Thứ Tư, 28 tháng 9, 2016

TRƯỜNG THI BÌNH ĐỊNH VÀ SĨ TỬ QUẢNG NGÃI 

– ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG

TRƯỜNG THI BÌNH ĐỊNH
VÀ SĨ TỬ QUẢNG NGÃI
ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG

Từ thời Gia Long (嘉 隆) đến Thiệu Trị (紹 治), sĩ tử các tỉnh từ Quảng Ngãi đến
Bình Thuận được phân phối ứng thí như sau: Các tỉnh từ đèo Cả trở ra thi ở Trường Thừa
Thiên, từ đèo Cả trở vào thi ở Trường Gia Định.

Đến năm Canh Tuất (1850), Tự Đức thứ 3 (嗣 德), mới bắt đầu thành lập Trường
thi Bình Định [1] để nhận thí sinh các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa. Về sau, trường Bình Định còn nhận thêm thí sinh của tỉnh Bình Thuận rồi Ninh
Thuận. Nếu không kể Trường thi An Giang lập năm 1863, mở một khoa rồi phải xóa tên
vì bị Pháp chiếm, thì có thể nói Trường thi Bình Định là trường thứ 7, ra đời muộn nhất,
sau cả Trường Thanh Hoá được tái sinh (1848).
I – VÀI NÉT SƠ LƯỢC
Trường thi Bình Định được xây dựng trên vùng đất gò, thuộc thôn Hòa Nghi, tổng
Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn; nay là thôn Hòa Nghi, xã Nhơn Hòa, huyện
An Nhơn. Trường thi nằm phía tây nam thành Bình Định và hữu ngạn Nam phái sông
Côn, lại gặp khúc cong nên 3 mặt Tây, Bắc, Đông đều có sông ngăn cách, tiện cho việc
canh phòng. Khu vực trường thi là một cái nền rộng, chu vi chừng 1.000 mét, cao gần 2
mét, xây bằng đá ong, mặt nền bằng phẳng và lộ thiên. Đến kỳ mở khoa thi, quan tỉnh
mới sai dựng hàng rào dày xung quanh, cất nhà tạm cho quan trường và chia vi cho thí
sinh.
Ngày thi, sĩ tử được gọi vào vi đã phân lô, tự cất lều để làm bài suốt một ngày.
Tuyệt đối không được qua lại lều người khác trong giờ thi.
Khoa Nhâm Tý (1852), Tự Đức thứ 5, Trường Bình Định mở khoa thi đầu tiên.
Bộ Lễ qui định số người đậu Cử nhân trên toàn quốc mỗi khóa là 124 người, phân định
cho các trường như sau: Thừa Thiên lấy đậu 20 người, Nghệ An 18 người, Thanh Hóa
20, Nam Định 20, Hà Nội 20, Bình Định 13 và Gia Định 13.
Bộ Lễ cũng đã xếp Trường Bình Định vào nhóm Trường Thừa Thiên, Nghệ An,
Gia Định, tổ chức thi Hương vào tháng bảy âm lịch ở những năm Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu
(định lệ về năm, đôi khi không thực hiện đúng) còn nhóm thứ hai gồm Trường Thanh
Hóa, Nam Định, Hà Nội, thi vào tháng chín những năm trên.
2
H 1: Thầy Đồ mở trường dạy học.
(Nguồn: Hình Ảnh Xưa Việt Nam)
Tính từ khoa Nhâm Tý (1852), Tự Đức thứ 5, đến khoa Mậu Ngọ (1918), Khải
Định thứ 3 (啟 定) là năm chấm dứt vĩnh viễn nền Nho học, triều đình nhà Nguyễn đã
mở 29 khoa thi Hương. Trường thi Bình Định chỉ tham dự 23 khoa, còn 6 khoa trường
này không tổ chức thi bởi các lý do:
– Năm 1859, liên quân Pháp và Tây Ban Nha đánh chiếm thành Gia Định. Rồi
năm 1861, các tỉnh Định Tường, Biên Hòa thất thủ. Tiếp đến 1862 triều đình ta phải
nhường ba tỉnh Miền Đông Nam Kỳ cho Pháp. Biến cố dồn dập, đất nước có rất nhiều
việc khẩn trương phải giải quyết, nên Trường thi Bình Định tạm đóng cửa. Vì vậy, khoa
thi năm Tân Dậu (1861), Tự Đức thứ 14, sĩ tử ở Trường Bình Định phải ra Huế thi chung
với Trường Thừa Thiên. Còn khoa thi năm Giáp Tý (1864) thì theo lệ cũ, nghĩa là các
tỉnh từ Phú Yên tới Quảng Ngãi ra thi ở Trường Thừa Thiên; các tỉnh từ Khánh Hòa đến
Bình Thuận vào thi ở Trường An Giang (thay thế cho Gia Định)
– Năm Quý Dậu (1873), Tự Đức thứ 26, đúng hạn kỳ mở khoa thi Hương trên
toàn quốc (không kể Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm), thì ở Bắc Kỳ lại gặp biến (Hà thành thất
thủ lần thứ nhất). Các trường thi Hà Nội và Nam Định không thi được, nên triều đình mở
khoa Giáp Tuất (1874) với tính cách là khoa Quý Dậu triển hạn, để sĩ tử hai trường trên
ứng thí. Trường Bình Định đã mở khoa Quý Dậu nên không mở khoa này.
– Trường Bình Định còn bị gián đoạn ba khoa nữa. Đó là khoa Bính Tuất (1886),
Đồng Khánh nguyên niên (同 慶), Trường Bình Định đã thi xong ở khoa Ất Dậu (1885)
nên nay không thi nữa. Đến khoa thi năm Đinh Hợi (1887), Đồng Khánh thứ 2, phong
trào Cần Vương ở các tỉnh Miền Nam Trung Kỳ đang lúc sôi động, nên trường Bình Định
không mở được khoa thi, và sĩ tử miền này cũng không ra Huế ứng thí. Rồi khoa thi năm
Mậu Tý (1888), Đồng Khánh thứ 3, tình hình chưa ổn định, Trường Bình Định vẫn bị
đình và chỉ một ít sĩ tử miền này ra Huế thi chung với Trường Thừa Thiên.
II – TRƯỜNG BÌNH ĐỊNH VÀ CÁC KHOA THI HƯƠNG
Căn cứ vào Quốc Triều Hương Khoa Lục của Cao Xuân Dục, Trường thi Bình
Định mở được 23 khoa, có 355 sĩ tử đỗ Cử nhân và khoảng 920 Tú tài. Nếu chỉ tính riêng
tỉnh Quảng Ngãi có 104 Cử nhân, liệt kê theo thứ tự các khoa thi:
1/ Khoa Nhâm Tý (1852), Tự Đức thứ 5 (嗣 德), lấy đỗ 13 người. Trong đó
Bình Định 11, có Giải nguyên; Quảng Ngãi 2, có Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử
Nhân khoa này gồm:
3
– Phan Văn Điển, đỗ thứ nhì, người thôn An Thổ, huyện Mộ Đức.
– Lê Trung Lượng, đỗ thứ 5, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn. Con là Cử
nhân Lê Trung Đình đỗ khoa Giáp Thân (1884).
2/ Khoa Ất Mão (1855), Tự Đức thứ 8, lấy đỗ 13 người: Bình Định 4, có Giải
nguyên; Quảng Ngãi 7, có Á nguyên; Phú Yên 2. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này
gồm:
– Kiều Tòng (cải danh Kiều Lâm), đỗ thứ nhì, người thôn An Đại, huyện Chương
Nghĩa. Đến khoa Nhâm Tuất (1862) lấy bằng Tiến sĩ.
– Nguyễn Hữu Tạo, đỗ thứ 3, người thôn An Đại, huyện Mộ Đức.
– Trần Đăng Tự, đỗ thứ 5, người thôn Chánh Mông (sau đổi Chánh Lộ), huyện
Chương Nghĩa.
– Võ Văn Tịnh (cải danh Võ Văn Thanh), đỗ thứ 10, người thôn Ba La, huyện
Chương Nghĩa, là con của Cử nhân Võ Trọng Liên.
– Đỗ Trứ, đỗ thứ 11, người thôn Vạn Thiện, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Phạm Khánh, đỗ thứ 12, người thôn Lâm Lộc, huyện Bình Sơn.
– Đặng Thừa Tích, đỗ thứ 13, người thôn Chương Thạnh, huyện Chương Nghĩa.
3/ Khoa Mậu Ngọ (1858), Tự Đức thứ 11, lấy đỗ 13 người: Bình Định 7, có Giải
nguyên; Quảng Ngãi 6, có Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Thúc, đỗ thứ 2, người thôn Trà Bình, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Trọng Biện (cải danh Nguyễn Hiệp), đỗ thứ 3, người thôn Năng An,
huyện Mộ Đức.
– Phạm Đăng Dương, đỗ thứ 8, người thôn Tân Hội, huyện Chương Nghĩa.
– Lê Bá Ngọc, đỗ thứ 10, người thôn Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa.
– Phan Đình Ngạn, đỗ thứ 11, người thôn Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa.
– Đặng Văn Giai, đỗ thứ 12, người thôn La Ba, huyện Chương Nghĩa.
4 – Khoa Đinh Mão (1867), Tự Đức thứ 20, lấy đỗ 18 người: Bình Định 14,
chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên; Quảng Ngãi 4. Kể từ khoa này, Trường Bình Định
nhận thí sinh của Bình Thuận. Và sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa Đinh Mão có:
– Trần Văn Lý, đỗ thứ 9, người thôn Trung Lý, huyện Mộ Đức.
– Trần Giảng, đỗ thứ 14, người thôn Chánh Lộ, huyện Chương Nghĩa.
– Lê Văn Quang, đỗ thứ 15, người thôn Phi Chiểu, huyện Mộ Đức.
– Huỳnh Quang Quang, đỗ thứ 18, người thôn Lỗ Bôi, huyện Mộ Đức.
5/ Khoa Mậu Thìn (1868), Tự Đức thứ 21, lấy đỗ 15 người: Bình Định 8; Quảng
Ngãi 7, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này
gồm:
– Nguyễn Luật, đỗ thứ 1, người thôn Mỹ Khê, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Duy Cung, đỗ thứ 2, người thôn Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa.
– Nguyễn Tấn Phĩ, đỗ thứ 4. Ông là em của Nguyễn Duy Cung.
– Lê Trọng Khanh, đỗ thứ 8, người thôn An Chỉ, huyện Chương Nghĩa.
– Trịnh Văn Thái, đỗ thứ 9, người thôn Quất Lâm, huyện Mộ Đức.
– Lê Địch Cát, đỗ thứ 10, người thôn Năng An, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Hữu Mưu (cải danh là Nguyễn Hữu Thảng), đỗ thứ 14, người thôn
Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa.
6/ Khoa Canh Ngọ (1870), Tự Đức thứ 23, lấy đỗ 16 người: Bình Định 7; Quảng
Ngãi 8, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên; Phú Yên 1. Và sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử
Nhân khoa Đinh Mão gồm có:
4
– Trương Đăng Tuyển, đỗ thứ 1, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn.
– Phạm Viết Duy, đỗ thứ 2, người thôn Chánh Mông, huyện Chương Nghĩa.
– Dương Đình Thọ, đỗ thứ 7, người thôn Tuyết Diêm, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Đăng Ngoạn, đỗ thứ 8, người thôn Kim Giao, huyện Mộ Đức.
– Lê Uyển, đỗ thứ 9, người thôn Phú Nhơn, huyện Chương Nghĩa.
– Huỳnh Toản, đỗ thứ 10, người thôn An Lộc, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Văn Tụy, đỗ thứ 14, người thôn Thạch Than, huyện Mộ Đức.
– Trần Văn Thể, đỗ thứ 15, người thôn Năng An, huyện Mộ Đức.
7/ Khoa Quý Dậu (1873), Tự Đức thứ 26, lấy đỗ 15 người: Bình Định 8, có Giải
nguyên; Quảng Ngãi 4; Phú Yên 1; Bình Thuận 2, có Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử
Nhân khoa này gồm có:
– Nguyễn Văn Tấn, đỗ thứ 3, người thôn Thu Sa, huyện Chương Nghĩa.
– Huỳnh Văn Chất, đỗ thứ 8, người thôn Bình An, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Đình Giản, đỗ thứ 10, người thôn Phước Lộc, huyện Bình Sơn.
– Phạm Trọng Di, đỗ thứ 12, người thôn Lâm Lộc, huyện Bình Sơn.
8/ Khoa Bính Tý (1876), Tự Đức thứ 29, lấy đỗ 12 người: Bình Định 7, có Á
nguyên; Quảng Ngãi 3, có Giải nguyên; Phú Yên 1; Bình Thuận 1. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ
Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Văn Hành, đỗ thứ 1, người thôn Thuận Phước, huyện Bình Sơn.
– Võ Văn Hành, đỗ thứ 4, người thôn An Tây, huyện Mộ Đức.
– Lê Dưỡng, đỗ thứ 5, người thôn Quất Lâm, huyện Mộ Đức.
9/ Khoa Mậu Dần (1878), Tự Đức thứ 31, lấy đỗ 11 người: Bình Định 6, có Giải
nguyên. Quảng Ngãi 5, có Á nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Hữu Mô, đỗ thứ 2, người thôn An …[2], huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Hữu Thục, đỗ thứ 3, người ty Trù Thất, huyện Mộ Đức.
– Trần Hữu Gia, đỗ thứ 4, người thôn Tất Thủy, huyện Bình Sơn.
– Phan Văn Úy, đỗ thứ 9, người thôn Trung Lý, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Viết Trực, đỗ thứ 11, người thôn Phú Lộc, huyện Bình Sơn.
10/ Khoa Kỷ Mão (1879), Tự Đức thứ 32, lấy đỗ 8 người: Bình Định 5, có Á
nguyên; Quảng Ngãi 3, có Giải nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Bùi Phụ Truyền, đỗ thứ 1, người thôn Thu Phố, huyện Chương Nghĩa.
– Nguyễn Cự, đỗ thứ 7, người thôn An Ba, huyện Mộ Đức.
– Võ Trọng Liên, đỗ thứ 8, người thôn Ba La, huyện Chương nghĩa. Ông là con
của Cử nhânVõ Duy Tịnh [3].
11/ Khoa Nhâm Ngọ (1882), Tự Đức thứ 35, lấy đỗ 11 người: Bình Định 6, có Á
nguyên; Quảng Ngãi 5, có Giải nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Trần Cư, đỗ thứ 1, người thôn Châu Nhai, huyện Bình Sơn.
– Nguyễn Mậu Thọ, đỗ thứ 6, người thôn An Ba, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Du, đỗ thứ 7, người thôn Thạch Lập, huyện Mộ Đức.
– Lê Tựu Khiết, đỗ thứ 9, người thôn An Ba, huyện Mộ Đức.
– Bùi Doãn, đỗ thứ 11, người thôn Chiêu Lộc, huyện Bình Sơn.
12/ Khoa Giáp Thân (1884), Kiến Phúc thứ 1 (建 福), lấy đỗ 18 người: Bình
Định 12, có Á nguyên; Quảng Ngãi 5, có Giải nguyên; Phú Yên 1. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ
Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Văn Chất, đỗ thứ 1, người thôn Thi Phổ, huyện Mộ Đức.
– Võ Dương, đỗ thứ 5, người thôn An Thổ, huyện Mộ Đức.
5
– Phạm Văn Nga, đỗ thứ 7, người thôn Thi Phổ, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Thừa Lương, đỗ thứ 8, người thôn Vạn Tượng, huyện Chương Nghĩa.
– Lê Trung Đình, đỗ thứ 17, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn.
13/ Khoa Ất Dậu (1885), Hàm Nghi thứ 1 (咸 宜), lấy đỗ 8: Bình Định 7, chiếm
cả Giải nguyên và Á Nguyên; Phú Yên 1. Quảng Ngãi bỏ thi vì biến cố Kinh đô thất thủ.
14/ Khoa Tân Mão (1891), Thành Thái thứ 3 (成 泰), lấy đỗ 17 người: Bình
Định 10, có Giải nguyên; Quảng Ngãi 4, có Á nguyên; Phú Yên 1; Khánh Hoà 1 và Bình
Thuận 1. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Đỗ Quân, đỗ thứ 2, người thôn Châu Sa, huyện Bình Sơn. Ông nội là Phó bảng
Đỗ Đăng Đệ đậu khoa Nhâm Dần (1842).
– Võ Văn Quang, đỗ thứ 4, người thôn Hòa Vinh, tỉnh Quảng Ngãi.
– Lê Ngãi, đỗ thứ 12, người thôn Bình An, tỉnh Quảng Ngãi .
– Trương Quang Phùng, đỗ thứ 13, người thôn Mỹ Khê Tây, tỉnh Quảng Ngãi.
15/ Khoa Giáp Ngọ (1894), Thành Thái thứ 6, lấy đỗ 19 người: Bình Định 9, có
Á nguyên; Quảng Ngãi 5, có Giải nguyên; Phú Yên 1; Khánh Hòa 1; Bình Thuận 1 và
các tỉnh khác 2. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Dương Huy, đỗ thứ 1, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn.
– Võ Văn Quý, đỗ thứ 4, người huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
– Bùi Trọng Cung, đỗ thứ 9, người huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.
– Trương Quang Kỳ, đỗ thứ 11, người thôn Mỹ Khê, huyện Bình Sơn. Ông nội là
Trương Đăng Quế, đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão (1819) trường Trực Lệ. Chú là Trương
Đăng Trinh, đỗ Cử nhân khoa Tân Sửu (1841) trường Thừa Thiên.
– Đoàn Thúc Vĩ, đỗ thứ 14, người thôn Nhơn Hòa, huyện Bình Sơn. Cha là Đoàn
Khắc Nhượng, chú họ là Đoàn Duy Trinh, cùng đỗ khoa Bính Ngọ (1846) trường Thừa
Thiên.
16/ Khoa Đinh Dậu (1897), Thành Thái thứ 9, lấy đỗ 18 người: Bình Định 9;
Quảng Ngãi 6, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên; Phú Yên 2; Khánh Hòa 1. Sĩ tử
Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Hào, đỗ thứ 1, người thôn An Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi .
– Đồng Cát Phủ, đỗ thứ 2, người thôn Ba La, huyện Tư Nghĩa.
– Phạm Khuếch, đỗ thứ 13, người thôn Trà Bình, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Đình Quản, đỗ thứ 14, người thôn Phong Niên, tỉnh Quảng Ngãi.
– Nguyễn Mân, đỗ thứ 15, người thôn Kim giao, tỉnh Quảng Ngãi.
– Võ Chức, đỗ thứ 16, người thôn Trung Sơn, huyện Bình Sơn.
17/ Khoa Canh Tý (1900), Thành Thái thứ 12, lấy đỗ 24 người: Bình Định 9;
Quảng Ngãi 10, chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên; Phú Yên 1; Khánh Hòa 1; Bình
Thuận 3. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Tạ Hàm, đỗ thứ 1, người thôn Chánh Lộ, huyện Chương Nghĩa. Cha là Tiến sĩ
Tạ Tương đỗ khoa Nhâm Thìn (1892).
– Trương Quang Quý, đỗ thứ 2, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn.
– Trần Quý Phụng, đỗ thứ 3, người thôn Bồ Đề, huyện Mộ Đức.
– Võ Thiếu Trinh, đỗ thứ 5, người thôn Ba La, huyện Chương Nghĩa. Cha là Cử
nhân Võ Văn Tịnh đỗ khoa Ất Mão (1855); anh là Cử nhân Võ Trọng Liên đỗ khoa Kỷ
Mão (1879).
– Nguyễn Phan, đỗ thứ 8, người thôn Kim Giao, huyện Đức Phổ. Cha là Cử nhân
Nguyễn Đăng Ngoạn đỗ khoa Canh Ngọ (1870).
6
– Nguyễn Phàn, đỗ thứ 10, người thôn Yên Ninh, huyện Đức Phổ.
– Mai Phong, đỗ thứ 11, người thôn Thanh An, huyện Mộ Đức.
– Tô Thành, đỗ thứ 19, người thôn Thái Lăng, huyện Mộ Đức.
– Lê Trung Khoản, đỗ thứ 21, người thôn Tham Hội, huyện Bình Sơn.
– Lê Chi, đỗ thứ 24, người thôn Xuân Tây, huyện Đức Phổ.
18/ Khoa Quý Mão (1903), Thành Thái thứ 15, lấy đỗ 18 người: Bình Định 8, có
Giải nguyên; Quảng Ngãi 5; Phú Yên 1; Bình Thuân 1; các nơi khác 3, người Hà Nội
đoạt Á nguyên. Kể từ khoa này có thêm thí sinh tỉnh Phan Rang (tức Ninh Thuận). Sĩ tử
Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Lê Đình Cẩn, đỗ thứ 3, người thôn Hòa Vinh, huyện Chương Nghĩa.
– Lê Trung Kinh, đỗ thứ 5, người thôn Phú Nhơn, huyện Bình Sơn. Cha là Cử
nhân Lê Trung Lượng đỗ khoa Nhâm Tý (1852); anh là Cử nhân Lê Trung Đình đỗ khoa
Giáp Thân (1884).
– Nguyễn Sủy, đỗ thứ 9, người thôn Hổ Khiếu, huyện Chương Nghĩa.
– Nguyễn Trung Khác, đỗ thứ 14, người thôn Đông An, huyện Bình Sơn.
– Lâm Văn Bính, đỗ thứ 18, người thôn Đông Nhị, huyện Bình Sơn.
19/ Khoa Bính Ngọ (1906), Thành Thái thứ 18, lấy đỗ 24 người: Bình Định 12,
chiếm cả Giải nguyên lẫn Á Nguyên; Quảng Ngãi 3; Phú Yên 3; Khánh Hòa 2; Bình
Thuận 1; các nơi khác 3. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Trần Nguyên Thiệp, đỗ thứ 9, người thôn Tú Sơn, huyện Mộ Đức.
– Nguyễn Thuyên, đỗ thứ 20, người thôn Nam An, huyện Bình Sơn.
– Huỳnh Ngọc Trác, đỗ thứ 24, người thôn Thạch An, huyện Sơn Tịnh.
20/ Khoa Kỷ Dậu (1909), Duy Tân thứ 3 (維 新), lấy đỗ 16 người: Bình Định 7,
chiếm cả Giải nguyên lẫn Á nguyên; Quảng Ngãi 2; Phú Yên 1; Ninh Thuận 2 (tỉnh mới
lập, từ năm 1901 đến 1913); Bình Thuận 1; các nơi khác 3. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử
Nhân khoa này gồm:
– Trần Thường, đỗ thứ 4, người thôn An Thạch, huyện Đức Phổ.
– Trần Mậu, đỗ thứ 13, người thôn Thạch Than, huyện Mộ Đức.
21/ Khoa Nhâm Tý (1912), Duy Tân thứ 6, lấy đỗ 18 người: Bình Định 8, có Á
nguyên; Quảng Ngãi 5, có Giải nguyên; Khánh Hòa 1; Ninh Thuận 1; các nơi khác 3. Sĩ
tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Trần Phan, đỗ thứ 1, người thôn Bồ Đề, huyện Mộ Đức.
– Trần Văn Trạch, đỗ thứ 9, người thôn Năng An, huyện Mộ Đức.
– Hồ Kỳ Trân, đỗ thứ 10, người thôn Thu Phố, huyện Chương Nghĩa.
– Nguyễn Xuân Quang, đỗ thứ 13, người thôn Tân An, huyện Mộ Đức.
– Bùi Chước, đỗ thứ 15, người thôn Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh.
22/ Khoa Ất Mão (1915), Duy Tân thứ 9, lấy đỗ 18 người: Bình Định 10, có Giải
nguyên; Quảng Ngãi 1; Phú Yên 3, có Á Nguyên; các tỉnh khác 4. Tỉnh Ninh Thuận giải
thể [4], thí sinh lại nhập vào hai tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử
Nhân khoa này gồm:
– Lê Thế, đỗ thứ 14, người thôn Long Phụng, huyện Mộ Đức.
23/ Khoa Mậu Ngọ (1918), Khải Định thứ 3 (啟 定), lấy đỗ 12 người: Bình Định
2; Quảng Ngãi 4, có Giải nguyên; Phú Yên 2; các nơi khác 4, người Quảng Nam đoạt Á
nguyên. Sĩ tử Quảng Ngãi đỗ Cử Nhân khoa này gồm:
– Phạm Trinh, đỗ thứ 1, người thôn Chánh Lộ, huyện Chương Nghĩa.
– Bùi Phụ Nghiệp, đỗ thứ 7, người thôn Thu Phố, huyện Chương Nghĩa.
7
– Nguyễn Tạo, đỗ thứ 9, người thôn Xuân Phổ, huyện Chương Nghĩa.
– Lê Văn Duy, đỗ thứ 10, người thôn Bồ Đề, huyện Mộ Đức.
Trên danh nghĩa, Trường thi Bình Định đã đóng góp cho nền Nho học 23 khoa thi
Hương, nhưng trên thực tế chỉ có 22 lần thi tại Trường Bình Định. Vì lần thi cuối cùng,
khoa Mậu Ngọ (1918), sĩ từ miền này phải vác liều chõng ra Huế ứng thí tại Trường
Thừa Thiên. Nhưng danh sách thí sinh, hạn ngạch lấy đỗ và bảng trúng tuyển đều lập
riêng, không dính dự gì đến sĩ tử Trường Thừa Thiên.
Số chỉ định trúng tuyển Cử nhân ở Trường thi Bình Định, mỗi khóa 13 người.
Quy định ấy, giữ đúng được 3 khóa đầu, kể từ lần thứ 4, tức khoa Đinh Mão (1867),
không còn tuân thủ nữa.
Tổng kết, dưới thời nhà Nguyễn, trên toàn cõi Việt Nam có 48 lần mở khoa thi
Hương (1807 – 1918). Riêng Trường thi Bình Định tham dự 23 khoa (1852 – 1918), cung
cấp cho đất nước 355 Cử nhân Hán học. Trong đó, Bình Định 186 người, có 12 Giải
nguyên và 10 Á nguyên. Quảng Ngãi 104 người, có 11 Giải nguyên và 9 Á nguyên. Phú
Yên 22 người, có 1 Á nguyên. Khánh Hòa 7 người. Ninh Thuận 3 người. Bình Thuận 11
người, có 1 Á nguyên. Và sĩ tử các vùng khác tạm trú tại vùng này đỗ 22 người, có 2 Á
nguyên. Đó là trường hợp con của các quan theo cha đến lỵ sở, công chức đang làm việc.
Người Quảng Ngãi đầu tiên xuất thân từ Trường thi Bình Định là Cử nhân Phan
Văn Điển đỗ thứ 2/13, khoa Nhâm Tý (1852). Và người Quảng Ngãi dẫn đầu ở khoa cuối
cùng của Trường thi Bình Định là Cử nhân Phạm Trinh đỗ thứ 1/12, khoa Mậu Ngọ
(1918).
Với sĩ tử Quảng Ngãi cũng có những khoa thi đáng ghi nhớ: Khoa Canh Tý
(1900), Trường Bình Định lấy đỗ 24 Cử nhân, Quảng Ngãi chiếm 10 người, nhiều nhất.
Nhưng đến khoa Ất Mão (1915), Trường Bình Định lấy đỗ 18 cử nhân, Quảng Ngãi chỉ
có 1 người trúng tuyển; và khoa Ất Dậu (1885) sĩ tử Quảng Ngãi bỏ thi khi nghe tin Kinh
đô thất thủ. Thành tích đáng kể hơn hết là bốn khoa: Mậu Thìn (1868), Canh Ngọ (1870),
Đinh Dậu (1897) và Canh Tý (1900) Quảng Ngãi đạt vẻ vang nhất, chiếm cả Giải nguyên
và Á nguyên.
Trở lại với Trường thi Bình Định, những người đỗ Cử nhân trẻ nhất là các ông:
Văn Vĩ người thôn Hữu Pháp, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, đỗ hạng 12/12 khoa Mậu
Ngọ (1918), lúc 16 tuổi. Rồi đến Trần Quý Hàm người thôn Tri Thiện, huyện Tuy Phước,
tỉnh Bình Định, đậu Á nguyên (2/24) năm Bính Ngọ (1906), lúc 18 tuổi. Và Nguyễn
Thuyên người thôn Nam An, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, đỗ thứ 20/24 khoa Bính
Ngọ (1906), lúc 20 tuổi.
Những người lớn tuổi nhất còn vác liều chõng đi thi và đỗ Cử nhân ở Trường thi
Bình Định là các ông: Phan Hành người thôn Biểu Chánh, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình
Định, đỗ hạng 8/18 ở khoa Quý Mão (1903), lúc 55 tuổi. Võ Văn Quý người huyện Mộ
Đức, tỉnh Quảng Ngãi, đỗ hạng 4/19 ở khoa Giáp Ngọ (1894), lúc 53 tuổi. Và Đinh Hữu
Quang người thôn Hưng Lạc, huyện Phù My, tỉnh Bình Định, đỗ hạng 13/19 cũng khoa
Giáp Ngọ, lúc 52 tuổi.
Trường thi Bình Định có những khoa thi mà danh sách thí sinh trúng tuyển khi bộ
duyệt lại, phải thay đổi ở giờ chót: hoặc bị truất bớt, hoặc được thêm vào. Xem ra việc
chọn người trúng tuyển ngày xưa rất cẩn trọng, phải qua hai lần duyệt xét, ở trường thi và
ở trung ương, mới được chính thức đỗ.

– Bộ truất vì có bài bị điểm liệt: Khoa thi Mậu Thìn (1868), Trường thi Bình Định
do Bố chánh Quảng Yên là Lê Hữu Tá làm Chủ khảo, Toản tu Sử quán Phạm Quý Đức
làm Phó Chủ khảo, đã lấy 18 người vào bảng Cử nhân. Bộ duyệt lại thấy Nguyễn Lương,
Phạm Khởi và Lê Văn Cơ có bài bị điểm liệt, nên chỉ cho đậu Tú tài. Bảng Cử nhân chỉ
có 15 người chính thức đậu.
– Bộ truất vì không có bài được điểm bình trở lên: Khoa thi năm Bính Tý (1876)
ban Giám khảo trường Bình Định lập danh sách trúng tuyển là 15 người. Bộ duyệt lại,
truất ba người cuối bảng Cử nhân là Nguyễn Bá Đệ, Trịnh Hữu Bằng và Trần Quang
Khởi, chỉ cho đỗ Tú tài, vì thấy trong quyển thi không có điểm ưu hoặc bình.
– Bộ đánh hỏng vì bài trùng nhau: Việc xét duyệt ở bộ, không chỉ thông qua các
số điểm ban Giám khảo đã cho, mà còn xét rất kỹ từng bài thi. Chẳng hạn, khoa Kỷ Dậu
(1909), Trường Bình Định do Tham tri bộ Học Đặng Như Vọng làm Chủ khảo và Tế tửu
Quốc Tử giám Trần Tấn Ích làm Phó Chủ khảo, lấy đỗ 18 người. Bộ duyệt thấy bài kỳ
nhất (môn văn sách) của Lê Toại (đậu thứ 15) và Đoàn Văn Mân (đỗ thứ 17) có ba bài
trùng nhau và ba bài nhiều đoạn giống nhau nên đánh rớt cả hai.
– Bộ truất vì bài thi có dấu lạ: Khoa thi Nhâm Tý (1912), Tham tri bộ Lại Trần
Trạm và Đốc học trường Hậu bổ Nguyễn Duy Tích được cử làm Chánh, Phó Chủ khảo
Trường Bình Định, đã xếp Trần Tuân vào bảng Cử nhân và Vũ Liêm Sơn vào bảng Tú
tài. Bộ duyệt lại, thấy quyển thi kỳ nhất của Trần Tuân, trong bài văn sách thứ tư ở trên
chữ “đệ” có một dấu mực. Theo luật trường thi, phạm phải lỗi thiệp tích, tức là lỗi làm
dấu bài để thông đồng với giám khảo. Dù là vết mực vô tình cũng quy tội, nên bộ giáng
Trần Tuân xuống bảng Tú tài. Nhưng không phải lúc nào bộ cũng tìm cách bắt lỗi thí
sinh mà ban Giám khảo không thấy hoặc đã bỏ qua. Bộ còn duyệt xét vớt, hoặc ân giảm
vài trường hợp:
– Bộ vớt vì có một bài điểm cao. Đó là trường hợp của Vũ Liêm Sơn ở khoa
Nhâm Tý (1912), điểm hạn ngạch chỉ được đậu Tú tài, nhưng kỳ thi chữ Pháp có điểm
trội hơn những người Tú tài khác, nên bộ vớt lên cho đậu cuối bảng Cử nhân.
– Bộ còn gia ân cho trường hợp của Phạm Thiếu Am, huyện An Phước, tỉnh Ninh
Thuận, thi khoa Kỷ Dậu (1909). Bài làm kỳ thứ 3 và kỳ phúc hạch (kỳ 4), chữ viết không
giống nhau, nghi là có kẻ làm dùm bài. Nhưng được biết đương sự vừa thi xong thì ngã
bệnh, sau khi nghe tin đỗ thứ 16 thì bệnh trở nặng và đã chết, nên bộ gia ân miễn xét, vẫn
để cuối bảng Cử nhân y như ban Giám khảo đã xếp hạng.
H 2: Sĩ tử vào trường thi mang theo lều chõng.
(Nguồn: Hình Ảnh Xưa Việt Nam)
III – TRƯỜNG THI TRONG LỊCH SỬ
9
Trước tình thế căn thẳng của đất nước, Pháp luôn luôn tìm cớ chiếm nốt 3 tỉnh
Miền Tây Nam Kỳ, trong cuộc họp các quan đại thần vào những ngày đầu năm Ất Sửu
(tháng 2-1865), triều đình quyết định bỏ hẳn ý định dành lại 3 tỉnh Miền Đông. Từ nay
chỉ dồn lực lượng giữ các tỉnh còn lại.
Đáp ứng với nhu cầu quốc phòng, tháng giêng năm Đinh Mão (1867), Tự Đức thứ
20, Trường thi Bình Định bắt đầu mở khoa thi Hương võ. Địa điểm thiết lập trường thi
Hương võ không xa với trường thi Hương văn, chỉ cách ba thôn về phía tây và vẫn nằm
bên hữu ngạn Nam Phái sông Côn. Đó là thôn An Thành, cùng tổng, huyện với thôn Hòa
Nghi (thi Hương văn), nhưng nay An Thành thuộc xã Nhơn Lộc. Địa bàn thu nhận thí
sinh Hương võ của trường cũng từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận và cũng theo lệ ba năm
một lần mở khoa thi. Như vậy, chỉ sau Hương văn 3 khoa, Hương võ Bình Định đã cung
cấp cho đất nước nhiều võ quan, trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng. Trường thi Bình Định
lại một lần nữa không hổ danh, vì đã xây cất từ miền đất mang truyền thống thượng võ:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi, đi quyền.
(Ca dao)
Thế rồi, khoa thi Hương năm Ất Dậu (1885), các trường thi khác chưa đến ngày
mở khoa, duy có Trường Bình Định đang thi, bỗng nghe hung tin Kinh đô thất thủ, vua
Hàm Nghi bôn đào. Hội đồng Giám khảo quyết định tiếp tục thi cho xong. Tuy nhiên tinh
thần sĩ tử không còn hăng hái nữa. Bảng đã yết kết quả kỳ nhất, thí sinh Quảng Ngãi vẫn
kéo nhau ra về hết, chỉ còn lại sĩ tử Bình Định và một số ít các tỉnh khác ở nán lại, tiếp
tục thi. Vào phúc hạch chỉ có 8 người đều đậu cả.
Biến cố ở kinh đô đã kích thích lòng yêu nước của các sĩ tử. Bài Vịnh Sĩ Tử Ở
Trường Thi Bình Định của tân khoa Mai Xuân Thưởng phản ánh rõ nét:
Cửa trường tiếng dạ vẫn còn hơi,
Cờ nghĩa treo lên đã ngất trời.
Đạo trọng vua tôi mình dám quản,
Oán hờn người Pháp có vơi đâu
(Khuyết danh dịch)
Vậy, Mai Xuân Thưởng là ai, đã để lại những gì trong trang sử chống ngoại xâm
của nước nhà?
Nhớ lại, khoa thi năm ấy, Trường thi Bình Định do Bố chánh Quảng Nam Bùi
Tiến Tiên làm Chủ khảo nằm mộng thấy một bà lão đem biếu ông một cành mai mà chỉ
có một bông nở to, nhụy vàng cánh trắng, tỏa hương dịu dàng thơm phức. Quan đỡ lấy
nhành mai, đoá hoa độc nhất ấy rụng vào nghiên son và bà lão biến mất. Tỉnh dậy, ông
suy nghĩ mãi về điềm mộng ấy. Ông bèn xem trong danh sách trúng tuyển Cử nhân, thấy
có một người họ Mai, đó là Mai Xuân Thưởng. Xem lại quyển thi, quả thấy văn chương
có khí phách, đoán rằng người này sẽ làm nên nghiệp lớn.
Ngày xướng danh, quan Chủ khảo mời riêng Mai công vào phòng, nhắn nhủ:
“Lúc này nước nhà còn hay mất, phần lớn là do nơi đám sĩ phu. Làm việc phải hết sức
thận trọng.”
Khi ban áo mão cho các vị tân khoa, quan Chủ khảo tặng một bài thơ:
Sơn hà phong cảnh dị tiền niên,
山 河 風 景 異 前 年,
Hoành giám du khan thử địa huyền.
橫 鑑 蕕 看 此 地 懸。
10
Hận mãn xương môn trần ám ngoại,
恨 滿 昌 門 塵 暗 外,
Lệ linh văn viện bút đình biên.
淚 零 文 院 筆 停 邊。
Lịch triều giáo dục ân như hải,
曆 朝 教 育 殷 如 海,
Bát giải thanh danh phẩm thị tiên.
八 解 聲 名 品 是 仙。
Nhất dự y quan nan tự hủy,
一 預 衣 冠 難 自 毀,
Cương thường khán thử cổ anh hiền.
綱 常 看 此 古 英 賢。
Bản dịch trong Nước Non Bình Định:
Non sông xưa đã khác rày,
Gương “hoành công khí” nơi này còn treo.
Cửa Rồng hận ngất trần hiêu.
Bút hoa tuôn lệ tiêu điều viện văn.
Lịch triều lai láng biển ân,
Dự hàng bát tuấn thêm phần thanh cao.
Áo xiêm trót đã buộc vào,
Cương thường noi dấu anh hào nghìn xưa.
Việc quan Chủ khảo nằm mộng, viết theo Quách Tấn, chỉ là chuyện tương truyền.
Có điều chắc chắn là sau khi lãnh áo mão Cử nhân vinh qui bái tổ về làng, Mai Xuân
Thưởng bắt tay ngay vào việc mộ quân ứng nghĩa và nhanh chóng trở thành lãnh tụ tài ba
của Phong trào Cần Vương tỉnh Bình Định.
H 3: Điển hình một Hội Đồng Giám Khảo
thi Hương, 1897. (Hình Ảnh Xưa Việt Nam)
Hai mươi năm sau, 1905, trường thi Bình Định lại xảy ra một sự kiện cũng liên
quan đến lịch sử, không những hâm nóng bầu nhiệt huyết của các sĩ tử ở Bình Định mà
còn là “một tiếng sét đánh vang lừng cả nước” (lời Huỳnh Thúc Kháng), mở đầu cho
phong trào Duy Tân Kháng Thuế ở Miền Trung (1908).
Năm ấy, ba vị đại khoa của tỉnh Quảng Nam là Trần Quí Cáp, Phan Chu Trinh và
Huỳnh Thúc Kháng, cũng là ba nhà chí sĩ cách mạng, rủ nhau vào Nam tìm đồng chí. Lúc
11
đi ngang qua Bình Định, ông Trần có quen với Nguyễn Quý Anh, con của học giả
Nguyễn Thông hiện cư ngụ tại tỉnh này nên ghé lại thăm. Nhân lúc quan Bình Định mở
kỳ thi tuyển sinh, chuẩn bị cho khóa thi Hương năm tới (1906), ba nhà chí sĩ muốn dùng
đề thi của quan trường làm tiếng chuông cảnh tỉnh giới sĩ tử, đánh thức họ dậy, lo việc
cứu nước, không nên đắm mãi trong giấc mộng khoa cử lỗi thời.
Hôm thi kỳ hai, sĩ tử đông đến sáu bảy trăm người. Viên Đốc học Bình Định là
Hồ Trung Lượng, người huyện Duy Xuyên (Quảng Nam) đỗ Tiến sĩ 1892, vì nhà có tang
nên không thể chủ trì cuộc thi, quan đầu tỉnh phải thay thế. Nhân cơ hội ấy, ba chí sĩ giả
dạng sĩ tử chen vào trường thi, chia nhau hành động. Ông Trần làm đề phú, ông Phan làm
đề thơ, ông Huỳnh lo việc xem xét tình hình. Bài làm, lấy một tên chung là Đào Mộng
Giác, với ý nghĩa là đã tỉnh mộng. Quan trường ra đề phú là Lương Ngọc Danh Sơn, lấy
vần “Cầu lương ngọc tất danh sơn” (tìm ngọc quý ở nơi núi đẹp có tiếng) và đề bài thơ là
Chí Thành Thông Thánh (lòng chí thành, thấu suốt đạo thánh), diễn ra thất ngôn bát cú
Đường luật. Hai ông đã nạp quyển như bao nhiêu thí sinh khác, nhưng văn không khai
triển đầu bài, chỉ nhắm vào ý hướng khơi dậy lòng yêu nước, khuyên sĩ tử nên bỏ lối học
cử nghiệp và mộng làm quan. Xong việc, cả ba ông vội lên đường, rời khỏi Bình Định.
Chấm quyển thi Đào Mộng Giác, quan trường sững sốt, choáng váng trước việc
chẳng lành, nhưng không thể dấu nhẹm vì tin tức đã loan khắp. Các quan đành phải đệ
quyển thi ấy về triều và khấu đầu chịu tội. Quan đầu tỉnh giận lắm, thét lính bủa vây,
buộc phải tìm cho ra thủ phạm. Khổ cho đám sĩ tử vô tội, nhất là những thí sinh họ Đào
bị nghi ngờ xét hỏi đủ điều. Người ta nhắm vào nhóm họ Đào làng Vinh Thạnh (của Đào
Tấn) và nhóm họ Đào làng Biểu Chánh (của Đào Phan Duân) vì hai phái Đào này có
nhiều người theo cử nghiệp. Trong khi ấy, ba chí sĩ đã vượt địa giới Bình Định, đang
thong dong qua Phú Yên, trên đường vào Nam.
Sau đó, ông Trần Quí Cáp dịch ra Việt văn cả hai bài ấy, rồi nhờ ông Hồ Thanh
Vân bí mật đem ra Bắc, chuyển cho Nguyễn Hải Thần để truyền bá trong đám nho sĩ Bắc
Hà. Nguyên văn bài Chí Thành Thông Thánh (至誠通聖) của Phan Châu Trinh:
Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,
世 事 迴 頭 已 一 空,
Giang sơn vô lệ khấp anh hùng.
江 山 無 淚 泣 英 雄。
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,
萬 民 奴 隸 強 權 下,
Bát cổ văn chương thụy mộng trung.
八 股 文 章 睡 夢 中。
Trường thử bánh niên cam thóa mạ,
長 此 百 年 甘 唾 罵,
Bất tri hà nhật xuất lao lung.
不 知 何 日 出 牢 籠。
Chư quân vị tất vô tâm huyết,
諸 君 未 必 無 心 血,
Thỉnh hướng tư văn khán nhất thông.
請 向 斯 文 看 一 通。
Trần Quí Cáp dịch:
Ngoảnh lại giang sơn luống lửng lơ,
12
Anh hùng rầu rĩ khóc người sơ.
Muôn dân tôi tớ phường quyền mạnh,
Tám vế văn chương giấc ngủ mơ.
Dày mặt mỉa mai đành chịu mãi,
Thoát thân trói buộc biết bao giờ.
Người ta ai cũng tâm can ấy,
Nghĩ đến văn này đã thấm chưa?
Bài thơ trên và bài phú dưới đây, hiện nay có nhiều bản dịch hay hơn bản dịch của
Trần Quí Cáp, nhưng bản đầu tiên vẫn có giá trị lịch sử, vì đã được các nhà chí sĩ thuở ấy
bí mật phổ biến khắp nơi.
Nguyên tác bài Lương Ngọc Danh Sơn Phú (良 玉 名 山 賦) có 6 vần, gồm 38
câu bằng Hán văn. Tác giả đã dịch ra Việt văn bằng thể thơ song thất lục bát, cả thảy 84
câu. Dưới đây là đoạn đầu và đoạn cuối:
Kìa Châu Á trong vòng hoàn hải,
Khi đồng bào vác nỗi mây tuôn,
Ngắm xem một cõi dinh hoàn,
Đều trông thấy kẻ lo buồn xiết bao.
Việc thế sự xôn xao sóng bể,
Mặt anh hùng rầu rĩ non sông,
Nói ra ai chẳng thẹn thuồng,
Sao ta cứ một cái lòng thế thôi?
Sực thấy chữ tương lai mà sợ,
Còn mơ màng giấc ngủ như không.
Ai ôi đứng dậy mà trông,
Nước ta một góc Á Đông kém gì!
Trên Hồng Lạc dưới thì Trần Lý,
Kể nhơn tâm sĩ khí ai bì.
Kìa xem Lãnh Biểu xưa kia,
Mã Nhi thuở nọ còn bia đành rành.
Một trận đánh Chiêm Thành đã khiếp.
Bấy nhiêu năm Chân Lạp mở cương.
Nước ta xưa vẫn phú cường
Những điều hay lạ có nhường chi ai.
. . . . . . . . . . . . . . .
Việc nhơn thế thử coi mà gẫm,
Vận tang thương một bóng xanh xanh.
Trời Nam bể Sở mông mênh,
Cái thân chích địa nghĩ mình xót xa.
Nhìn thu lạnh sương sa lác đác,
Cửa thần môn lén bước, buớc ra.
Ngất trời một giải xa xa,
Thuyền tiên trông đã vượt ra non thần.
Bến Dịch Thủy chần ngần đứng nghỉ,
Tiễn đưa người giọt lụy chứa chan.
Một lời như khóc, như than.
Thôi còn Lương Ngọc, Danh Sơn làm gì?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét