TUYÊN
NGÔN NGHỆ THUẬT LÃNG MẠN
Võ Công Liêm
gởi bạn : p.m.h, p.v.c.
Trong đại tự điển Cambridge Anh ngữ, đại tự
điển thế giới mới của Webster (Great Webster’s New world dictionary) và đại tự điển
Larousse dictionnaire đều định nghĩa rõ ràng về hai chữ Lãng mạn và Tuyên ngôn.
Do đó; đặc dưới chủ đề: ‘Tuyên ngôn nghệ thuật Lãng mạn’ (The Romantic
Manifesto) .
Lãng mạn:
romantic / romantique [rõ-man’tik] là vẻ dáng rất tự nhiên qua từng vai trò của
mỗi lãnh vực, không căn cứ vào sự kiện: say mê, lả lơi, gợi tình, mông lung, mường
tượng, một cái gì bao la ảo ảnh; mà nó ở một cảm thức trọn vẹn, có khi trội hẳn
không thể kiềm chế được, một tư thế qua nhiều đặc tính khác nhau trong đó có cả:
tình yêu, thi ca, văn chương, âm nhạc, hội họa...
Nói chung; những thứ đó thích hợp để du nhập vào hồn cho một cõi riêng của từng bộ môn với lối mô tả đặc thù. Chớ lãng mạn tạo ra khác đời, khác người thì hoàn toàn không hợp với tinh thần lãng mạn hay thi vị hóa để được gọi là lãng mạn.Thí dụ: ‘Thơ tình viết trên ngọn lá đa’ làm chủ đề cho một tác phẩm gợi ý nói lên một tiền đề có tính lãng mạn. ‘Qùy thơm một đóa’ tựa nghe như ‘ai lên xứ hoa đào’. Cả hai tác phẩm mang cùng một vọng âm như nhau không thấy trong thơ mang chất lãng mạn thi ca, từ ý đến lời không chứa đựng chi là thơ trong đó (dù là thơ vô nghĩa, thơ mới, thơ trình diễn, thơ lắp đặc, thơ tân hình thức hay quá lắm là thơ đúc (tạp-lô /concrete poetry’) tất thảy không có trong mấy trường phái đưa ra; thơ của họ làm rất khó vận chuyển vào hồn (thơ) mà mang theo lối ‘rặn chữ’ cho ra thơ hoặc phá cách để tạo nét đặc thù đúng thời thượng; mà chỉ thấy ở đó lối về ngõ cụt của thơ, vô hình chung làm cho thơ trở nên bí tỉ và ngột thở, bởi; nó không hòa điệu vào những dòng thơ hôm nay. Loại thơ đó thuộc trường phái thơ: ‘alien-poetry’ là thể thơ thuộc thế giới bên ngoài của vũ trụ thi ca, có thể là cõi lãng mạn khác. Kỳ thực đó là giòng thơ tắc nghẽn của trào lưu thi ca đương đại.Thi ca lãng mạn đã có xưa nay và được thừa nhận như một trường phái của văn học nghệ thuật. Được xếp vào lịch sử của thi ca hiện đại mới.
Nói chung; những thứ đó thích hợp để du nhập vào hồn cho một cõi riêng của từng bộ môn với lối mô tả đặc thù. Chớ lãng mạn tạo ra khác đời, khác người thì hoàn toàn không hợp với tinh thần lãng mạn hay thi vị hóa để được gọi là lãng mạn.Thí dụ: ‘Thơ tình viết trên ngọn lá đa’ làm chủ đề cho một tác phẩm gợi ý nói lên một tiền đề có tính lãng mạn. ‘Qùy thơm một đóa’ tựa nghe như ‘ai lên xứ hoa đào’. Cả hai tác phẩm mang cùng một vọng âm như nhau không thấy trong thơ mang chất lãng mạn thi ca, từ ý đến lời không chứa đựng chi là thơ trong đó (dù là thơ vô nghĩa, thơ mới, thơ trình diễn, thơ lắp đặc, thơ tân hình thức hay quá lắm là thơ đúc (tạp-lô /concrete poetry’) tất thảy không có trong mấy trường phái đưa ra; thơ của họ làm rất khó vận chuyển vào hồn (thơ) mà mang theo lối ‘rặn chữ’ cho ra thơ hoặc phá cách để tạo nét đặc thù đúng thời thượng; mà chỉ thấy ở đó lối về ngõ cụt của thơ, vô hình chung làm cho thơ trở nên bí tỉ và ngột thở, bởi; nó không hòa điệu vào những dòng thơ hôm nay. Loại thơ đó thuộc trường phái thơ: ‘alien-poetry’ là thể thơ thuộc thế giới bên ngoài của vũ trụ thi ca, có thể là cõi lãng mạn khác. Kỳ thực đó là giòng thơ tắc nghẽn của trào lưu thi ca đương đại.Thi ca lãng mạn đã có xưa nay và được thừa nhận như một trường phái của văn học nghệ thuật. Được xếp vào lịch sử của thi ca hiện đại mới.
Tuyên ngôn:
‘Manifesto’ nghĩa là công khai phổ biến rộng lớn: chú ý, ý kiến, mục đích từng đối
tượng hoặc một chuyển động nào đưa tới; tất cả được cung cấp bởi nhà nước hoặc
chức vụ tối cao hay cơ quan tổ chức được xác định rõ. (Random House Dictionary
of the English Language, College Edition.1968).
Ngoài ra những
thứ khác không có trong tập thể rộng lớn dù có đưa ra nghị định, nghị quyết hay
thông báo; tất không thể coi đó là tuyên ngôn.Tuyên ngôn là xác quyết rõ ràng đường
lối đã vạch ra; không cường điệu ngữ ngôn hay một sức ép do từ đâu tới mà nó nằm
trong nội bộ chỉ đạo đã thực hiện.
Phân tích trắng đen
của ngữ ngôn với mục đích minh định nghĩa và chữ lúc nào xử dụng đúng nghĩa khi
nào phải phóng bút để hòa hợp với ngữ ngôn mà không phi nghĩa. Tuy nhiên; ở đây
cũng phải nói rõ tuyên ngôn là không xuất hay phát hành trong danh xưng của một
cơ quan tổ chức hoặc một cao trào nào –have must state, therefore; that this
manifesto is not issued in the name of a organization or a movement. Không có một
chuyển động nào khởi từ Lãng mạn mà ra. Lãng mạn đến từ tâm hồn của người nghệ
sĩ vốn đã tích lũy trong tiềm thức (subconscious) cho nên phát tiết dưới dạng
thức nào đều có ít nhiều chất ‘lãng mạn’ cấu thành, lần hồi tìm thấy như hiện tượng,
đặc biệt hiện tượng văn học nghệ thuật (tức là phong trào Lãng mạn /Romantic
movement). Thành ra giữa chuyển động và phong trào khác nghĩa nhau dẫu nó là hiện
tượng nhưng nhu cầu lại khác nhau. Có một số văn bản tác giả xử dụng chữ theo dạng
ý lồng chữ như là: chuyển động vào chớ không đưa ‘phong trào’ vào, bởi; nó là
‘whose move it is…’, vì chỗ đó; mà không phân định được đâu có lãng mạn và đâu
không lãng mạn mà phải có cái nhìn thẩm mỹ trong văn chương mới định nghĩa trọn
ý của người muốn mô tả. Anh ngữ nghe ra giản đơn nhưng cũng có một số chữ mà
nhiều nghĩa như Việt ngữ vậy. Nhiều khi lãng mạn hóa, hóa ra vô duyên, đưa tới
tệ nạn phi thực, gần như căn bệnh thời đại của cái gọi là ‘pseud’ của phái nữ.Trường
phái lãng mạn là tuyên ngôn của tâm thức dành cho sự phát tiết có chuẩn mực, không
‘phá giái’ để có lãng mạn, chính trường hợp này đưa tới mê tín (romantic creed)
một cách trầm trọng đã không thấy chi lãng mạn mà là thứ lãng mạn cuồng si,vì vậy;
cần có một xác quyết cho ‘tuyên ngôn lãng mạn’ để cầu chứng.
Thế nhưng không
phải lãng mạn là nhu cầu cần thiết, nó chỉ là danh xưng để gọi đồng thời minh định
nó để tránh sự lạm phát tư tưởng, làm mất giá trị tuyệt đối của nó. Nhưng; không
có gì là tuyệt đối cả. Dẫn câu văn này để nhận nó như một tư duy trung hòa hợp
lý vào trường phái lãng mạn: ‘không có chi là đúng mọi thứ đã được phép /
nothing is true everything is permitted’. Không chừng trong cái bộc phát nào đó
lại chứa cái chất lãng mạn, nhất là trong thi ca đã thể hiện đậm nét hơn những
vị trí khác.
Đứng trên cương
vị nhận định hai chữ ‘Lãng mạn’ và ‘Tuyên ngôn’ thì đó là một phong trào thời
thượng; nếu có một trong những thứ nghệ thuật khác của tương lai thì thiết tưởng
đây là sự kiện đáng chú ý và giúp cho chúng ta nhận diện một hiện hữu sống động
cho hôm nay và một tương lai rõ nét hơn.
Dựa theo tinh thần
lý luận triết học; thì đây không phải là diễn cảm tỏ ra của: ‘cường điệu/intension,
quan điểm hay ý tứ/opinions, mục đích/objectives hoặc là động cơ thúc đẩy/motives’
mà ở đây không nêu một ý định hay lý do nào vào đó, nghĩa là không coi như chứng
cớ hay nhận diện. Cơ bản là dựa vào thực tế để phân định đường lối chủ nghĩa lãng
mạng có đúng tuyên ngôn văn chương đưa ra không. Tuy nhiên; thực sự của tuyên
ngôn: là tuyên bố công khai mục đích của cá tính hoặc do động cơ thúc đẩy thành
văn, thơ là làm sao tạo được môi trường thích nghi và hòa điệu trong thơ như một
vị trí được xác định và sau đó giới thiệu những lãnh vực thuộc lý thuyết nhất là
trong văn đó là chủ đề muốn nêu ra đặc
biệt giới thiệu như một tọa độ dành cho trường phái lãng mạn và bên cạnh đó là động
lực để thành hình.
Gợi ra đây một
chủ nghĩa lãng mạn (romanticism) như nhịp cầu nối lại thời quá vãng và tương
lai; mà trong cả hai thời đã đề cập tới. Tuổi trẻ ở thời chiến gần như nghe phản
phất vào đó những âm điệu ngữ ngôn của: tiếng gọi lên đường, hồn quê chan chứa,
mẹ già áo nâu phai và nắng lùa vào mắt em…cuối cùng ráng mây hồng hay nắng thủy
tinh của mùa hoa gạo nở hầu như hừng lên tia nắng hồng với bầu khí quyển văn hóa
trong lịch sử nhân loại (thành quả không đến ngoài Bắc mà đến miền Nam) –the
last afterglow of the most radiant cultural
atmosphere in human history (achieved not by Northern but by Southern). Như
vậy cho thấy sức lực bùng cháy không chết một lúc dù dưới chế độ nào, hoàn cảnh
hay trạng huống nào có xẩy ra đi nữa tâm hồn lãng mạn không thể cháy theo đó,
nhưng; nó như thể là một cảm thức đẹp đẽ. Nó được đánh giá như một quan tâm về
trí năng của mọi giới và một chuẩn mực về nó; nếu có cái nhìn thoáng qua về thể
loại của hội họa -có thể đó là một thể loại của văn hóa- cái sự đó không thể làm
hài lòng một ít trong đó. Nghĩa là không nhất thiết nhấn mạnh vào ưu thế của phía
lãng mạn, không nói đến nền móng củng cố ngay cả những gì thuộc chính trị kể cả
truyền thông báo chí hoặc những gì không đáng kể, nhưng; những gì gọi là lãng mạn
nó lại nằm trong ‘cảm thức của cuộc đời / sense of life’. Nghệ thuật của lãng mạn
là hồi tưởng về dĩ vãng, một cảm thức tràn ngập của ý thức về tự do, của những
gì sâu lắng trong tâm hồn, chú ý đến nền tảng xây dựng trước đây ngụ ý nhắc tới
thời kỳ quá độ để tiến tới trào lưu lãng mạn, những gì có một tuyên ngôn chuẩn
mực cho những gì thực sự là lãng mạn chớ nhất thiết không vơ đũa cả nắm, đụng tới
là lãng mạn của thi ca, của văn chương, của âm nhạc và hội họa mà không tìm thấy
cái đích thực sự của chủ nghĩa lãng mạn trong đó mà cứ cho‘như là’.
Vị chi cảm thức
cuộc đời là cảm hóa vào đó cái hồn lãng mạn chan chứa trong cái gọi là ý thức của
cảm nhận; đôi khi cảm nhận sự kiện là thực, không có chi là hiện hữu tồn lưu nhân
thế nhưng nó nằm trong vị trí tâm lý –The myth is true, not existentially, but
psychologically. Có khi lại vô tâm là một dung thông (integrating) kết cấu như
phương cách tiềm thức của con người. Cảm thức cuộc đời là gì? What is a sense
of life? –là tiền khái niệm nhận thức tương đương dạng siêu hình: của cảm xúc,
của tiềm thức, của thẩm định về con người và hiện hữu. Chắc chắn nó tàng ẩn viễn cảnh cuộc đời –a certain implicit dưới cái nhìn cuộc đời. Nhưng nó
là một tiến trình của trừu tượng xúc cảm (emotional abstraction) để thành hình
trong tiềm thức qua trí tuệ phát tiết hình ảnh lãng mạn. Freud cho đó là diễn
trình trong tâm sinh lý để cấu thành ‘chất’ lãng mạn trong người; tùy vào đó để
đưa tới cảm xúc mà chúng đã viện dẫn –According to the emotions they invoke. Lập
luận này đưa tới ý thức nhận biết đầy đủ, nó có nghĩa lý: một ý thức triết học
cuộc đời /a conscious philosophy of life. Chính sự cớ này đã gây ra nhầm lẫn
cho một vài đối tượng, bởi; triết học là ngữ ngôn lý luận mà cho là tầm bậy hoặc là không đúng với ý nghĩa; nhất là khâu trừu tượng cảm xúc và ý thức
nhận biết thuộc triết học. Chính tư duy đó đã án ngữ sự nhận biết của họ. Bởi
qui trình vận chuyển tức là chuyển dịch (trasition) có từ chỗ đưa đường dẫn lối
bằng cảm thức cuộc đời, tức cảm thức được tâm hồn lãng mạn cuộc đời, bởi; mọi
phương hướng đưa dẫn tới, cho nên chi tất cả những gì thuộc trí tuệ và cảm xúc đan
kết vào nhau để hòa điệu; cảm thức của cuộc đời là kết hợp đồng dạng vào ý thức
nhận biết.Thành ra lãng mạn trong tình yêu là vấn đề của ‘con tim/the heart’ nó
rung động trong một ý thức xúc cảm chớ nó không ở trong dạng cảm xúc độc lập của
‘trí tuệ/mind’ đó là lý do. Một thứ tình yêu dự cảm của triết học / the
expression of philosophy. Chính những sắc tố triết học đã làm cho một số văn nhân
đánh giá xa tầm nhìn của nhận biết; dù rằng triết học là tư tưởng thẩm mỹ nhưng
người đọc triết học có cảm giác như đọc chuyện ‘phong thần’ và; từ đó có một thẩm định chủ quan. Cuối cùng đi tới kết
luận lãng mạn là lãng mạn, triết học là triết học. Vòng vo tam quốc mất tính
thiết thực.Thậm chí đi tới đả phá: triết học không phải vậy! Thái độ của người
trí thức ở cấp độ như thế Cọng sản gọi là tầng lớp trí thức tiểu tư sản; có nghĩa
là ‘thứ bần cùng trong xã hội không thể liệt vào hạ tầng cơ sở của vô sản’
(Engels) hay quá võ đoán mà nhận định; thực ra lớp người đó vốn tích lũy bản chất
cố hữu ‘thuộc điạ da vàng’ thời khó mà bước vào thế giới lãng mạn nghệ thuật; lãng
mạn nghệ thuật là tinh thần phóng ngoại nhìn vào một phương trời rộng mở hài hòa nhân ái và tình người, ‘hòa nhập trong một
tâm hồn cao thượng: văn thơ nhạc họa trở nên siêu thoát để vương mình tới đỉnh
cao nghệ thuật của lãng mạn…’ (Claude Lévy Strauss). Do đó; lý giải tư cách lãng
mạn là khai thác vào yếu tố tâm sinh lý thì may ra hóa giải trọn vẹn con đường đi
tới của lãng mạn. Bằng không dậm chân tại chỗ như cóc dưới miệng giếng há hốc mồm
nhìn trăng mà không biết cái chi mà răng lạ rứa !
Vậy thì; Chủ nghĩa
Lãng mạn là cái gì? / What Is Romanticism? -Chủ nghĩa lãng mạn là phạm trù của
nghệ thuật là căn cứ vào sự xác nhận chủ yếu đó là những gì chiếm lĩnh nơi con
người tác động vào khả năng ý chí –Romanticism is a category of art based on
the recognition of the principle that man possesses that faculty of volition. Dẫn
như vậy để xác nhận cụ thể đường lối của chủ nghĩa lãng mạn để không còn lý tài
hay viện dẫn theo tư duy cục bộ hay mang nặng chất quá khích của ‘kẻ sĩ’ mỗi
khi chưa hả dạ để phải buộc lòng phẩn nộ mà gây thương tổn cho trào lưu lãng mạn
đang ngự trị tâm hồn. Một tâm hồn thoát tục là một tinh thần thanh cao diệu vợi
đúng ý của tiên sinh Nguyễn Du: ‘cho thanh cao mới được phần thanh cao’ cho lãng
mạn đi vào với thế giới lãng mạn; đấy là con đường đi tới giải phóng tâm hồn, bởi;
lãng mạn là cuộc cách mạng vĩ đại của tâm thức đưa tới sáng tạo nghệ thuật. Ông
trời cho nhân loại một đặc thù hiếm có nhưng tại con người không chịu khai triển,
có khai quật nhưng không gặp kim cương, đá qúi mà gặp phải cặn bã; có vị đào hơn
nửa thế kỷ mà vẫn là cóc chưa hóa bướm để thành thơ. Thứ nghệ thuật như vậy không
ai gọi là thi ca tư tưởng lãng mạn. Có là có cho vui với đời thôi.
Nghệ thuật là một
tuyển chọn có từ sáng tạo của hiện thực phù hợp đến tính chất thuộc siêu hình của
người nghệ sĩ cho một phán quyết giá trị của nó. Người nghệ sĩ từ sáng tạo đó là
những gì họ mong muốn hiện thực hóa cuộc đời để trở nên cảm thức của cuộc đời
/sense of life, một cuộc đời không còn mơ mộng mà là lãng mạn hóa cuộc đời đang
sống; cái sự đó gọi là giấc mơ hiện thực, nhận định như thế phản đề tư duy cỏa
C. Jung và Freud, bởi họ suy luận trên khoa phân tâm(psychoanalysis) hoặc dưới
cái nhìn sinh lý cho một thứ lãng mạn tương lai của ảo giác (the future of an
illusion). Thành ra với tinh thần của người nghệ sĩ là giới thiệu vào đó một viễn
cảnh chủ lực của con người và của hiện hữu tồn lưu chớ không nhìn vào thứ trừu
tượng bi quan của tồn lui, từ chỗ đó
sinh ra tồn loạt mà ảnh hường thanh
danh (như cố tạo cho mình một thanh danh. Cái dạng ‘thanh danh’ là tham vọng trở nên vô tưởng) nhớ cho chỗ này vô tưởng
ở đây khác cái ‘utopia’ của K. Marx. Lãng mạn là hình thành một cái nhìn tự nhiên
của con người, bởi vì; kết cục và đánh giá của con người nằm trong quan tâm hay
chiếu cố của từng đặc tính của nó là điều tất yếu và hành động tùy vào câu trả
lời quyết định đúng hay sai. Cả quyết vào một dữ kiện như thế là lời lẽ phản đối,
chống chế vô căn cứ mất lập trường của con người khách quan trước một nhận định
mà đây là vấn đề đưa tới tha hóa của nhận định phê bình văn học nghệ thuật. Đứng
trên lãnh vực của văn chương thì đây là một kết quả hợp lý, lô-gíc (logical) của
một căn bản tiền đề (chừng như trợ vào ý thức hay tiềm thức) để lý luận. Ở đây
chúng ta đặc vấn đề trường phái lãng mạn là định vị vào thể thức là nguyên tắc
cơ bản của một tác phẩm thuộc văn chương (a literary work).
Giải cái sự này
có tính chất siêu hình nhưng thực tế cho môi trường lãng mạn, bởi; bên trong lãng
mạn nó chứa những sắc tố khác nhau, chớ không ào ra mà xác định vội vã cái đó là
lãng mạn, la lên như thế là chưa nhận thức hình hài của lãng mạn chứa những gì
trong đó. Có hai (2) sự cớ nêu ra:
1-
Nếu con người có ý chí chiếm cứ;
thì rồi cái sự cớ đó có tính quyết định như khiá cạnh cuộc đời cho một chọn lựa
có giá trị. Cho một tọa độ hướng tới với một mục đích gặt hái được. Bởi; thể thức
văn chương phơi mở cái sự cần thiết phơi mở của hành động như thể là đánh dấu vào cho một mục đích cấu thành
lãng mạn, một cấu thành hợp lý và được thừa nhận vào vai trò lãng mạn hay hậu lãng
mạn của sự thể là những gì đưa tới cả quyết của những gì đạt tới tuyệt đỉnh.
2-
Nếu con người không có ý hay ám
ảnh thì rồi cuộc đời của họ là tư cách đưa tới bởi cái lực ngoài sức kiểm soát
bằng mọi trở ngại xung quanh với những gì thúc đẩy để rồi cuối cùng buông tay và
sẽ không có một liên quan nào trong hành động. Bởi; thể thức văn chương phơi mở
cái sự cần thiết của những gì viễn ảnh tương lai mà ở đây rơi vào cái không còn đánh dấu vào/plotlessness. Không
còn chi cho mục đích để tiến trình mà sự thể như là không còn tiếp tục hợp lý,
không còn gì để cả quyết và không còn gì để đi tới tuyệt đỉnh.
Vị chi đặc tính
của con người và cách hành xử của cuộc đời là phát sinh ra cái vô danh không ai
biết (unknown) hoặc có thể không ai biết (unknowable) ép lòng đưa tới, rồi thì;
đi vào với văn chương. Lý ra; như thể đặc nặng vấn đề biết và không biết .Bởi;
trong đó mang hai tính chất đặc thù của sáng tạo nhất là thuộc văn học nghệ thuật;
biết: là tác giả đang nói về mình trong một tâm thức ao ước được mọi người biết
tới; nói trắng ra đó là háo danh. Không ai biết tới: là tác giả nghĩ sẽ có thể
không ai biết tới cái việc mình làm, nhưng; biết tới khi sự kiện đã thành hình.
Cả hai có tính chất đặc thù, bước đầu là sáng tác như vai trò theo dõi những gì
sáng tạo trong nghệ thuật: văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa và những bộ môn
khác; mà trong đó nó phát tiết cái chất lãng mạn là nhân tố để cấu thành những
gì có lãng mạn và những gì không có lãng mạn; nó kết tinh trong một tiềm thức
(vốn ở trình độ một phần và khí tiết thiên tư dung thông vào nhau) để phát sinh
tư duy sáng chế mà thành hình lãng mạn đúng nghĩa.
Từ chỗ đó nó chối
từ hiện hữu của tất cả những gì tác động vào động cơ thúc đẩy chính yếu trong tâm
lý con người. Vì sao? -mất bản lĩnh tự quyết, không có ý niệm để sáng tạo, không
còn theo dõi những cuộc gặp gỡ giữa người với người, không còn sinh động giữa
chủ thể và tha thể mà tàng ẩn trong một hy vọng dán cứng dưới dạng thức không
hay biết mà để cho định mệnh đẩy đưa và có thể khám phá ra nó. Cái sự cố đó là
bi quan tư tưởng; lãng mạn không đến giữa lúc đó. Như đã nói lãng mạn là thoát
tục để phóng mình vào cõi vô biên không hệ lụy hay dựa vào. Chớ đừng dựng cái
huyền thoại để lãng mạn hóa vấn đề như ngày nay chúng ta thường bắt gặp ở một số
nhà thơ, nhà văn. Họ dùng phương tiện để đạt tới cứu cánh, dù là trực tiêp hay
gián tiếp trong cái sự mong đợi hơn là theo dõi sự kiện đến như thế nào. Những
thi văn nhân này luôn nghĩ tới cá thể hơn là chức năng. Phỉnh phờ qua một tiêu đề
nghe như trừu tượng lãng mạn, nghe như triết lý nhân sinh nhưng đào sâu từng
‘con chữ’, mạch văn không nói toát như chủ đề đã nêu; toàn thân là cái danh đã
cầu chứng để được tuyên ngôn, chớ chức sắc không để lại một dấu hiệu gì là văn
học nghệ thuật cả; mà đó chỉ là đôi guốc sơn nhiều màu che cái thân gỗ tạp bên
trong.
Mà phải đặc vấn đề
cụ thể như cơ bản tiền đề của Chủ nghĩa Lãng mạn (Romanticism) và Chủ nghĩa Hiện
thực Tự nhiên (Naturalism) là quan hệ tất cả những trạng huống khác nhau của những
gì tác phẩm văn chương, đúng sự chọn lựa cho chủ đề và phẩm chất của từng kiểu
cách, nhưng; cái sự đó nó là phép tự nhiên của câu chuyện -qui vào của cốt truyện
hay không cốt truyện /the attribute of plot or plotless- điều này được giới thiệu
gần như quan trọng giữa khác biệt của những gì có và không có và đáp ứng vào như
một phân định chính yếu cho đặc thù của từng loại; loại nào lãng mạn và loại nào
không lãng mạn.
Thí dụ: thơ thuộc
trường phái siêu thực hay trường phái lãng mạn; cái đó là định vị cụ thể mà
trong đó có chất siêu thực lãng mạn còn đem trường phái ‘alien-poetry’ cho là lãng
mạn hay siêu thực thì hoàn toàn nghịch lý, bởi; nó thuộc dạng thi ca hùm-bà-lằn
thì không thể xếp vào thì ca đương đại, thi ca hiện đại hoặc gần đây gọi là thời
kỳ 40 hay 50 năm chẳng hạn.Việc đánh giá hay sắp xếp phải đúng trường phái còn
cho vô một rổ cá mè cá mú như nhau là chưa phân biệt được đường lối chủ nghĩa văn
chương và thi ca. Hồ lốn, thập cẩm, mì xào dòn!Vô hình chung đưa những nhà thơ,
nhà văn vào con đường thoái trào tội cho họ. Người làm văn học nghệ thuật là
kim chỉ nam; compass dẫn đường chớ đừng khơi khơi.
Nhớ cho điểm này:
đây không phải nói người viết phải xác thực và ứng dụng vào; tất cả là hệ quả của
căn bản đưa ra là cơ bản tiền đề bởi ý thức tiến trình của tư duy –basic premise
by a conscious prosess of thought. Nói cho ngay nghệ thuật tạo ra của một hội
nhập dưới dạng tiềm thức nơi con người –Art is the product of man’s
subconscious intrgration; cái đó nó tùy thuộc vào cảm thức của cuộc đời đang sống,
nó trải rộng ra hơn những gì quả quyết có từ ý thức thuộc triết học. Thí dụ khác:
đang lơ lững trên dòng Hương, nửa đêm nghe mùi dạ lý hương thoảng qua. Lạ thiệt!
Không lạ; đó là sự trở về của quá khứ, của đêm trăng dưới giàn hoa thiên lý với
người yêu. Sinh tình làm thơ; thơ lai láng như trăng, nước hồ thu. Câu thơ đi vào
lãng mạn tự nhiên của trường phái (romanticism và naturalism) hòa nhập vào nhau
mà thành thơ siêu thực lãng mạn. Cảm nhận của cuộc đởi /sense of life là đang sống
giữa hiện thực (reality) và tiềm thức (subconscious); là trạng huống hòa nhập vào
tâm thức để thi vị hóa trong tính cách lãng mạn hóa của bộ môn nghệ thuật. Ngay
cả việc chọn lựa của cơ bản chủ đề cũng có thể là lãng mạn ngẫu nhiên; kể cả
thi nhân hay người khác, hiếm khi bắt gặp sự chuyển nhượng từ cảm thức của cuộc
đời trong giới hạn ý thức, và; từ đó cảm thức cuộc đời của người nghệ sĩ có lẽ
coi như đầy đủ của nghịch lý mà trở nên trong một chuyển động biểu kiến
(apparent movement) rõ ràng đã hình thành trong tác phẩm; rẽ ra hai con đường
giữa Lãng mạn chủ nghĩa và Tự nhiên chủ nghĩa; có nghĩa rằng điều đó không phải
luôn luôn duy trì một cách nhất quán trong mọi khía cạnh cho mỗi tác phẩm của
nghệ thuật. Dẫn chứng để nhận định nghịch lý về năng lực của tiêu đề thuộc siêu
hình trong lĩnh vực của nghệ thuật (the realm of art). Vậy mà; rất hiếm khi cho
Chủ nghĩa lãng mạn là không hiện hành, hiện hữu tồn lưu trong văn chương ngày
nay. Tạisao? -tại nó không phải lạ lùng hay kinh dị khi mà người ta để ý vào sự
khống chế của những gì thuộc triết học; một sự chìm đắm như kềm chế vào giáo điều
của chủ nghĩa phi lý và thuyết định mệnh. Lãng mạn là tiền đề trong hầu hết nghệ
thuật. Nó là một đặc chất tượng trưng được qui vào cốt tủy của văn chương, một
tái tạo đồng nghĩa của lý do gây ra từ tiềm thức trong tất cả hình ảnh thuộc
nghệ thuật. Sự bung phá của chủ nghĩa Lãng mạn là nương vào trong thẩm mỹ; tợ
như cá nhân chủ nghĩa, cá nhân trong nguyên tắc đạo đức luân lý, tợ như tư bản
chủ nghĩa trong chính trị vậy.
Chủ nghĩa Lãng mạn
thành hình từ thế kỷ thứ mười chín (19); trong tư thế trừu tượng siêu hình nặng
về tiềm thức; kết quả ảnh hưởng vào triết học của chủ nghĩa Aristotle
(Aristolianism) tựu chung giải phóng con người ra khỏi những ràng buộc và nêu
giá trị tiềm năng trong một thứ triết lý bí truyền của Plato; từ những cấu tạo
hỗn hợp như khuấy động tinh thần người nghệ sĩ; đi tới vượt thoát bằng trí năng
ảo hóa vừa siêu hình, vừa trừu tượng cả hai ẩn chứa trong một phạm trù của lãng
mạn văn chương và nghệ thuật. Ngày nay trạng huống đó dưới cái nhìn tợ như nhau
đồng ủng hộ những gì phân tích thuộc khoa triết học, bởi; từ những con người hiện
sinh, nhưng; không phải là yếu tố của cán cân đè nặng vào đó và với những gì
thay thế vào chủ nghĩa Lãng mạn dưới dạng thức chủ nghĩa tự nhiên được đề cập đến.
Tóm lại; những gì
thuộc triết học là: định nghĩa cái lý tự nhiên của nó để thành hình. Chủ nghĩa
Lãng mạn là: minh định một hiện hữu thuộc tâm hồn, phát tiết từ trí năng của hình
ảnh, sắc thái để thành hình. Tuyên ngôn là: xác quyết, minh định cụ thể chức năng,
nhiệm vụ của cái gì là và cái gì không là. Tuyên ngôn là hàng rào chận đứng sự
xâm nhập của ta-bà-thế-giới của hùn-bà-lằn chữ nghĩa xuyên tạc những gì của tiền
đề đưa ra; phản ảnh trong một nội thức phát tiết để thành hình cho một thứ chủ
nghĩa. Là một sự chuyển hóa từ tâm thức của cuộc đời, một chiến dịch tuyên dương,
tán tụng cho một hiện hữu tồn lưu của con người. Sự đó là một kinh nghiệm giản đơn
như một ao ước làm cho cuộc đời thi vị hơn ./.
VÕ CÔNG LIÊM (ca.ab.yyc. cuối 9/2017)
TRANH VẼ: ‘Sen / Lotus’. Khổ 12” X 16” Trên giấy báo.
Acrylic+ Mixed+Ink. vcl# 1072017
SEN / LOTUS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét