Nhà Văn CUNG TÍCH BIỀN
TỰA
CÁT BỤI
#1
Thi Lão HÀ THƯỢNG NHÂN
Cuộc đời vốn vô thường, nay còn mai mất. Sinh để mà
diệt, có để mà không, còn để mà mất. Lão Tử nói: “Tạo Hóa bất nhân.” Thật ra, không phải Tạo Hóa bất nhân, mà, Tạo
Hóa vô tình trước mọi sự, thản nhiên trước mọi việc.
Cổ nhân khắt khe ư? Nhiều người đẹp cỡ Tây Thi,
Chiêu Quân mà cổ nhân nỡ bảo đó là “cái
túi da đựng mớ thịt thối.” Sự thật vốn tàn nhẫn. Sự sống là tự đánh lừa
mình bằng những ngôn từ hoa mỹ. Thật ra, chỉ vì cổ nhân đã thấu suốt tận ngọn
ngành nguyên ủy mà thốt lời chân thật vậy.
Suy đến cùng thì đời người chẳng có gì cả. Sống lâu
hay chết yểu thì cũng có lúc bắt đầu và chấm dứt. Cho nên cổ nhân lại nói: “Không có thọ yểu, không có sang hèn.” Dù biết đời không có gì cả mà
tác giả Võ Thạnh Văn lại làm KINH VÔ THƯỜNG dài đến mười nghìn câu thơ lục bát!
Con người quả là một con vật phi lý. Lỗ Trí Thâm vừa
đi tu vừa ăn thịt chó và uống rượu. Nguyễn Công Trứ thì lên Chùa lễ Phật mà “theo sau đủng đỉnh một đôi dì…” Đời
người vốn vô nghĩa như cuộc đời vốn vô nghĩa vậy. Con người vốn vô lý như cuộc
đời vốn vô lý vậy.
Tác giả Võ Thạnh Văn chắc chắn thừa biết câu: “Hữu danh bất như vô danh, vô danh bất như
đào danh.” Đào danh là chạy trốn sự nổi danh. Trốn danh lại còn viết sách!
Viết sách để làm gì? Để khoe kiến thức, thông thái, uyên bác, tài năng?… Hay ít
nhất là “thốn tâm thiên cổ” gởi gắm
tấc lòng mình lại cho mai hậu, mong gặp được kẻ tri âm, người tri kỷ.
Người xưa, Khổng Minh và Châu Do là hai kẻ thù bất
cộng đái thiên. Du than: “Thiên sinh Du
hà tất sinh Lượng.” Trời đã sinh Du
sao còn sinh Lượng?! Thế mà khi Chu Du chết, Khổng Minh đã khóc bằng một
bài điếu văn vô cùng thảm thiết. Hóa ra, giết Du mà Khổng Minh vẫn thật tình
thương Du. Bởi, trong đời, Du mới đáng mặt tri kỷ của Khổng Minh Gia Cát Lượng
Vũ Hầu vậy.
Tôi nghĩ Võ Thạnh Văn chẳng muốn khoe mình, cũng
chẳng mong gì tìm được tri kỷ tri âm trong mai hậu. Uy Viễn Tướng Công Nguyễn
Công Trứ chỉ muốn kiếp sau làm một cây
thông đứng giữa trời mà reo, nhưng vẫn làm hết tập thơ nầy đến tập thơ
khác. Bởi, không viết thì không chịu được. Bất
bình tắc minh là thế đấy.
Chung cuộc, kẻ tài tuấn trong thiên hạ, từ đông sang
tây, từ kim chí cổ, bất đắc dĩ mà phải viết, bất đắc dĩ mà phải làm văn chương
đấy thôi. Âu cũng là cái nghiệp dĩ của một kiếp tài hoa nghiệp chướng nặng nợ
văn chương. Võ Thạnh Văn cũng nằm trong cái định luật thường hằng muôn kiếp ấy.
Viết tại chung cư Sommerset park, San Jose,
California, Đêm mồng 10 tháng Sáu, năm 2007.
HÀ THƯỢNG NHÂN
TIỂU TỰ
Của Tác Giả Nhân Ngày Hoàn Thành
CÁT BỤI #10 Của Toàn Bộ KINH VÔ THƯỜNG.
KINH VÔ THƯỜNG là lời kêu thương bi thống của một kiếp nhân sinh bi
lụy trong cõi trần bi ai. Đó là lời ca cùng tột bi tráng chứa đựng ngậm ngùi
chất ngất đau thương của những tâm hồn vươn lên từ nỗi bi thiết thường hằng.
Từng chữ trong KINH VÔ THƯỜNG là từng bước chân rời rạc rã riêng của
hành trình đi vào tâm thức, một tâm thức tuyệt đối cô đơn khép kín riêng tư.
Từng chữ, từng lời là những bước chân hành giả trên đường hành hương, ngơ ngác
dọ dẫm đi vào tự thức để tìm lại chính mình.
Nhìn lại cho rõ chính mình, cái bản lai diện mục, là nhận diện nỗi
bi thương to lớn của kiếp nhân sinh. Nỗi bi thương to lớn ấy chính là con người
đã đánh mất bản thể từ lúc chưa sinh. Từ đó, con người hoang mang và miệt mài
tìm kiếm chính mình trong huyễn vọng.
Trong suốt cuộc hành trinh đơn độc đi vào tiểu ngã để tìm kiếm đại
ngã, con người vừa hân hoan bắt gặp, vừa ngậm ngùi chua chát cho thân phận. Đó
là hình ảnh ngậm ngải tìm trầm giữa rừng thiêng nước độc của non ngàn bát ngát.
Giữa đoạn đường tìm kiếm đó, con người chợt mê chợt ngộ, chợt tỉnh
chợt say, chợt ngủ chợt thức, chợt mừng chợt tủi, chợt mù chợt sáng. Càng mê
càng băn khoăn, trăn trở, thao thức. Càng (tiểu) ngộ càng chập chờn, khắc
khoải, mất ngủ, nghi hoặc.
Đông Thiên, Tây Trúc và miền Đất Hứa… càng đi càng lạc, càng đến gần
càng giạt xa. Đứng sát bên Linh Thứu vẫn thấy mình trôi giạt, lạc lõng, quạnh
hiu. Quỳ dưới chân núi Sinai chợt biết mình mất hướng, bồng bềnh, vong lạc.
Đó chính là nỗi bi tráng, nhục nhằn, thống hận, lạc hướng, hoang
mang, khắc khoải, bất lực, ngờ vực… của kiếp người, của từng kiếp người, của
muôn thuở, của muôn nơi, của bất cứ không gian hoặc thời gian nào.
Có lẽ, thái độ khôn ngoan duy nhất mà con người có thể là nên khiêm
nhượng lựa chọn cho chính mình, qua khuôn thước mà cha ông đã vạch sẵn, đó là:
Gần với trời, hòa với đất, vui với đạo, yên với đức, bằng lòng với mệnh, chấp
nhận an bài.
Như thế cũng có nghĩa là: Không xa đời, không lánh người. Đối với
đời cũng như đối với người: không oán, không ghét, không giận, không hờn… mà,
chỉ thương, chỉ nhớ, nên vui, nên mừng… để tích hợp diệu nghĩa, để biểu đạt
lương duyên.
Từ đó, từ trong nỗi quạnh hiu tuyệt đối, con người nhận chân Đấng
Tạo Hóa để điềm nhiên cười cợt với cô đơn hiện hữu, ve vuốt khổ đau thường
hằng, mơn trớn những bất hạnh chung quanh, chiêm nghiệm lẽ sắc không vô thường
từng niệm, kết thân với sự chết đang rình rập phút giây.
Từ đó, cùng với đức khiêm hạ chân cần thiết, lấy thiên nhiên làm
thầy, lấy sương khói làm bạn, lấy trăng nước làm vui, lấy lá hoa cây cỏ làm sản
nghiệp, lấy bốn mùa làm của riêng tư, lấy sắc không vô thường làm thi nghiệp,
lấy niềm tin tôn giáo làm thần hứng đầy mãnh lực sáng tạo.
Từ đó, con người biết thực là thực, biết hư là hư, biết hư là thực,
biết thực là hư; biết có là có, biết không là không, biết có là không, biết
không là có; biết còn là còn, biết mất là mất, biết còn là mất, biết mất là
còn; biết tụ là tụ, biết tán là tán, biết tụ là tán, biết tán là tụ, biết hợp
là hợp, biết tan là tan, biết hợp là tan, biết tan là hợp…
Bởi vì cuộc sống biến động vô thường, từng giây, từng phút. Do đức
hiếu sinh của Tạo Hóa mà cuộc sống sinh hoại dị diệt xảy ra từng sát na, từng
niệm… Cho nên, cây lá phải rã mục cho hạt nẩy mầm. Con người muốn trổ hoa cũng
phải tự vác thập giá đi lên đỉnh Golgotha, phải bước qua sa mạc để đến Đất Hứa,
phải chết đi để được phục sinh.
Từ đó, từ hiểu biết và thái độ lựa chọn trên đưa con người đến sự
thức tỉnh. Với tinh thần thức tỉnh, con người sẽ vừa rong chơi, vừa ca hát
nghêu ngao… để an nhiên thư thái đi hết chặng đường thánh giá nghiêu khê như
một cái nghiệp phải trả trong kiếp nhân sinh hữu hạn để bước vào thế giới vô
hạn mai sau.
Viết tại Phù Hư Am
Vùng Bắc Vịnh, Mùa Đông năm 2000.
VÕ THẠNH VĂN


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét