Theo sách Việt sử tiêu án:
Ông Hưng đồng lòng với dân chúng, lập em là Hải. Bồ Phá Lặc có sức khỏe đẩy được núi, không chịu theo Hải, lánh ở động Chu Nham. Bồ Phá Lặc lập An là con ông Hưng. An tôn cha là Hưng làm Bố Cái Đại Vương (tục gọi cha mẹ là Bố Cái), dân Thổ cho là linh dị, lập đền thờ ở phía tây đô phủ để thờ Hưng.
B3/ Theo sách Việt điện u linh:
Con của Phùng Hưng là Phùng An khi lên ngôi tôn Phùng Hưng làm Bố Cái Đại Vương, bởi quốc tục xưng cha là Bố, mẹ là Cái, nên mới gọi như vậy.
B4/ Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim mà tôi học hồi Tiểu học Pháp thuộc:
Bố Cái Đại Vương (791).
Năm Tân Tị (791) quan Đô Hộ là Cao Chính Bình bắt dân đóng sưu thuế nặng quá, lòng dân oán hận. Khi bấy giờ ở quận Đường Lâm (bây giờ là làng Cam Lâm, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây) có người tên là Phùng Hưng nổi lên đem quân về phá phủ Đô Hộ. Cao Chính Bình lo sợ thành bệnh mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ thành, được mấy tháng thì mất. Quân sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An lên nối nghiệp. Dân ái mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn lên làm Bố Cái Đại Vương, bởi vì ta gọi cha là bố, mẹ là cái, nghĩa là tôn Phùng Hưng lên làm cha mẹ.
Tôi chưa đọc một tài liệu nào nói “bỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG co nguồn gốc từ mO^ng CỔ [ mONGOLIE]” nguyên chữ la [ BUONCARREE' ] có nghĩa la ANH HÙNG GIẢI PHONG .]
mà chỉ thấy quyển ‘Nguồn Gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam’ của Bình Nguyên Lộc xuất bản ở Miền Nam trước đây đưa ra giả thiết, có chứng minh đến năm bảy trang, cho rằng trong ‘Bố Cái’ – ‘Bố’ mang nghĩa ‘Bố’, ‘Cha’ – nhưng đặc biệt ‘Cái’, một từ thuần Nôm gốc Mã Lai, không mang nghĩa ‘Mẹ’ mà lại ‘người lãnh đạo’, ‘người hùng’ của một nhóm người, một dân tộc.
Một số học giả phản bác lại Bình Nguyên Lôc:
Có lẽ quá hứng khởi với kết quả công trình nghiên cứu của riêng ông, Bình Nguyên Lộc đã mạnh tay công kích gần như tất cả những công trình của các vị học giả Tây phương, như Aurousseau, Maspéro, Madrolle, Coedès, Jansé, v.v. cũng như nhiều giáo sư Việt đang giảng dạy tại các đại học thời đó ở miền Nam. Mang đến hậu quả tai hại kéo dài hàng chục năm: Giới khoa bảng thường tẩy chay hay không thích đọc ‘thuyết Mã Lai’, hoặc ngộ nhận rằng ‘thuyết Mã Lai’ nói về người Việt có gốc Mã Lai xuất phát từ miệt phía dưới, thích ăn nhiều trái lôm chôm hay măng cụt, và đem trầu cau lên vùng Bắc Việt rồi ở luôn tại đó. Hoặc họ hết thuốc xâm mình nên mò lên miệt trên, và xin nhận nơi đó làm quê hương
@
Tiện cũng trao đổi với bác về thư trước bác gửi cho tôi:
Tôi chưa đọc sách nào chuyển dịch như bác nói:
“ve thoi TAM QUOC :
co sach goi la GIA CAT LUONG
co sach lai chuyen dich la CHU CAT LUONG.
Nhưng qua nhiều cuộc trà dư tửu hậu về Tam Quốc, khi nhắc đến chuyện Gia Cát Lượng khóc Chu Du, thấy Gia Cát Lượng:
Cúng tế xong ông phục trên quan tài khóc đau đớn, khóc một tiếng "Chu đô đốc" lại đập lên nắp quan tài một cái; khóc một tiếng "Công Cẩn huynh" lại đập lên quan tài một cái nữa; đập đến nỗi quan tài kêu "pinh pinh", người bên cạnh khuyên ông cũng không ngừng, kéo ông , ông cũng không chịu ra, thật cha mẹ vợ con ông chết cũng chưa bằng! Khiến chúng tướng Đông Ngô thấy vậy đều cũng buồn lây, có người nghĩ: "Ngày thường chúng ta đều nghĩ rằng Đô đốc và Gia Cát lựơng là kẻ cừu, nay thấy ra, cảm tình hai người thật là thắm thiết!"
Và nhiều người bình luận: Xem thế, Gia cát Lượng đúng ra phải là Chu Cát Lượng, anh em ruột thịt với Chu Công Cẩn.
Gần đây có xem phim Tam Quốc diễn nghĩa của Trung Quốc, thấy bài thơ:Khổng Minh khóc Chu Du được người thuyết minh đọc như sau (Xin nêu hai khổ):
Tam quân thất soái, trời đất ảm đảm
Minh chúa ai oán, mất đi rường cột
Lượng đây đất bất tài, chỉ mong đồng mưu
Trợ lực phá Tào, phổ sáng áng lưu
Giúp đỡ lẫn nhau, đầu đuôi tương trợ
Nếu còn sống sót, đâu còn sợ gì ( đâu còn sợgì).
Minh hô Công Cẩn, sanh tử vĩnh biệt
Minh minh vô tế, thế sự nao nao
Hồn như hữu linh , nhị giám lòng ta
Từ nay thiên hạ, tri ân bạt phương.
Sao dạo này bác nghiền ngẫm sâu các vốn cổ thế? Tôi thì nghĩ như các cụ dạy:
Người 60 tuổi, cuộc sống tính từng năm; 70, tính từng tháng; 80, tính từng ngày
Nên rất ít đọc, xem và nghe mà chỉ tìm cách thư giãn, thư giãn và thư giãn thôi, bác Chu ạ!
Vào 01:27 Ngày 01 tháng 09 năm 2016, Thuong Nguyen <chuvmien@yahoo.com> đã viết:
kinh bAC.anh TRAN NHUAN MINH [ cung que QUANG YEN voi em [ chuyen trao doi voi nau ve SU HOC.anh NGUYEN KHOI [ ba xa la que cua ME EM THUY NGUYEN NUI DEO[ KIEN AN] traodoi ve NGU HOC]]em moi nghe mot hoc gia noi ve HAT QUAN HO BAC NINH . [ KINH BC ] kinh do nhà LY [ DINH BANG cua anh NGUYEN KHOI]co cau KẾT CHẠ [ cau nay co nghia là 2 lANG KET THAN VOI NHAU [ CUNG 1 THAN HOANG ]da KET CHẠ [ thi kiep nay khong lay duoc nhau ?chữ CHA này cung nghĩa vơi chữ CHẠ của BAC,sau day bac co thi gio thi giang dum CHO em , ma ban thi thoi :thoi HUNG VUONG thi Kẻ Sặt , Kẻ Trang , Kẻ Cho7 Kẻ BỜqua thoi THUC AN DUONG VUONG thi tu KE chuyển SANG tu CỔ :nhu CỔ LOA , lang CỔ NHUẾ , CỔ NGƯ , CỔ TRANG .the kỷ thứ 9 co PHUNG HUNG [ hau due cua AN DUONG VUONG ]dan chung ton ong la BỐ CÁI D(ẠI VƯƠNG .theo HOC GIA KY SU ĐoÀN ĐỨC NHAN [ ben PHAP] co nguon goc la dan DAI LY { CÔN MINH VAN NAM ]thi từ bỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG co nguồn gốc từ mO^ng CỔ [ mONGOLIE]nguyên chữ la [ BUONCARREE' ] có nghĩa la ANH HÙNG GIẢI PHONG .]em chi cần hỏi BAC chữ CÁI mà thôi ?CÁI la CHU&4 GÌ ?mọi thứ thì em cung tam tạm hiểu ?khong ban them làm gi cho mất thì gio ?kinhcvm ngya 31.8.16
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét