Chủ Nhật, 25 tháng 6, 2017

THÁI QUỐC MƯU


***
Hoàng Trung (黄忠) tự Hán Thăng (汉升), 145-220, quê ở quận Nam Dương thuộc Kinh Châu. Ông là một vị tướng cuối thời Đông Hán và đầu thời Tam Quốc có sức mạnh muôn người là một trong ngũ hổ tướng của Thục quốc, gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân (Triệu Tử Long), Hoàng Trung và Mã Siêu.

Ban đầu, Hoàng Trung theo Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn (cháu Lưu Biểu) trấn thủ huyện Du thuộc quận Trường Sa. Về sau, Tào Tháo đánh chiếm Kinh châu, cho ông làm chức Tỉ Tướng Quân, dưới trướng Hàn Huyền, Thái Thú Trường Sa. Về sau, Lưu Bị lấy lại Kinh Châu, Hoàng Trung trở về với Thục Hán.


Khi Khổng Minh xua quân đi Bắc chinh (đánh Ngụy) Trần Thức đi theo. Khổng Minh sai 4 tướng Ngụy Diên, Trần Thức, Trương Ngực, Đỗ Quỳnh điều binh qua cửa hang Cơ Cốc. Bốn tướng đang chuẩn bị xuất quân thì Đặng Chi mang lệnh Khổng Minh đến truyền rằng, “Không nên khinh địch, coi chừng có quân mai phục.” Trần Thức không nghe, tự dẫn 5 ngàn quân qua khỏi cửa hang Cơ Cốc mới vài dặm, liền bị quân Tào phục kích, giết trên 4 ngàn quân. Trần Thức nhờ Ngụy Diên đến cứu kịp mới thoát chết.

Khổng Minh Chư Cát Lượng được các nhà phê bình văn học Tàu “phong” là: “một nhà ngoại giao cự phách và cũng là một nhà phát minh tài năng. Đóng góp lớn nhất của Chư Cát Lượng chính là việc giúp hình thành thế chân vạc tam quốc, liên minh Thục Ngô chống Tào. Ông được công nhận là một trong những chiến lược gia vĩ đại và xuất sắc nhất trong thời đại của ông, và được so sánh với một chiến lược gia tài ba khác của Trung Quốc là Tôn Tử.”

Đọc đoạn trên, ta thấy những nhà phê bình trên đã mọp sát đất tôn phục Khổng Minh và đưa tên tuổi Khổng Minh lên tận trời cao. Đem Khổng Minh ra so sánh, đặt ngang hàng với Tôn Tử hoàn toàn khập khiễng. Tôn Tử để lại đời bộ Tôn Tử Binh Pháp đến nay (2016), đã trên 2528 năm vẫn còn hữu dụng. Trong khi Khổng Minh chẳng để lại hậu thế bộ Binh Thư nào! Còn “Thế Chân Vạc” là lẽ tất nhiên nếu sự kiện xảy ra trong một đất nước giữa 3 chế độ quyền lực có 3 thể chế chính trị khác nhau, chứ Khổng Minh chẳng có công lao, mưu chước gì trong việc nầy cả.

Những kẻ tôn xưng Khổng Minh thái quá dường như không nghiên cứu kỹ về Tôn Tử và binh pháp của ông.

Tôn Vũ (孫武) tự Trưởng Khanh, sanh khoảng năm 545, chết khoảng năm 470  (trước dương lịch). Thọ 75 tuổi (cả năm sanh và năm chết đều còn nghi vấn), người Lạc An nước Tề (nay là Huệ Dân – Sơn Đông – Trung Hoa), nhờ bộ Binh Thư mà Tôn Vũ được tôn là Tôn Tử, do sống làm việc ở nước Ngô, nên được gọi là Ngô Tôn Tử, để phân biệt với Tôn Tẫn, người nước Tề được gọi là Tề Tôn Tử.

Tôn Tử Binh Pháp (孫子兵法) là bộ sách viết về chiến lược, chiến thuật do Tôn Vũ soạn thảo năm 512 trước Tây lịch (cách nay 2016, đã 2528 năm), không chỉ đặt nền móng cho binh học truyền thống, mà còn sáng tạo nên một hệ thống lý luận quân sự hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Bởi vậy Binh pháp Tôn Tử được tôn xưng là Tuyệt Tác Binh Thư hàng đầu của thế giới cổ đại. Không những rất được tôn vinh tại Trung Hoa mà kiệt tác này còn được hết mực ca ngợi ở các nước Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên…. đến tận châu Âu.

Năm 1957 khi Quách Hóa Nhược viết về Binh pháp Tôn Tử còn dẫn lời Đỗ Mục cho rằng, “Binh pháp Tôn Tử có 82 bài và 9 quyển hình vẽ cộng với cuốn “Ngô Việt Xuân Thu” ghi chép các câu hỏi và trả lời của Tôn Vũ với vua Ngô. Truyền đến đời Tam Quốc, được Tào Tháo chọn lựa, gọt sửa, biên tập và chú thích, bỏ chỗ thừa, chép những phần tinh tuý và xếp thành 13 thiên, tức là cuốn Tôn Tử lưu truyền đến ngày nay. Và khẳng định Tào Tháo đã giữ lại những nội dung chủ yếu của Tôn Tử, đó là một cống hiến không thể lu mờ được.”

Tháng 4 năm 1972, hai cuốn sách Tôn Tử Binh Pháp và Tôn Tẫn Binh Pháp đồng thời tìm thấy trong một ngôi mộ cổ từ thời nhà Hán ở tỉnh Sơn Đông, Trung Hoa. Tháng 7 năm 1978, bản gốc cuốn Tôn Tử Binh Pháp bằng thủ bút của Tôn Vũ cũng được tìm thấy trong một ngôi nhà ở Thanh Hải Trung Hoa.

Vào cuối đời Nhà Hán bộ Binh Pháp của Tôn Tử được Tào Tháo chú giải, sau đó có Mạnh Thị nhà Lương, Lý Thuyên nhà Đường, Đỗ Mục, Trần Hạo, Giả Lâm, Mai Nhiêu Thần đời Tống, Vương Triết, Hà Diên Tích và Trương Dư cùng chú giải. Trong đó bản chú giải của Tào Tháo là có giá trị hơn cả.

Đến năm 1957, Thượng tướng Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc Quách Hóa Nhược, dựa vào bản khắc đời nhà Tống đã viết lại Tôn Tử Binh Pháp theo thể tân văn ngày nay. Bản này có 13 thiên: Thiên 1, Kế / Thiên 2, Tác chiến / Thiên 3, Công mưu / Thiên 4, Quân hình / Thiên 5, Binh thế / Thiên 6, Hư thực / Thiên 7, Quân tranh / Thiên 8, Cửu biến / Thiên 9, Hành quân / Thiên 10, Địa hình / Thiên 11, Cửu địa / Thiên 12, Hoả công / Thiên 13, Dụng gián.

Sau khi dịch, Quách Hóa Nhược chia thành 13 bài là: 1. Bàn về chiến tranh / 2. Tiến công chiến / 3. Tốc quyết chiến / 4. Vận động chiến / 5. Chủ động tính / 6. Linh hoạt tính / 7. Địa hình / 8. Sử dụng gián điệp / 9. Phán đoán tình huống / 10. Hoả công / 11. Quản lý giáo dục / 12. Quan hệ chỉ huy / 13. Tu dưỡng của tướng soái. Xong, chia thành 108 đoạn.

Từ thế kỷ 7, Binh pháp Tôn Tử đã vào Nhật Bản do sứ thần đưa về, không lâu truyền đến Triều Tiên. Đến thế kỷ 18 truyền vào châu Âu, qua các quốc gia Pháp, Anh, Đức rồi lan khắp toàn thế giới.

Còn Khổng Minh Chư Cát Lượng đã để lại cái gì? Ngoài ba cái phát minh nhỏ nhặt cho trận địa. Khổng Minh chẳng để lại hậu thế bộ binh pháp nào cả.

Nhà Sử Học Trần Thọ “phê” Khổng Minh, “Danh quá kỳ thực.” (tiếng tăm vượt quá tài năng) rất chính xác! Trên thực tế, tài cán Khổng Minh chỉ “thường thường bậc trung” (Kiều), ông ta chỉ được cái dẽo miệng. khéo ăn, khéo nói mà thôi!

Trước kia Tào Tháo đã không ngần ngại khi đánh giá: “Khổng Minh là loại vô năng.” Nhiều mưu kế của Khổng Minh chỉ sao chép lại chiến lược của người đi trước rồi xén bớt hoặc gia thêm. Chẳng khác nào rượu cũ trong bình mới.

Tào Tháo đánh giá Khổng Minh như thế chỉ đúng một phần rất nhỏ ở con người thật, bản chất thật của Khổng Minh. Thực tế tài năng của Khổng Minh chẳng là bao, nhưng bản chất đố kỵ, ganh tỵ và mượn điều nhân nghĩa để che đậy cái dã tâm thì quá lớn!

Ngay trước khi chết, Khổng Minh vẫn còn nặng việc tư riêng hơn vì nghĩa vụ chung. Đoạn văn trong Tam Quốc Diễn Nghĩa sau đây, cho ta thấy rõ điều đó.

La Quán Trung viết, “... Sau khi Khổng Minh qua đời Tư Mã Viêm lên ngôi hoàng đế. Viêm nghe tin trong số quan quân triều đình của ông có viên tướng quân là hậu duệ của Chư Cát Lượng, Viêm bèn nghĩ cách trừng trị người này. Một hôm, Tư Mã Viêm tìm cớ định tội chết cho viên tướng mang họ Chư Cát, bèn truyền lệnh người mang họ Chư Cát đến diện kiến. Trên kim điện, Viêm cất lời hỏi: “Trước khi chết, tổ phụ nhà ngươi đã nói những gì?”.

Kẻ “tội đồ” họ Chư Cát bèn thật thà thưa với Tư Mã Viêm lời dặn dò của Gia Cát Lượng. Nghe xong, Tư Mã Viêm bèn truyền lệnh cho quân lính dỡ nhà, lấy bọc giấy ra xem. Bên trong chỉ có một phong thư kín, phía trên viết rằng: “Ngộ hoàng nhi khai” (nghĩa là: đúng hoàng thượng mới mở ra xem).

Đám binh sĩ bèn dâng thư lên vua. Trong thư có mấy chữ: “Xin lùi ba bước”. Tư Mã Viêm lập tức làm theo. Vừa đứng vững bỗng nghe thấy một tiếng “rầm” thật lớn, chiếc xà nhà ngay chỗ Tư Mã Viêm vừa ngồi tự nhiên rơi thẳng xuống ngay chỗ ông ngồi, khiến bàn ghế tan tành. Tư Mã Viêm thấy vậy mà sợ hãi lạnh người, rồi lại xem tiếp những dòng ở cuối thư: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi hãy giữ lại mạng sống của con cháu ta”.

Tư Mã Viêm là vua nước Ngụy, kẻ thù của Thục Hán tại sao Khổng Minh không để cho cây xà nhà rớt xuống cho hắn chết đi? Tại sao lại bảo Tư Mã Viêm phải “lùi ba bước” để tránh họa vào thân? Phải chăng ông ta vì một kẻ chỉ mang họ Chư Cát để rồi phải ra điều kiện với kẻ thù của Thục Hán: “Ta cứu mạng ngươi, ngươi hãy giữ lại mạng sống của con cháu ta”. Điều nầy chứng minh cho ta thấy, Khổng Minh chỉ biết lợi riêng mà bỏ nghĩa công.

Tác giả La Quán Trung, vốn xuất thân vào hàng thế gia vọng tộc, có thể tổ tiên ông ta được nhiều ân sũng của Hán triều, nên trả ơn bằng cách “đưa” những nhân vật của Thục Hán trong Tam Quốc Diễn Nghĩa lên tận mây xanh.

Chẳng hạn, họ La “phong” cho Khổng Minh Chư Cát Lượng là “thần cơ diệu toán, mưu lược nghìn lần không sai một.” Nhưng, từ năm 227, ông ta xua quân ào ạt Bắc chinh, vượt Kì Sơn, giao chiến với quân đội Nhà Ngụy ở phía Bắc không gặt hái được kết quả nào. Sau đó, Khổng Minh tiến hành thêm 5 lần Bắc chinh nữa cũng chẳng thu tóm được nước Ngụy.

Năm 234, Chư Cát Lượng tiến hành cuộc Bắc chinh lần thứ bảy, giữa đường thì lâm bệnh nặng, chết. Thực tế, trong 6 lần đánh nước Ngụy, Khổng Minh không trực tiếp đi cả 6 lần, mà chỉ ra Kỳ Sơn có vài lần.

Nếu là “Thần cơ diệu toán”, tại sao trước khi mở những cuộc Bắc chinh Khổng Minh không tiên đoán trước để tránh hậu quả đi không về rồi?

Đem quân đi xăm lược nước người, dù trực tiếp điều binh khiển tướng hay gián tiếp ngồi nhà chỉ huy, khiến quân lính gian khổ, hao tốn công quỹ mà không gặt hái được moat chút kết quả nào, đồng nghĩa với thua. Điều nầy, minh chứng cái nhìn của Khổng Minh đánh giá vào nước Ngụy quá kém cỏi, tồi tệ, không biết người, chẳng biết ta, thì làm sao thắng địch? “Thần cơ diệu toán” ở đâu mà để cho sáu lần hành quân xăm lăng nước người đều không thành công. Đến lần thứ bảy, vì lo nghĩ nhiều, mất ăn mất ngủ bị bệnh rồi chết trong quân trại. Thử hỏi, những kẻ đã cho Khổng Minh Chư Cát Lượng là “thần cơ diệu toán” thì “thần cơ diệu toán” ở chỗ nào?
Như vậy, ta có thể nghĩ, việc di thư “than cơ diệu toán” của Khổng Minh để lại, cứu Tư Mã Viêm thoát chết do nạn trần nhà rơi xuống, hoàn toàn do La Quán Trung chỉ vì tinh thần hoài Hán mà mà bịa ra!

Ngoài ra, khi viết về Khổng Minh Chư Cát Lượng, La Quán Trung còn sai lầm ở các chỗ sau đây:


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét