Thứ Hai, 19 tháng 2, 2018

Gửi bác Chu,
Bác thích thì tôi xin làm viên thư lại cho bác thôi.

1/THƠ XUÂN ĐOÀN VĂN CỪ

Đoàn Văn Cừ có khoảng trên sau chục bài thơ nhưng tôi chỉ thích nhất chừng 1/10 trong số các bài thơ đó của ông. Riêng về thơ Xuân, tôi thấy có mấy bài này:

1, Chợ Tết

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán.
Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo,
Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra.
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha.
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,
Con gà trống mào thâm như cục tiết,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.
Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm,
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh,
Trên con đường đi các làng hẻo lánh,
Những người quê lũ lượt trở ra về.
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
1939

2, Năm Mới

Cây đèn bóng dựng dưới trời đêm
Chiếc vỏ chai cưa giả chụp đèn
Ngọn lửa trong mưa vờn lấp loáng
Gió lùa chùm khánh động “leng keng”
Vài lá đa xanh giắt mái nhà
Để cầu phúc lộc đến đề đa
Ngoài sân ấn quyết trừ ma quỷ
Vôi vẽ hình tên nỏ trắng loà
Bên vách hòm gian đặt cúng thờ
Bát hương nõn chuối cắm lơ thơ
Vỉ buồm gạo nếp “tay giềng” họ
Thịt lợn đầy mâm thái miếng to
Cây nêu – dấu Phật đuổi hung thần
Cổ mũ trên bàn cúng Táo quân
Mùng bốn Tết xong làm lễ tiễn
Giấy tiền ông vải đốt đầy sân
1941

3, Tết

Sáng hôm mồng một tết,
Đèn nến thắp xong rồi,
Bà tôi ngồi trong ổ,
Mặc áo đỏ cho tôi.
Ông tôi vừa thức dậy,
Nằm ngó cổ trông ra.
Trên ngọn cây đèn bóng,
Trời lất phất mưa sa.
Giờ lâu tràng pháo chuột,
Đì đẹt nổ trên hè,
Con gà mào đỏ chót,
Sợ hãi chạy le te.
Cây nêu trồng ngoài ngõ,
Soi bóng dưới lòng ao.
Chùm khánh sành gặp gió
Kêu lính kính trên cao,
Từ khi ông tôi mất,
Bà tôi đã qua đời,
Tôi mỗi ngày mỗi lớn,
Nên chẳng thấy gì vui.
Tết đến tôi càng khổ,
Tôi nhớ bức tranh gà,
Chiếc phong bao giấy đỏ,
Bánh pháo tép ba xu.
1939

4, Tết Quê Bà

Bà tôi ở một túp nhà tre.
Có một hàng cau chạy trước hè,
Một mảnh vườn bên rào giậu nứa.
Xuân về hoa cải nở vàng hoe.
Gạo nếp ngày xuân gói bánh chưng,
Cả đêm cuối chạp nướng than hồng.
Quần đào, áo đỏ, tranh gà lợn,
Cơm tám, dưa hành, thịt mỡ đông.

5, Chơi Xuân

Ngày xuân trẻ bức tranh gà
Cụ già quần nhiễu đỏ loà sang nhau
Đàn ông khăn nhiễu đội đầu
Đôi giày da láng, khăn trầu đỏ hoe
Đàn bà yếm đậu vàng hoe
Hàm răng đen nhức, váy lê thẹn thùng
Đám “quay đất” họp đang đông
Tiếng cười nắc nẻ vang trong góc lều
Hiu hiu trời tắt nắng chiều
Chõ xôi trong bếp phì phèo lên hơi
Bàn thờ hương cháy toả mùi
Từng tràng pháo chuột nổ dài trong khuya

6, Chợ Làng Vào Xuân

Đầu năm chợ họp giữa đồng khoai
Nô nức về chơi đủ hạng người
Trai tỉnh ô đen, quần lụa đũi
Gái quê khuyên bạc, váy tơ sồi
Bên hàng tranh, pháo người chen chúc
Cạnh chiếu “cò, cua…” khách đứng ngồi
Chợ vãn đường về cô yếm đỏ
Tay bồng quả bưởi chín vàng tươi

7, Đám Hội

Mùa xuân ấy, ông tôi lên tận tỉnh
Đón tôi về xem hội ở làng bên.
Suốt ngày đêm chuông trống đánh vang rền
Người lớn bé, mê man về hát bội.
Những thằng cu tha hồ khoe áo mới
Và tha hồ nô nức kéo đi xem.
Các cụ già uống rượu mãi gần đêm,
Tổ tôm điếm chơi đều không biết chán.
Những con bé áo xanh đòi chị ẵm
Để đi theo đám rước lượt quanh làng.
Các bà đồng khăn đỏ chạy loăng quăng.
Đón các khách thập phương về dự hội,
Một chiếc kiệu đương đi dừng bước lại,
Rồi thình lình quay tít mãi như bay.
Một bà già kính cẩn chắp hai tay,
Đứng vái mãi theo đám người bí mật.
Trên bãi cỏ dưới trời xuân bát ngát,
Một chị đương đu ngửa tít trên không.
Cụ lý già đứng lại ngửng đầu trông,
Mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh.
Mấy cô gái nép gần hai chú lính.
Má đỏ nhừ bẽn lẽn đứng ôm nhau.
Chiếc ô đen lẳng lặng tiến ra cầu
Tìm đến chiếc san màu bay trước gió,
Bác nhà quê kiễng chân nhìn ngấp ngó,
Rồi leo lên cho ai nấy cùng trông
Đoàn trải dài vùn vụt giữa dòng sông
Người lố nhố chèo trên làn nước lạnh.
Bọn đô vật trước đình thi sức mạnh
Mình cởi trần gân cốt nổi như lươn;
Tiếng reo hò khuyến khích dậy từng cơn
Lẫn tiếng trông bên đường khua rộn rã.
Bên mấy chiếc khăn vuông hình mỏ quạ,
Đứng chen vào chiếc mũ trắng nghênh ngang.
Bọn trai quê bá cổ cạnh cô hàng
Vờ mua bán để tìm câu chuyện gẫu.
Một chú xẩm dạo đàn bên chiếc chậu,
Mắt lờ mờ nghe ngóng tiếng gieo tiền.
Thằng bé em đòi mẹ bế lên đền
Xem các cụ trong làng ra cử tế;
Tiếng chiêng trống chen từng hồi lặng lẽ,
Những bóng người trịnh trọng khẽ đi lên;
Những cánh tay áo thụng vái mơ huyền,
Đang diễn lại cả một thời quá khứ
Mà đất nước non sông cùng cây cỏ
Còn thuộc quyền sở hữu của Linh thiêng.
Khi tế xong một cụ đứng trên thềm,
Giơ bánh pháo cho người kia lại đốt.
Bọn trai gái đứng xem đều chạy rạt,
Một thằng cu sợ hãi khóc bi be.
Người đi xem nhiều bọn đã ra về
Trên đường vắng lá đề rơi lác đác,
Ốc xa rúc từng hồi trong xóm mạc,
Trời đỏ hồng sau những trái đồi xanh,
Đàn chim hôm nhớn nhác gọi trên cành
Vệt tháp trắng in dài trên đồng vắng,
Tiếng chuông tối nhạt khoang trong yên lặng.
Lẫn trống chèo văng vẳng phía làng xa.
Của đám dân nô nức dưới trăng tà…
1939

8, Đám Cưới Mùa Xuân

Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng,
Nắng dát vàng trên bãi cỏ non xanh.
Dịp cầu xa lồng bóng nước long lanh,
Đàn cò trắng giăng hàng bay phấp phới.
Trên cành cây, bỗng một con chim gọi
Lũ người đi lí nhí một hàng đen
Trên con đường cát trắng cỏ lam viền
Họ thong thả tiến theo chiều gió thổi,
Dưới bầu trời trong veo không mảy bụi,
Giữa cánh đồng phơn phớt tựa màu nhung.
Một cụ già râu tóc trắng như bông,
Mặc áo đỏ, cầm hương đi trước đám.
Dăm sáu cụ áo mền bông đỏ sẫm,
Quần nâu hồng, chống gậy bước theo sau.
Hàng ô đen thong thả tiến lên sau.
Kế những chiếc mâm đồng che lụa đỏ.
Bọn trai tơ mặt mày coi hớn hở,
Quần lụa chùng, nón dứa áo sa huê.
Một vài bà thanh lịch kiểu nhà quê,
Đầu nón nghệ, tay cầm khăn mặt đỏ.
Bà lão cúi lom khom bên cháu nhỏ,
Túi đựng trầu chăm chăm giữ trong tay.
Thằng bé em mẹ ẵm, má hây hây,
Đầu cạo nhẵn, áo vàng, quần nâu sẫm.
Cô bé để cút chè người xẫm mẫm,
Đi theo bà váy lĩnh, dép quai cong.
Một chị sen đầu đội chiếc khăn hồng,
Đặt trên cái hòm da đen bóng lộng.
Người cô dâu hôm nay coi choáng lộn.
Vành khuyên vàng, áo mớ, nón quai thao.
Các cô bạn bằng tuổi cũng xinh sao,
Hai má thắm, ngây thơ nhìn trời biếc.
Dăm bảy cô phủ mình trong những chiếc
Áo đồng lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh.
Một lúc sau đi tới chỗ vòng quanh,
Nếp chùa trắng in hình trên trời thắm,
Thì cả bọn dần đần cùng khuất lẩn
Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân.
Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng.

9, Đường Về Quê Mẹ

U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.
Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.
Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.
Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.
1942

  
2/  THƠ XUÂN ANH THƠ

Anh Thơ có trên chín chục bài thơ. Riêng về Thơ Xuân có những bài này:
 
1, Chiều Xuân

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

2, Xuân Quê

Lúa mượt đồng xanh nổi trắng cò
Đưa dài sông lụa dệt mưa tơ
Làng xa trong luỹ làng biêng biếc
Nêu lắng xuân về khánh lửng lơ
Trời ửng hoa đào, đất sáng mai,
Vàng trong hoa cải bướm bay dài
Vườn bên dây táo xôn xao nắng
Thấy thoáng bay hồng giải yếm ai.
Pháo rụng còn vương ngô hững hờ,
Bên rào loáng thoáng khói bay mơ
Có người qua xóm nhìn ngon mắt,
Xuân chín trên cành cam lẳng lơ.

3, Đêm Xuân

Trời quang quẻ, đêm nay không mưa nữa
Nước trong ngòi chảy tắm mấy ngôi sao.
Tàu chuối láng che mặt trăng xấu hổ,
Khóm tre già đợi gió đứng bên ao.
Trong các ngõ, người đi ra từng tụm,
Những đàn ông vào điếm họp quân bài;
Các cô gái ra bờ sông hát đúm,
Mấy bà già cõng cháu đến nhau chơi.
Ngoài đồng vắng – trời đêm mà che nón?
Có hai người đi lẻn tới nương dâu.
Và lại có cả một đôi đom đóm
Bay dập dìu như muốn phải lòng nhau.

4, Ngày Xuân

Trời hơi lạnh và nắng vàng hơi hửng
Lúa xanh đồng rợn sóng tận chân mây
Vài con én liệng ngang trời lơ lửng,
Từng lũ cò phấp phới đậu rồi bay.
Dọc đường cỏ ven sông cùng trẩy hội,
Những bà già lần hạt nhẩm cầu kinh,
Lũ con gái rộn ràng cười nói, nói
Khoe hàm răng đen nhánh, mắt đa tình.
Cùng mấy cậu áo là, quần lụa mới
Tập lê giầy như tập nhấc chân đi.
Trong khi gió ngang đường tung phấp phới
Giải yếm đào cùng với giải khăn thi.

5, Đêm Trăng Xuân

Đồng lặng lẽ suơng mù buông bát ngát,
Ao âm thầm mây tối ngập mênh mang.
Gió im vắng, tự từng không man mác
Mây bay trăng nhè nhẹ dệt tơ vàng.
Và nhè nhẹ trong tơ trăng phơ phất,
Khóm tre xanh lướt gió uốn cung đàn.
Làng xóm lặng say đi trong giấc ngát,
Những hương đào, hương lý dậy miên man.
Ngoài sông nước, thuyền im về đỗ ngủ,
Mưa mênh mông, trăng xuống, gió tơi bời.
Bến bỗng nổi một dịp cười như rú,
Sông rùng mình, nước rợn bóng ma bơi.

6, Đêm Rằm Tháng Giêng

Chùa mở hội người làng nô nức tới,
Trong khói trầm trong ánh nến xôn xao.
Các bà lão yếm hồng tươi khoe mới,
Các cô nàng khuyên bạc sáng như sao.
Họ hớn hở người thì quì xuống lễ
Sau lưng sư trước mặt phật từ bi.
Người lẳng lặng cúi đầu ngồi xóc thẻ
Cạnh chuông đồng luôn đổ tiếng bi li…
Trong khi ấy, dưới điện mờ hương khói,
Bác cung văn cao giọng nhịp tơ đàn.
Be bà đồng trùm khăn ngồi đảo vội.
Những con hương xoa xuýt xúm kêu van.
Ngoài sân chùa trăng tươi tung ánh bạc
Lũ trai tơ rộn rịp lượn vào ra.
Thỉnh thoảng họ lại nam vô lên một loạt
Và cười trêu các ả đến dâng hoa.

7, Chợ Ngày Xuân

Mưa vừa tạnh, nắng bừng trên quán mới,
Trên cây đa lấp loáng gió lao xao
Trên những giải lưng điều bay phấp phới,
Các cô nàng lơ lẳng nón quai thao.
Chợ đông quá! Chỗ này vài chiếu bạc,
Những chàng trai ô mới mở dương vây;
Cười nói, nói luôn mồm và chỗ khác
Mấy cụ ngồi nhắm rượu gật gù say.
Nhưng đông nhất quán hàng người đoán thẻ
– Một lão già kính trắng, bịt khăn đen –
Các cô gái chen nhau vào, vui vẻ
Nghe Thánh truyền sắp đắt mối lương duyên.

8, Chiều Ba Mươi Tết

Trời lún phún mưa xuân đường các ngõ
Lầm những bùn và đầy những người đi.
Trong vườn đào đã nhiều bông nở đỏ
Và đã nhiều nêu dựng khánh khua thi.
Và rất nhiều ông già ngồi lau quét
Trước bàn thờ thành kính thắp tuần nhang.
Trong khi ấy tiếng lợn kêu eng éc
Khắp xóm làng lẫn tiếng chửi nhau vang.
Trên sông nước trong khoang thuyền chở vội,
Giữa bọn người về tết chuyện ba hoa.
Một lũ khách lạnh lùng ôm khăn gói,
Mắt mơ màng theo tiếng pháo xa xa.

9, Đêm Ba Mươi Tết

Trời tối quá! Bên ngoài trời tối quá!
Những cây nêu tiếng khánh khẽ khua thầm,
Những cung vôi trong sân như mờ xóa,
Những giấy điều trước cửa dán đen thâm.
Quanh bếp ấm, nồi bánh chưng sùng sục
Thằng cu con rụi mắt cố chờ ăn,
Đĩ nhớn mơ chiếc váy sồi đen nhức,
Bà lão nằm tính tuổi sắp thêm năm.
Bỗng tiếng pháo đẹt đùng xa nổ, báo
Ngoài đình trung làng đã tế giao thừa
Cả nhà vội giật mình không ai bảo
Cùng đứng lên thăm bánh chín hay chưa!

10, Ngày Tết

Trước cổng làng chòm nêu vừa thức gió
Bụi mưa phùn đã đổ xuống sân vôi,
Tràng pháo chuột đua nhau đì đạch nổ
Xác giấy hồng bắn cả cánh hoa rơi.
Trong nhà đỏ bàn thờ nghi ngút khói,
Những đàn bà tíu tít chạy bưng mâm,
Lũ con trẻ vui mừng thay áo mới
Bên ông già hương nến quá chuyên tâm.
Ngoài đường ngõ bùn lầy theo nước chảy
Thằng cu con quần đỏ cưỡi lưng bà.
Các cô gái đội vàng hương ôm váy
Miệng tươi cười mừng tuổi những người qua

3/ THƠ XUÂN BÀNG BÁ LÂN

Bàng Bá Lân có khoảng 40 bài thơ. Riêng về Thơ Xuân, ông chỉ có một bài này:

TẾT XƯA

Tết về, nhớ bánh chưng xanh, 
Nhớ tràng pháo chuột, nhớ tranh lợn gà. 
Nhớ cành đào thắm đầy hoa, 
Nhớ giây phút đợi giao thừa nghiêm trang. 
Nhớ ngũ vị, nhớ chè lam, 
Nhớ cây nêu, nhớ khánh vang tiếng sành. 
Nhớ tam cúc đẹt: Nhớ... mình! 
Nhớ cân mứt lạc, nhớ khoanh giò bì... 

Bắc, Nam từ buổi chia lìa. 
Xuân sang mỗi độ nhớ về xa xưa. 
Đã tàn hơn một giấc mơ, 
Ngược dòng kỷ niệm ấu thơ ngại ngùng!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét