Thứ Hai, 18 tháng 12, 2017

  • NGUYỄN XUÂN QUANG
  • tiếp theo

  • -X = Kh.
    Tại sao tác giả Bùi Hiền lại cho X = Kh nhỉ? Eureka! Tôi đã tìm ra! Ông đã ‘cuỗm’ mẫu tự X = Kh này của chữ viết Cyrillic, ngày nay dùng ở Nga và Đông Âu.
    clip_image006
    Chữ Cyrillic phát triển ra từ chữ Hy Lạp vào khoảng năm 900 (Sau Dương Lịch) bởi St Cyril và St Methodius. Chữ X của Hy Lạp phát âm là Chi nên các vị Thánh này biến Chi thành Kh (Ch = Kh = X).
    Tác giả Bùi Hiền lại muốn Nga hóa chữ Quốc ngữ, Nga hóa người Việt nói ngọng theo giọng Nga?
    Ông quả thật là giỏi cóp nhặt của Tầu, của Nga để làm ra chữ Quốc ngữ mới.
    -W = Th.
    Sự thay thế này ai cũng cho là quái lạ. Nhưng với tôi chẳng lạ chút nào! Đây là cách phát âm w = th thấy rõ trong tiếng Gwóngdōngwá = 廣東話 = Quảng Đông thoại (Wikipedia) ví dụ như tìnwá = điện thoại.
    Rõ như ban ngày wá = thoại tức ta có w = th.
    Tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây nguyên trước kia là đất của Bách Việt. Ngày nay còn gọi hai tỉnh này là Lưỡng Việt.
    Tác giả Bùi Hiền dùng chuyển âm này làm phương tiện hữu hiệu để Hán hóa chữ Việt, người Việt qua Bách Việt?
    Z = d, gi, r.

    -Z = d.
    Đã nói ở trên.
    -Z= gi.
    Alexandre de Rhodes dùng Gi thay cho J trong chữ Việt cổ ví dụ như  = già; jó = gió; jờ = giờ. . . (Từ Điển Việt Bồ La, Alexandre de Rhodes). Nếu tác giả Bùi Hiền dùng Z = gi mà còn dùng J nữa sẽ bị các âm chồng chéo lên nhau.
    Chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại không có âm Gi. Việt ngữ có biến âm với gi = d tùy theo vùng miền như dàn = giàn; dăng = giăng; duộc = giuộc (thuộc, cái múc dầu)… Tác giả Bùi Hiền lấy âm Hà Nội làm chuẩn chắc chọn Gi = D nên mới có Gi = D = Z.
    Chữ Hán phiên âm bằng Latin theo âm Hán hiện đại không có âm Gi nên ông lấy Z của Hán ngữ thay cho Gi Việt ngữ.
    -Z = r.
    Việt ngữ cũng có biến âm d = r như dắn = rắn; dàn = ràn; dựt = rựt… Tác giả Bùi Hiền lấy âm Hà Nội làm chuẩn chắc chọn D = r nên mới có Z= D = r. Người Trung Quốc thường phát âm r là nh như /rén/ là Hán Việt nhân (người), /rì/ là Hán Việt nhật (ngày), /ròu/ là Hán Việt nhục (thịt)… nhưng họa hoằn cũng phát âm r là D như 容 /róng/ là Hán Việt dong, dung (bao dong, bao dung).
    Như thế ta có Z = D = r.
    Như đã nói ở trên dùng Z là theo ghi âm chữ Hán.
    Cũng nên nói thêm là ở đây Z= r (chữ r thường không viết hoa) như thế phải phân biệt Z (= r) với R viết hoa. Thật là phiền phức.
    -‘Bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z’.
    Tác giả Bùi Hiền: “bổ sung thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z” mới nhìn qua chúng ta và nhất là người Tây phương, lầm tưởng là Tây phương hóa chữ Việt, nhưng thật ra là Hán hóa. Những chữ này đều dùng trong pinyin của Trung Quốc. Ông cải tiến chữ Quốc ngữ theo cách pinyin Trung Quốc.
    NHỮNG TAI HỌA CỦA CẢI CÁCH CHỮ QUỐC NGỮ CỦA TÁC GIẢ BÙI HIỀN.
    -Hán hóa chữ Việt.
    Sự cải tiến chữ Việt của ông Bùi Hiền biến chữ Quốc ngữ thành một con quái vật, không những chỉ có đầu Ngô mình Sở mà có đầu Hán, thân người cũng Hán, đít là Nga, tay là Quảng Đông, chân là Tây phương và đuôi là Việt Nam. Rõ ràng nó  mang nặng tính Hán hóa không chối cãi vào đâu được.
    Căn bản cách cải tiến chữ Quốc ngữ của tác giả Bùi Hiền là dựa vào Hán hóa chữ Việt, không phù hợp với các qui luật ngôn ngữ Việt.
    Những âm đặc biệt của chữ Quốc ngữ mà chữ Hán không có như Tr, Gi… giúp chữ Việt khác chữ Hán, ông bỏ đi cho chữ Việt giống chữ Hán, tiếng Hán.
    -Biến người Việt thành một dân tộc nói đớt, nói lơ lớ, nói trọ trẹ, nói ngọng như người Trung Quốc nói tiếng Việt chuẩn ngày nay.
    -Cho rằng giúp người ngoại quốc dễ học. Có lẽ chỉ giúp người Trung Quốc hay Nga dễ học tiếng Việt thôi.
    -Làm mất các nét đặc thù của chữ Việt, mất dân tộc tính Việt, mất căn cước, bản sắc Việt (như bỏ đ, ph, tr… đi), làm mất hồn Việt, tâm Việt, văn hóa Việt.
    -Tách chữ Quốc ngữ ra khỏi dòng chữ Latin thế giới, làm trở ngại cho sự nghiên cứu tiếng Việt của các nhà ngôn ngữ học Việt Nam và ngoại quốc qua cách dựa vào sự đối chiếu chữ Quốc ngữ với chữ viết, ngôn ngữ loài người, nhất là với Ngôn Ngữ Ấn Âu. Ví dụ: there, đấy, đó, kia, tê, đằng ấy, đằng đó. Ta có there biến âm với , phương ngữ Huế (ngoài tê = over there). Nếu viết theo tác giả Bùi Hiền thì There là Were, không có cách nào thấy được there có mặt chữ giống như tê được. Anh ngữ throne, Pháp ngữ trône, Nga ngữ tron, ngai, ngôi. Ta thấy tron- = Việt ngữ trôn (đít), chỗ để ngồi, bán trôn nuôi miệng. Rõ ràng throne, trône, tron biến âm với Việt ngữ trôn. Nếu viết theo tác giả Bùi Hiền là Won thì không có cách nào thấy được throne, trône, tron giống như trôn được. Anh ngữ thrust, đẩy, xô, thúc, thọc vào, đâm bằng vật nhọn, động tác làm tình của phái nam. Th(r)ust biến âm với Việt ngữ thục, thúc, thọc. Theo th = đ, thrust = đục, đụ (đụ là do đục cắt bỏ c, Tiếng Việt Huyền Diệu). Nếu viết theo tác giả Bùi Hiền là Wust thì không có cách nào thấy được thrust có mặt chữ giống như thục, thúc, thọc được… Tôi đã tìm được sự Liên Hệ Giữa Việt Ngữ và Ấn-Âu Ngữ qua chữ viết Quốc ngữ hiện nay một cách dễ dàng (xem Liên Hệ Việt Ngữ và Ấn Âu Ngữ trên blog của tôi).
    -Chữ cải tiến của tác giả Bùi Hiền hiển nhiên làm cho người ngoại quốc có chữ viết của họ thuộc dòng Latin khó học chữ Việt vì không còn tương đồng cách viết với chữ nước họ.
    -Chữ viết gắn liền với tiếng nói, ngôn ngữ liên quan với văn hóa. Phá hỏng chữ Quốc ngữ, Hán hóa, ngoại bang hóa làm mất gia tài văn hóa, nguồn cội Việt, hồn Việt. Mất chữ Việt làm mất tiếng Việt không khó. Mất tiếng Việt là mất nước. ‘Tiếng Việt còn nước Việt còn’ (Phạm Quỳnh). Các lớp trẻ khởi đầu học chữ cải cách của tác giả Bùi Hiền phải học lại chữ hiện nay mới đọc được sách ‘cổ” tạo ra những thế hệ mất gốc Việt và dễ bị đồng hóa.
    -Gây xáo trộn tâm lý, đời sống tinh thần và xã hội của thế hệ đang dùng hệ thống chữ ABC hiện nay. Có thể đưa tới hỗn loạn.
    -Chữ quốc ngữ hiện nay phản ánh tiếng nói ba miền Bắc, Trung, Nam. Ông Bùi Hiền qui về tiếng nói Hà Nội dẹp bỏ đi hết các chữ diễn tả các âm của vùng khác làm phân hóa dân tộc, nghèo nàn tiếng nói đi. Tiếng Việt Nam chỉ còn là tiếng ‘nước Hà Nội’, không còn là ‘Quốc ngữ’, chữ của quốc gia Việt Nam gồm cả ba miền.
    …..
    NHỮNG LỢI ÍCH CỦA CẢI TIẾN CHỮ QUỐC NGỮ CỦA TÁC GIẢ BÙI HIỀN.
    Như đã nói ở trên tác giả Bùi Hiền cho rằng cách cải tiến chữ Quốc ngữ của ông nhằm mục đích ‘giản tiện, dễ nhớ, dễ sử dụng, tiết kiệm thời gian, vật tư…giúp giảm tiền bạc xuống 8% trong một trang giấy’.
    Những điểm phân tích đã nói ở trên cho thấy những điều ông nêu ra không đạt được mà ngược lại còn làm cho chữ Việt mới của ông bất tiện, rườm ra, phức tạp, khó học, khó nhớ, khó sử dụng hơn. Nhưng quan trọng nhất là cái đại họa bị Hán hóa, mất hồn Việt, sắc thái Việt, văn hóa. Việt Nam bị Trung Quốc đồng hóa…
    Còn tiết kiệm thời giờ và tiền bạc 8% trong một trang giấy cũng chưa chắc đã có được hay có đáng để đổi lấy những đại họa nghiêm trọng mà nó gây ra không?
    Nếu muốn tiết kiệm thời giờ và tiền bạc ta có thể giản dị hóa chữ Quốc ngữ bằng nhiều cách khác. Tôi xin đề nghị một hai cách.
    CẢI TIẾN CHỮ VIỆT CỦA TÔI.
    Chỉ nhằm mục đích làm đơn giản, ngắn gọn, để tiết kiệm thời giờ và tiền bạc mà tránh được các khiếm khuyết và tai họa nêu trên tôi xin đưa ra một hai cách cải tiến chữ Quốc ngữ dựa trên các nguyên tắc căn bản của ngôn ngữ học:
    1. Vẫn giữ y nguyên hệ thống mẫu tự ABC hiện nay theo dòng chính Latin nói riêng, của ngôn ngữ loài người nói chung, không thay đổi gì về các qui tắc căn bản của ngôn ngữ học.
    Chỉ thay đổi hình dạng mẫu tự một chút mà không làm mất mặt chữ hoặc chỉ thêm các dấu chỉ định biến âm nên vẫn còn nhận diện ngay được mẫu tự đó trong nháy mắt.
    2. Vẫn duy trì đặc tính, căn cước Việt của chữ Quốc ngữ Việt Nam. Không Hán hóa chữ Việt bằng cách dùng cách biến âm theo pinyin của Trung Quốc qua các mẫu tự chỉ có trong mẫu tự Tây phương như F, J, W, Z.
    3. Để tránh cắt bỏ đi mất quá khứ Việt, văn hóa, truyền thống cổ Việt đưa đến diệt vong.
    4. Chỉ cải tiến mẫu tự kép.
    Tôi vẫn giữ y nguyên hệ thống chữ Quốc ngữ hiện nay, chỉ cải tiến các chữ cái kép hay ghép nhằm mục đích đơn giản xuống còn một chữ để giảm thời gian và giấy mực.
    A. Cách Thứ Nhất.
    Vẫn giữ y nguyên hệ thống ABC hiện hành của chữ Quốc Ngữ chỉ thay đổi biến các chữ kép (phải đánh chữ hai lần) hay ghép (phải đánh chữ ba lần) thành một chữ, chỉ cần đánh chữ một lần. Ví dụ Ch, Tr, Đ, Gh, Gi, Kh, Ng, Ngh, Nh, Ph, Qu, Th thảo chương vi tính thành một đơn vị chỉ cần đánh chữ một lần. Gõ một lần nhẩy ra Ch chẳng hạn.
    Cách này đánh chữ kép, ghép chỉ một lần. Tiết kiệm thời gian mà không gây xáo trộn gì.
    Cách này có khuyết điểm là viết tay vẫn như cũ.
    B. Cách Thứ Hai.
    Cách này thay đổi chữ kép hay ghép thành một chữ cái mới mà vẫn giữ nguyên hình chữ cũ. Cách này có thể viết tay và đánh chữ.
    -C vẫn giữ nguyên.
    -Ch.
    Có ba cách:
    .Hoặc biến dạng chữ C đi như đầu trên chữ C cong quặp vào như móc câu liêm clip_image008 chẳng hạn. C móc câu liêm = Ch: clip_image009. Phát âm clip_image008[1] là /chờ/.
    Các này có thể viết tay và muốn đánh chữ thì thảo chương (progam) trong vi tính và cũng chỉ đánh một lần. Tiết kiệm thời gian và giấy mực.
    .Hoặc thêm một dấu phẩy trên (apostrophe) như C’, ta có C’ = Ch.
    Cách này viết tay vẫn phải cần hai động tác nhưng dấu phẩy ít tốn mực hơn chữ h. Còn program được thành một chữ C’ hay Ć (đã có sẵn như thấy trong font Verdana) thì đánh chữ chỉ còn một lần.
    .Hoặc dùng mẫu tự Ĉ, ĉ (có sẵn trong font Verdana) = Ch.
    Cách này dễ dàng cho việc thảo chương.
    Các cách này dễ phân biệt được ngay C và Ć hay Ĉ (Ch) mà vẫn duy trì được cả âm Ch của các vùng địa phương.
    -D và Đ
    Vẫn giữ như cũ. Phân biệt được hai âm d và đ ngay tức khắc và đ là một nét đặc thù trong chữ Việt mà chỉ thấy trong chữ viết của Bồ Đào Nha mới có chữ Đ.
    -G, Gi, Gh.
    Tương tự:
    -G = Gi.
    .Biến đổi hình dạng G một chút thay cho Gi. Như G đầu có móc câu liêm clip_image011chẳng hạn.
    .Thay G có dấu chấm i ở trên Ġ, ġ (có trong font Verdana) cho gi.
    -G = Gh.
    Gh thay đổi hình dạng của G hay Ĝ, ĝ thay cho Gh.
    -K.
    Giữ nguyên như cũ vì dùng trước i, e. Đây cũng là một nét đặc thù của chữ Việt.
    -Kh.
    Biến đổi hình dạng K một chút hay K’thay cho Kh. Thảo chương K’ thành một chữ.
    -L.
    Giữ nguyên như cũ.
    -M.
    Giữ nguyên như cũ.
    -N.
    Giữ nguyên như cũ.
    -Ng.
    Nếu muốn thay Ng hằng chữ N có chấm hay phẩy ở dưới Ņ ņ (vì chữ g có phần thòng xuống dưới nên chọn dấu phẩy để ở dưới).
    -Nh.
    .Biến đổi hình dạng N một chút hay Ń, ń thay cho Nh (vì chữ h có phần cao lên nên chọn dấu phẩy để ở trên).
    Cách này viết tay và thảo chương được.
    .Lấy Ñ, ñ trong mẫu tự Tây Ban Nha.
    Ngoài ra, như đã nói ở trên có thể lấy N có dấu ngã Ñ, ñ trong mẫu tự Tây Ban Nha thay cho Nh. Nếu lấy mẫu tự này ta cắt giảm bớt đi được một chữ h. Mẫu tự này đã có sẵn coi như một chữ đơn nên thảo chương trong vi tính dễ còn N’ phải đánh hai lần ngoại trừ thảo chương thành một chữ.
    -Q, Qu.
    Qu = Q’.
    R.
    Vẫn giữ nguyên.
    -S.
    Vẫn giữ nguyên.
    -X.
    Vẫn giữ nguyên.
    .T
    Vẫn giữ nguyên.
    .Th.
    Có thể thay thế bằng T’, ť (font có sẵn như trong Verdana).
    .Tr.
    Thêm hai dấu phẩy như dấu ngoặc kép vào T, ta có T” = Tr.
    -V.
    Vẫn giữ nguyên.
    -X.
    Vẫn giữ nguyên.
    -Y.
    Vẫn giữ nguyên.
    Tóm lại các cách cải tiến này nếu được thảo chương đánh chữ chỉ một lần. Tiết kiệm thời gian và giấy mực mà không gây xáo trộn gì.
    .Ghi Chú
    Nếu muốn tránh mang tiếng ngoại quốc hóa và sợ người ngoại quốc nhầm lẫn với các chữ cái của nước họ vì dùng các các mẫu tự sẵn có như Ĉ, ĉ, Ġ, ġ, Ĝ, ĝ, ť thì các phần dấu thêm vào C để thành Ch, vào G để thành Gi, Gh, vào N để thành Ng, Nh, Ngh, vào Q thành Qu, vào T để thành Th, Tr có thể dùng bất cứ dấu nào thấy thích hợp và dễ nhớ cũng được nhưng phải thảo chương thành một chữ đơn có dấu.
    Tôi đề nghị các dạng trên chỉ để làm ví dụ.
    KẾT LUẬN
    Tóm lại chữ Quốc ngữ hiện nay đã ghi được hầu hết ngữ âm tiếng Việt, đã đáp ứng được nhu cầu tiếng nói Việt. Chữ Quốc ngữ rất chính xác, dễ học, dễ nhớ, dễ viết, dễ dùng. Chữ Quốc ngữ mang sắc thái Việt, tâm hồn Việt…
    Chữ quốc ngữ vì mang tính đặc thù, sắc thái Việt nên ‘không giống ai’, trông có vẻ ‘loạn chữ’ (danh từ của tác giả Bùi Hiền) hay còn một vài không hợp lý nhỏ. Nếu muốn gọn lại, nhất là chỉ nhằm mục đích làm gọn, tiết kiệm thời giờ và tiền bạc, chúng ta chỉ cần giữ nguyên bộ chữ Quốc ngữ hiện nay rồi thảo chương các chữ kép, chữ ghép lại thành một đơn vị gõ chữ hay cắt tỉa bớt, xén bớt chữ kép, chữ ghép lại thành một chữ đơn có dấu như cách cải tiến của tôi mà không gây xáo trộn gì.
    Chữ Quốc ngữ cải tiến của tác giả Bùi Hiền mang nặng tính Hán hóa, Nga hóa chữ Việt. Nếu thành hình là một đại họa cho dân tộc Việt Nam.
    Có một điều rất lạ là tại phiên họp Chính phủ thường kỳ, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam khẳng định, Chính phủ và bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) chưa có chủ trương cải tiến chữ Quốc ngữ. Tác giả Bùi Hiền nói là“Tôi mới nghiên cứu xong một nửa… (còn nửa phần nguyên âm nữa -ghi chú của tác giả-) Nghiên cứu này của tôi hoàn toàn mới chỉ nằm ở bên lề một hội thảo khoa học, tôi chưa trình bộ GD&ĐT… (www.24h.com.vn).
    Vậy mà sách giáo khoa dành cho lớp 1 đầu tiên đã phát hành dưới danh hiệu Bộ Záo Zục và Đào Tạo.
    clip_image013Tiếq Việt tập 1 của Bộ Záo Zụk và Đào Tạo.
    (Hình trên mạng không rõ nguồn).
    Lạ nhỉ! Chỉ có ở Việt Nam ta mới có chuyện lạ như thế này!
    Có vẻ như sách phải phát hành gấp rút như để đạt một mốc thời gian đã ra lệnh phải làm, đến nỗi sai sót còn thấy ngay trên bìa sách là chữ Đ vẫn còn (trong khi tác giả Bùi Hiền đã đề xuất bỏ chữ Đ).
    ……
    Xin hồn thiêng sông núi Việt, tổ tiên Rồng Tiên phù trợ cho chữ Quốc ngữ Việt Nam, cho Tiếng Việt, cho dân tộc Việt, cho đất nước Việt Nam.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét