Thứ Tư, 28 tháng 6, 2017

Tỳ bà hành 琵琶行 • Tỳ bà hành



   
 
 
 
 
 
 
 
調 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
漿 
 
 
 
西 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
滿 
 


Tỳ bà hành 

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách 
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt 
Chủ nhân há mã khách tại thuyền 
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền 
Tuý bất thành hoan thảm tương biệt 
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt 
Hốt văn thuỷ thượng tỳ bà thanh 
Chủ nhân vong quy khách bất phát 
Tầm thanh âm vấn đàn giả thuỳ 
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì 
Di thuyền tương cận yêu tương kiến 
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến 
Thiên hô vạn hoán thuỷ xuất lai 
Do bão tỳ bà bán già diện 
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh 
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình 
Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ 
Tự tố bình sinh bất đắc chí 
Đê mi tín thủ tực tực đàn 
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự 
Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu 
Sơ vi 
Nghê thường hậu Lục yêu 
Đại huyền tào tào như cấp vũ 
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ 
Tào tào thiết thiết thác tạp đàn 
Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn 
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt 
U yết lưu cảnh thuỷ hạ than 
Thuỷ tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt 
Ngưng tuyệt bất thông thanh 
tiệm yết 
Biệt hữu u sầu ám hận sinh 
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh 
Ngân bình sạ phá thuỷ tương bính 
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh 
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch 
Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch 
Đông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn 
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch 
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung 
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung 
Tự ngôn bản thị kinh thành nữ 
Gia tại 
Hà Mô lăng hạ trú 
Thập tam học đắc tỳ bà thành 
Danh thuộc 
giáo phường đệ nhất bộ 
Khúc bãi 
tằng giao thiện tài phục 
Trang thành mỗi bị 
Thu Nương đố 
Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu 
Nhất khúc hồng tiêu bất tri số 
Điền đầu ngân tì kích tiết toái 
Huyết sắc la quần phiên tửu ố 
Kim niên hoan tiếu phục minh niên 
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ 
Đệ tẩu tòng quân a di tử 
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố 
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy 
Lão đại giá tác thương nhân phụ 
Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly 
Tiền nguyệt 
Phù Lương mãi trà khứ 
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền 
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thuỷ hàn 
Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự 
Mộng đề trang lệ hồng lan can 
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức 
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức 
Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân 
Tương phùng hà tất tằng tương thức 
Ngã tòng khứ niên từ đế kinh 
Trích cư ngoạ bệnh Tầm Dương thành 
Tầm Dương địa tích vô âm nhạc 
Chung tuế bất văn ty trúc thanh 
Trú cận 
Bồn giang địa thế thấp 
Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh 
Kỳ gian đán mộ văn hà vật 
Đỗ quyên đề huyết viên ai minh 
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ 
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh 
Khởi vô sơn ca dữ thôn địch 
Âu á 
triều triết nan vi thính 
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ 
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh 
Mạc từ cánh toạ đàn nhất khúc 
Vị quân phiên tác Tỳ bà hành 
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập 
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp 
Thê thê bất tự hướng tiền thanh 
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp 
Toạ trung khấp hạ thuỳ tối đa 
Giang Châu tư mã thanh sam thấp.

Dịch nghĩa 

Ban đêm đưa tiễn khách ở đầu sông Tầm Dương 
Gió thu thổi vào lá phong, hoa lau hiu hắt 
Chủ nhân xuống ngựa, khách trong thuyền 
Nâng chén rượu muốn uông (mà) không có đàn sáo 
Say mà không vui vẻ gì (vì) biệt ly sầu thảm 
Lúc chia tay lòng mang mang, sông đượm bóng trăng 
Chợt nghe có tiếng tỳ bà trên mặt nước 
Chủ nhân quyên về, khách cũng không khởi hành 
Tìm theo tiếng để hỏi người đàn là ai 
Tiếng tỳ bà im bặt, muốn nói mà còn (ngại ngùng) trì hoãn 
Bèn dời thuyền lại xin được gặp mặt 
Rót thêm rượu, khêu đèn lên, trùng tân tiệc rượu 
Gọi đến ngàn lần vạn lần mới bước ra 
Tay ôm tỳ bà che khuất nửa gương mặt 
Vặn trục gảy dây hai ba tiếng (để thử) 
Chưa có khúc điệu gì mà nghe đã hữu tình 
Dây nào cũng nghẹn ngào, tiếng nào cũng có ý 
Bày tỏ nỗi bất đắc chí trong cuộc đời 
Hạ thấp lông mày cứ gảy cứ gảy mãi 
Giãi bày hết tâm sự vô cùng hạn 
Nhẹ nắn, chậm vuốt, rồi lại gảy tiếp 
Thoạt đầu là khúc Nghê thường, sau đó là khúc Lục yêu 
Dây lớn ào ào như mưa rào 
Dây nhỏ nỉ non như tỉ tê chuyện riêng 
(Rồi tiếp đến) tiếng rào rào lẫn tiếng nỉ non 
(Nghe như) hạt châu lớn hạt châu nhỏ rắc vào trong mân ngọc 
(Nghe như) tiếng chim oanh giọng (líu lo) qua lại trong hoa 
Nhịp suối ngập ngừng, nước chảy xuống bãi 
Suối nước bỗng lạnh đông, dây đàn ngưng bặt 
Tiếng đàn ngưng bặt, không thuận, bấy giờ bỗng yên lặng 
Tự có mối sầu u uất riêng, nỗi hận âm thầm phát sinh 
Lúc này không có âm thanh mà nghe con hay hơn có 
(Bỗng dưng nghe như) tiếng nước bắn tung ra khỏi thành bình bạc vị phá vỡ 
(Nghe như) đoàn quân thiết kỵ ào ào đến, đao thương sáng ngời 
Nàng dạo tay vào giữa bốn dây (và) chấm dứt ca khúc 
Bốn dây vang lên một âm thanh như lụa xé 
Thuyền mảng đông tây lặng im, không một tiếng nói 
Chỉ thấy vầng trăng thu rọi sáng giữa sông 
Nàng trầm ngâm gỡ phím, cài vào giữa các dây đàn 
Sửa gọn xiêm áo lại, đứng dậy chỉnh vẻ mặt 
Tâm sự rằng, nàng nguyên là con gái chốn kinh thành 
Nhà ở lăng Hà Mô 
Mười ba tuổi học được ngón đàn tỳ bà 
Tên thuộc bộ thứ nhất của giáo phường 
Mỗi gảy hết khúc đàn, từng khiến các nhà dạy đàn phục 
Mỗi trang điểm xong là đến nàng Thu Nương cũng đố kỵ 
Những chàng trai trẻ ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng biếu 
Một bài ca, thưởng không biết bao là tấm lụa đào 
Vành lược bạc, cành trâm vàng đánh nhịp vỡ tan 
Quần lụa màu huyết dụ để rượu đổ ra hoen ố 
Năm này vui cười, năm sau cũng như vậy 
Trăng thu gió xuân, trải một đời nhàn hạ 
Em trai đi lính, rồi dì chết 
Chiều qua, sớm lại, nhan sắc cũng lão đi 
Trước cổng dần vắng tanh, thưa thớt đi ngựa xe 
Cũng có tuổi rồi mới làm vợ người lái buôn 
Người lái buôn chỉ tham lợi, coi thường biệt ly 
Tháng trước đi Phù Lương mua trà 
Từ đó đến giờ ở đầu sông một mình với con thuyền không 
Quanh thuyền trăng sáng, nước sông lạnh lẽo 
Đến khuya bỗng mộng thấy lại thời trẻ trung 
Trong mộng thấy khóc nhoè má hồng phấn son 
Tôi nghe tiếng tỳ bà đã thán tức 
Giờ nghe thêm những lời tâm sự lại càng bùi ngùi 
Cùng là kẻ luân lạc ở chốn chân trời 
Gặp gỡ nhau đây hà tất đã từng quen biết 
Năm ngoái tôi từ biệt kinh vua 
Bị biếm đến thành Tầm Dương cho đến nay nằm bệnh 
Tầm Dương xứ hẻo lánh không có âm nhạc 
Cả năm chưa nghe được tiếng đàn sáo 
Tôi ở gần sông Bồn, chỗ thấp và ẩm ướt 
Lau vàng, trúc võ mọc quanh nhà 
Ở nơi đây sáng chiều nghe được những gì 
Có tiếng quốc khóc ra máu và tiếng vượn hú bi ai 
Mùa xuân sáng hoa nở, mùa thu ban đêm có ánh trăng 
Tôi thường thường đem rượu ra uống một mình 
Có phải không có sơn ca thôn địch đâu 
Khốn nỗi líu lo, líu liết, thật khó nghe 
Đêm nay nghe được tiếng tỳ bà của nàng 
Như nghe được tiếng nhạc tiên, tai tạm nghe rõ ràng 
Xin ngồi lại đàn một khúc 
Tôi sẽ vì nàng làm bài Tỳ Bà hành 
Cảm động vì lời tôi nói, nàng đứng một lúc lâu 
Rồi ngồi xuống gảy đàn, tiếng bỗng chuyển thành cấp xúc 
Buồn thảm không giống như tiếng đàn vừa rồi 
Hết những người trong tiệc nghe lại đều che mặt khóc 
Trong những người ấy ai là người khóc nhiều nhất 
Tư mã Giang Châu ướt đẫm vạt áo xanh

 

Bản dịch Thơ của Phan Huy Thực

Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách. 
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu. 
Người xuống ngựa, khách dừng chèo, 
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty. 
Say những luống ngại khi hầu rẽ, 
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong. 
Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông, 
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi. 
Lần tiếng sẽ hỏi ai đàn tá? 
Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh. 
Dời thuyền theo hỏi thăm tình, 
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui. 
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ, 
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa. 
Vặn đàn vài tiếng dạo qua, 
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay. 
Nghe não nuột mấy dây bứt rứt, 
Dường than niềm tấm tức bấy lâu. 
Chau mày, tay gảy khúc sầu, 
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn. 
Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt, 
Trước "Nghê thường", sau thoắt "Lục yêu". 
Dây to nhường đổ mưa rào, 
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng. 
Tiếng cao thấp lần chen liền gảy, 
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu. 
Trong hoa, oanh ríu rít nhau, 
Suối tuông róc rách chảy mau xuống ghềnh. 
Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt, 
Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ. 
Ôm sầu, đau giận ngẩn ngơ, 
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay. 
Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước, 
Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao. 
Cung đàn trọn khúc thanh tao, 
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây. 
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt, 
Một vầng trăng trong vắt lòng sông. 
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong, 
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời. 
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ, 
Cồn Hà Mô trú ở lân la. 
Học đàn từ thuở mười ba, 
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên. 
Gã thiện tài sợ phen dừng khúc, 
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô. 
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua, 
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn. 
Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ, 
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi. 
Năm năm lần lữa vui cười, 
Mải gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu. 
Buồn em trẩy, lại sầu dì thác, 
Lần hôm mai đổi khác hình dung. 
Cửa ngoài xe ngựa vắng không, 
Thân già mới kết đôi cùng khách thương. 
Khách trọng lợi khinh thường ly cách, 
Mải buôn chè, sớm tếch miền khơi. 
Thuyền không đậu bến mặc ai, 
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng. 
Ðêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ, 
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son. 
Nghe đàn ta đã chạnh buồn, 
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời. 
Cùng một lứa bên trời lận đận, 
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau. 
Từ xa kinh khuyết bấy lâu, 
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai. 
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích, 
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm. 
Sông Bồn gần chốn cát lầm, 
Lau vàng, trúc võ nảy mầm quanh hiên. 
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối, 
Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non. 
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn, 
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng. 
Há chẳng có ca rừng địch nội, 
Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe. 
Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya, 
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai. 
Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa, 
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca. 
Tần ngần dường cảm lời ta, 
Dén ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây. 
Nghe não nuột khác tay đàn trước, 
Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi. 
Lệ ai chan chứa hơn người? 
Giang châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.

Người dịch Phan Huy Thực là con Phan Huy Ích. Một số tài liệu (trong đó có "Việt Nam thi văn hợp tuyển" của Dương Quảng Hàm) chép người dịch là Phan Huy Vịnh (tức con của Phan Huy Thực) là không chính xác. 
Lâu nay, ở Việt Nam độc giả biết đến bài thơ này phần nhiều là từ bản dịch Nôm của Phan Huy Thực (?). Xin nói thêm, trong Cảo thơm toàn tập, in năm 1924, Hải Nam Đoàn Nhữ Khuê cho rằng bản dịch này là của Phan Huy Vịnh. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 hiện hành cũng ghi là Phan Huy Vịnh, nhưng chú thích là “nay nhiều người cho là của Phan Huy Thực”. Hầu hết giới khoa học đều đồng thuận đây là bản dịch của Phan Huy Thực.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét