Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2019

Chân Dung Nhà Thơ TRẦN NHUẬN MINH


TRẦN NHUẬN MINH
VÀ ĐỂ NHỮNG CÂU THƠ
HÓA THẠCH THỜI GIAN
TIỂU LUẬN PHÊ BÌNH
* * *


TRẦN MINH HÀ - TRẦN NHUẬN VINH
(Sưu tầm, biên soạn)






NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
 



















 LỜI ĐẦU SÁCH

Năm 2019, cha của chúng tôi, nhà thơ Trần Nhuận Minh tròn 75 tuổi. Ông coi năm này rất có ý nghĩa trong cuộc đời mình, vì ông nhận ra rằng, quĩ thời gian còn lại không được bao nhiêu. Ông đồng ý cho in tập thơ Biết gửi cho ai, tác phẩm thứ 47 trong văn nghiệp của ông và tỏ ý sau đó sẽ không in tập thơ mới nào nữa. Còn khoảng 100 bài, trong đó có những bài ông rất tâm đắc, có những bài đã đăng báo, ông gom lại, giao cho tôi và em trai tôi, tiến sĩ Trần Nhuận Vinh, còn sau này có in  hay không, in đến mức nào, thì còn tùy. “Sức người có hạn / Trời cao khôn cùng !…” ông đã viết thế.
Chính đó là lí do khiến chúng tôi thấy cần phải cố gắng hoàn thành sớm tập sách này, coi như là tập 3 trong bộ sách 3 tập, sưu tầm các bài đã đăng báo của các nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu và biên khảo văn học về cha tôi và các tác phẩm của cha tôi.
Tập thứ nhất Trần Nhuận Minh và ba lần định vị cho thơ của GS Phong Lê và nhiều tác giả, Nhà xuất bản Văn học in và phát hành năm 2009, tập thứ 2, Trần Nhuận Minh và một hướng tìm diện mạo mới cho thơ của nhà phê bình văn học Đỗ Ngọc Yên và nhiều tác giả, Nhà xuất bản Hội Nhà văn in và phát hành năm 2015. Tập thứ 3 này có tên Trần Nhuận Minh và để những câu thơ hóa thạch thời gian, lấy tên bài của nhà thơ Ngô Xuân Hội đã đăng báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam làm đầu đề cho cả tập. Cả 3 tập đều cùng một qui cách biên soạn. Nghĩa là chúng tôi chỉ tập hợp những bài đã đăng báo gom lại thành sách, nếu tác giả không tự sửa lại thì chúng tôi vẫn giữ nguyên như nó đã đăng báo, thậm chí chữ hoa, những dòng in đậm hay in thường, chúng tôi cũng in lại y nguyên như thế, thậm chí có bài trong nguyên bản viết tắt, chúng tôi cũng không sửa lại. Thi thoảng có bài, một vài câu chữ đã đăng báo này, báo kia, có khác nhau, chúng tôi đưa in bản tác giả đã chọn hoặc đã sửa thêm và gửi cho. Chúng tôi có ghi “nguồn”, tức là xuất xứ ở cuối bài để nếu cần, tác giả và bạn đọc có thể kiểm tra, đối chiếu. Riêng nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Văn Quảng có bài viết về bài thơ Núi hoa của cha tôi, đã đăng báo, vậy mà chỉ có 2 - 3 chữ không ưng ý, ông sửa lại và gửi về cho chúng tôi đến lần thứ 3, chúng tôi rất cảm động cảm ơn ông và trân trọng đưa in bản ông gửi về lần cuối cùng. Nhân đây chúng tôi thưa thêm, những bài bình hoặc giới thiệu những bài thơ cụ thể của cha tôi có nhiều hơn, nhưng chúng tôi chỉ chọn, đến lúc này là 4 bài để đưa in, đó là bài của nhà thơ Vũ Quần Phương về Dặn con, đã in ở tập 2, và 3 bài của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Quảng, nhà báo An Đức và thạc sĩ văn học Nguyễn Thị Mai Hoa in ở tập 3 này. Vì tập sách chỉ gom những bài đã đăng báo, nên có những Luận văn thạc sĩ khoa học và một số bài viết khác, các tác giả gửi lại cho chúng tôi lưu, chúng tôi rất cảm ơn, nhưng không thấy có báo nào đăng và hỏi các tác giả thì được biết, các tác giả cũng không muốn đăng báo, vì thế chúng tôi rất lấy làm tiếc, bởi nó đã không có mặt trong cả 3 tập sưu tầm biên soạn này. Các Luận văn thạc sĩ văn học được trích đăng báo là rất hiếm, hầu hết không thực hiện được.Và như vậy, viết về cha tôi và các tác phẩm của cha tôi, số lượng và cả chất lượng không phải chỉ có như nó đã có trên tay các quí vị và các bạn.
Với tiêu chí bài viết phải đã đăng báo, nên có bài như bài phỏng vấn của nhà báo, nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim đã đăng báo Văn Nghệ Công an từ năm 2008, nhưng chúng tôi không tìm được trang báo. Nay tình cờ thấy trên internet, có ghi trang báo điện tử đã đăng bài, chúng tôi tải về và đưa in nguyên văn. Từ đó ở tập 3 này, chúng tôi có đưa in một số bài đã đăng trên các báo điện tử, là điều 2 tập trước không có, bởi nghĩ rằng, đó cũng là một cách công bố tác phẩm và thậm chí đăng trên báo điện tử, số người truy cập còn nhiều hơn rất nhiều, kể cả những độc giả ở nước ngoài, điều mà các bài chỉ đăng báo giấy, không thể có được. Đọc báo điện tử đang là một chọn lựa của hàng triệu người và ngày càng phổ biến, thay cho đọc các báo giấy như trước đây. Ở một đôi bài cần thiết, chúng tôi có vài dòng chú thích thêm ở dưới (Ghi tắt là NBS - Người Biên Soạn), kính mong được các tác giả thông cảm và lượng thứ.
Chúng tôi vô cùng cảm ơn các tác giả, các ban biên tập báo và các nhà xuất bản, đã viết và đăng bài, in bài, về cha tôi và các tác phẩm của ông. Chúng tôi đã cố gắng rất cao để có tập sách này, trước hết như là ghi lại những kỉ niệm rất đẹp trong cuộc đời lao động nghệ thuật của cha tôi, với những đồng cảm và những lời động viên rất cao quí của các nhà văn, nhà phê bình, nhà báo và của cả các bạn đọc, sau nữa sẽ là sách công cụ cung cấp tư liệu đáng tin cậy cho các bạn nghiên cứu sinh, các sinh viên và học sinh… muốn tìm hiểu về cha tôi và các tác phẩm của ông.
        Dù cố gắng đến mức nào, tập sách chắc cũng khó tránh khỏi những khiếm khuyết, chúng tôi rất mong nhận được sự lượng thứ và chỉ giáo của các nhà chuyên môn và các quí vị bạn đọc.

                                              Hạ Long, đầu xuân Kỉ Hợi, 2019
                                     
                                                    
                            


Nhà thơ Trần Nhuận Minh, sinh ngày 20-8-1944. Quê quán: Điền Trì, Quốc Tuấn, Nam Sách, Hải Dương. Dân tộc: Kinh. Hiện thường trú tại 47 Lê Thánh Tông, TP Hạ Long, Quảng Ninh. Đảng viên Đảng ĐCSVN. Vào Hội năm 1982.
VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC: Tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1982). Từng là giáo viên; Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Văn Nghệ Quảng Ninh, Tổng Biên tập báo Hạ Long…
TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Thơ: Đấy là tình yêu (1971); Âm điệu một vùng đất (1980); Thành phố bên này sông (1982); Nhà thơ và hoa cỏ (1993); Giọt phù sa vạn dặm (2000); Bản Xô nát hoang dã; Trần Nhuận Minh - Tuyển tập tác phẩm thơ (2005); Gửi lại dọc đường (2005); 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh; Miền dân gian mây trắng (2008); Bốn mùa - Pou Seasons (2008). Văn: Trước mùa mưa bão (1980); Hòn đảo phía chân trời (2000); Truyện chọn lọc viết cho thiếu nhi (2002); Đối thoại văn chương (Lý luận, viết chung với Nguyễn Đức Tùng - 2011)…
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Nhà Nước về Văn học nghệ thuật  đợt II năm 2007, và 21 giải thưởng văn học khác…

T
heo Địa chí Hải Dương, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Trần Nhuận Minh thuộc họ Trần Điền Trì, một dòng họ có truyền thống khoa bảng lâu đời, thời trước nhiều người đỗ đạt làm quan. Ông tổ đời thứ 9 tên Trần Thọ (1639 - 1700), tự Nhuận Phủ, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất, 1670, làm quan đến chức Tham tụng (Tể tướng), tước Phương Trì hầu. Thọ sinh ra Cảnh, Cảnh sinh ra Tiến, Tiến sinh ra Khuê, Khuê sinh ra Ích, người nào cũng nối được chí tiền nhân. Nhưng đến Trần Hoàn, ông nội nhà thơ, tổ đời thứ 15 là một nhà nho nghèo, mặc dù học giỏi nhưng vì có bố (Trần Tấn - tổ đời thứ 14) đã tham gia phong trào Cần vương của vua Hàm Nghi, chiến tướng của Nguyễn Thiện Thuật, hy sinh năm 24 tuổi, khi chỉ huy chống Pháp trong trận cưối cùng giặc càn vào Bãi Sậy, nên Pháp không cho làm gì. Hoàn sống bằng nghề dạy học, cảnh nhà sa sút. Đến bố nhà thơ, tổ đời thứ 16, chuyên đi cày thuê, đồ thị phát triển của gia tộc rơi xuống mức thấp nhất.
“Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, đến đời thứ 17 họ Trần Điền Trì quật khởi với hai tên tuổi lẫy lừng, nhưng không phải trên chính trường mà trong lĩnh vực văn chương, đấy là Trần Nhuận Minh và Trần Đăng Khoa. Trần Đăng Khoa thì nổi tiếng quá rồi, không nói đến cũng đã nhiều người biết. Nhưng còn Trần Nhuận Minh? Đọc những “Hòa bình lập lại Đông Dương (tùng tùng tùng / á lơ hò lờ)/ Anh Chiến chị Dự (tùng tùng tùng / á lơ hò lờ) kết duyên Châu Trần…” và đặc biệt “VIỆT cường nổi tiếng Á Đông”, bài thơ Nhuận Minh viết khi còn mặc quần thủng đít, theo yêu cầu của các bậc cao niên trong họ để phân định thực hư về tài thơ vẫn được đồn đại bấy lâu của bác (gọi bác, vì ông ở ngành trên) tôi cứ nghĩ thơ Trần Nhuận Minh xuất hiện bất phùng thời chứ thi tài ông em mười, ông anh cũng được… tám, chín. Chả kém! Này nhé:
“VIỆT cường nổi tiếng Á Đông
 NAM bang trấn cõi anh hùng bao phen
 DÂN mình lớp lớp đứng lên
 CHỦ quyền dành lại, còn truyền sử xanh…
 CỘNG thêm những bậc tài danh
 HÒA trong bão táp mà thành thép gang

 ĐỘC ác thay lũ hung tàn
 LẬP nền thống trị Việt Nam bao đời
 TỰ nhiên bao cuộc đổi dời
 DO dân đứng dậy, rạch đôi ngai vàng
 HẠNH Nguyên máu giặc còn loan
 PHÚC Yên, Vạn Kiếp tiếng vang còn truyền…
Yêu cầu của đề bài: “…làm bài thơ 12 câu. Đọc chữ đầu câu từ trên xuống dưới là: “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa - Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc”. Và ông bác tí hon giống như Tào Thực đi bảy bước chân, xong bài thơ “Hai trâu chọi dưới tường, một con sa giếng chết” mà không được nhắc tới một chữ nào trong mười chữ trên, đã đặt bút viết luôn một bài thơ không đến nỗi đầu Ngô mình Sở, đáp ứng đầy đủ các dữ kiện của người ra đề. Khi bác nhỏ đọc xong, các bậc trưởng lão họ Trần ngồi nghe lặng ngắt, sau đó họp ngay hội nghị “Diên Hồng”, quyết định: Nhà thờ họ có hơn một sào đất hương hỏa, giao bố mẹ bác cấy trồng, để có thêm tiền cho bác ăn học. Có thể nói, suất học bổng có một không hai ấy đã chắp cánh cho bác nhỏ trở thành một nhà thơ trứ danh bây giờ.
Từ tác phẩm đầu tay viết theo cái khung có sẵn bởi người ra đề, sau đó ném câu chữ của mình vào cho thành bài theo yêu cầu họ mạc ấy, vô tình mở ra khuynh hướng sáng tác dài lâu cho Trần Nhuận Minh về sau. Chiếc đòn gánh cong, bài thơ đầu tiên in báo của ông thể hiện rõ nhất điều này:
“Bà tôi có chiếc đòn gánh cong
 Nửa đời gánh mướn kiếp long đong
 Đường lầy, gánh nặng, vai cháy bỏng
 Mỗi bước chân đi, nước mắt ròng... ”
Tiếp đó bài thơ kể việc bà gánh nặng bị ngã, chiếc đòn gánh đè lên khuôn ngực già, khiến bà không dậy được nữa, chiếc đòn gánh chuyền vai mẹ. Cho đến một ngày làng quê thành lập hợp tác xã, tác giả đã chặt chiếc đòn gánh để đóng chiếc xe chạy giữa đồng, chặt đứt luôn kiếp làm thuê gánh mướn vẫn đè nặng người nông dân hết đời này sang đời khác.
Giải phóng đôi vai là một việc đáng trân trọng, nhưng chặt chiếc đòn gánh rồi ước mơ được thực hiện thì khiên cưỡng. Vì chiếc đòn gánh chỉ là một mảnh tre, trong việc đóng chiếc xe nó chẳng mấy giá trị. Để có đủ nguyên vật liệu làm xe, chặt cả cây tre vẫn còn ít. Thứ nữa đòn gánh, đòn xóc, đòn càn là những công cụ thân thuộc nghìn đời nay của nông dân. Dù bây giờ đường đồng, mương máng nhiều nơi đã được bê tông hóa, xe cơ giới, xe thủ công có thể chạy thoải mái giữa những bờ xôi ruộng mật, thì những thứ đòn ấy vẫn mãi là bạn thiết của nông dân, chẳng mấy ai chặt bỏ, vì thế Chiếc đòn gánh cong là bài thơ viết lấy được. Khuynh hướng sáng tác này gắn bó với tác giả tới 30 năm. Năm 1986, công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng bắt đầu, Trần Nhuận Minh mới như nàng công chúa ngủ trong rừng, bừng tỉnh, quyết tâm đoạn tuyệt với nó, đoạn tuyệt với lối thơ minh họa, tuyên truyền mà ông đã viết rất say mê và chân thành.
Nếu lấy năm 1954, năm nhà thơ viết VIỆT cường nổi tiếng Á Đông làm mốc, đến hôm nay Trần Nhuận Minh đã có 60 năm cầm bút. Trong bài khảo cứu công phu về thơ ông, Giáo sư Phong Lê, nguyên Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam khẳng định: Trần Nhuận Minh ba lần định vị cho thơ. Lần thứ nhất (1960 - 1985) tác giả viết chủ yếu về giai cấp công nhân mà nhân vật trung tâm là những người thợ mỏ, tập thơ tiêu biểu nhất: Âm điệu một vùng đất, 50 bài. Thời kỳ thứ hai, từ Đổi Mới, (1986 - 2001) Trần Nhuận Minh viết về số phận của nhân dân trong những va đập khắc nghiệt của thời cuộc, tập thơ tiêu biểu nhất là Nhà thơ và hoa cỏ, 127 bài. Thời kỳ thứ ba, từ năm 2002 đến nay, tác giả viết về Con Người, trong mọi cung bậc của đời sống, kể cả trong cõi tâm linh, với ba tập thơ, mỗi tập mỗi khác, cả về ý tưởng, kết cấu, giọng điệu và thể loại. Đó là Bản Xônat hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh Miền dân gian mây trắng.
Còn theo tác giả, sáng tác của ông đến nay chia làm hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn một, từ khi viết bài thơ đầu tiên (1954) đến năm 1986, năm đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Giai đoạn hai, từ năm 1986 đến nay. Dù phân chia theo cách nào, một điều mà ai cũng phải ghi nhận đấy là khả năng tự làm mới - cho thơ mình hay hơn lên, của tác giả. Đối với người cầm bút, điều này thật đáng quý. Không ít người không có khả năng thay đổi. Tư duy một chiều mãi thành quen đến khi thấy những điều mình viết là cũ, không phù hợp với cuộc sống, muốn cách tân mà lực bất tòng tâm, đành buông xuôi. Giải mã bí mật này ở Trần Nhuận Minh, ngoài cái vốn trời cho, theo tôi có lẽ do ngay từ thuở thiếu thời ông đã hướng đời mình vào thơ. Nỗi buồn, niềm vui, hy vọng, thành công, dở, hay, thất bại… đều từ cái gốc này mà ra...
Trong Đối thoại văn chương, tập luận về thơ rất hay giữa hai nhà thơ Trần Nhuận Minh và Nguyễn Đức Tùng, hơn một lần Nguyễn Đức Tùng đề nghị Trần Nhuận Minh thử tự chọn cho mình ba bài thơ hay nhất, mỗi bài ở mỗi thời kỳ, và hơn một lần Trần Nhuận Minh thoái thác. Thay vào đó ông chọn ba bài đặc trưng (tức là những bài “có cái để mà nói”). Ở thời kỳ thứ nhất, viết để minh họa tuyên truyền thì đấy chính là bài Chiếc đòn gánh cong mà tôi đã đề cập ở phần trên. Còn thời kỳ thứ hai là bài Phút lâm chung của cụ Hãn. Đây là bài thơ, viết về số phận của nhân dân, cụ thể là ông bảo vệ già và lũ trẻ con: Đất nước chả giầu lên được / Dù tôi chắt bóp từng đồng. Bài thơ chạm vào cơ chế xã hội, đã phản ảnh một thời, người ta làm những điều vô cùng độc ác, nhân danh cái thiện và làm với thiện tâm hẳn hoi. Vì thế càng đáng sợ. Phải có thời gian rất lâu sau, người thiện mới nhận ra mình ác. Muốn thiện lại thành ra ác / Có ai giống với tôi không? Và nhà thơ nói với các bạn trẻ: Tha cho lỗi lầm thế gian… Còn thời kỳ thứ ba là bài thơ (hay đoạn thơ) viết về Con Người, rút ra từ tập Bản Xônat hoang dã (2003). Tên bài thơ (hay đoạn thơ) chỉ là cái chấm tròn, vì ý tưởng các bài lẫn trong nhau trong một tư duy nghệ thuật mà tác giả thấy chỉ có ở mình khi viết tập thơ này:
“Tôi Thứ Nhất đã chết/ Nằm duỗi thẳng
 trong quan tài
 Tôi Thứ Hai vẫn sống
 Là thể xác
 Mà không phải là thể xác
 Là linh hồn
 Mà chẳng phải linh hồn…
 Tôi Thứ Hai ngạc nhiên
 Không hiểu vì sao
 Chính Nó đã chết rồi
 Mà gương mặt vẫn âm thầm đau khổ
 Vẫn chưa tan
 Những dãi dầu trần thế…”
 Ở đây, con người tự phân thân ra làm hai, cái TÔI nọ nhìn ngắm và phán xét cái TÔI kia một cách nghiêm khắc, lạnh lùng và rút ra cái kết luận không dễ được chấp nhận: “Cõi trần gian / Chẳng có gì tươi đẹp hơn Cái Chết...”
Ba giai đoạn thơ hoàn toàn khác nhau. Ba bài thơ cũng hoàn toàn khác nhau. Nhưng chú ý ta sẽ thấy, có một điều rất nhất quán, xuyên suốt toàn bộ đời thơ Trần Nhuận Minh. Ấy là, khi nói đến cái chết, ngay sau đó, bao giờ tác giả cũng nói đến sự sống và đặt hai cái ấy liền kề nhau, thể hiện một thái độ sống tích cực. Xuân Quỳnh: “Dù thơ em viết chửa hay hơn/ Em đang tập làm thơ cho có ích…” Cùng quan niệm thơ phải có ích, theo Trần Nhuận Minh: “Nhiệm vụ của thơ là phải hay. Còn nhà thơ, chỉ có một nhiệm vụ thôi là phải viết hay”. Và để viết hay, giải pháp của ông là sống đẹp, đúng với những gì mình viết. Chính vì thế trong đời sống ông luôn điềm đạm, nhún nhường. Nếu có bất cứ ai tranh với ông, hoặc ông biết là sẽ tranh với ông, thì ông xin thua ngay từ trước; cho đến tận bây giờ. Tôi phục ông lần vào thăm trại tạm giam Hang Son của công an tỉnh, tình cờ nghe một người tù đổ câu cải lương buồn. Bằng mẫn cảm của nhà thơ, ông đoán sau giọng ca hiu hắt ấy, nhiều phần là một nỗi niềm oan khuất. Và đúng vậy. Tìm hiểu, ông được hay người tù này bị tù chỉ vì… đã chửi Chủ tịch xã! Mà lý do chửi thì rất chính đáng. Lập tức ông can thiệp, cuối cùng người tù được tha. Phục ông ở sự cảm thông sâu sắc với Nguyễn Hữu Đang, để có một ứng xử bình dị mà rất con người với ông Đang trong một cuộc gặp gỡ. Phục ông bởi sự độ lượng hơn người trong những ứng xử đời thường. Đấy là lần năm 1990, ông mua được một cái xe đạp nữ mới, phụ tùng ngoại, giá 680 nghìn đồng. Một buổi chiều ông để xe ở sau nhà, vào nhà lấy thêm tiền ra mua sách, cho nhanh, thì mất. Đoán kẻ trộm sẽ mang đi Hải Phòng tiêu thụ, nên suốt đêm ông chờ ở bến tàu. Đúng lúc chuyến tàu đầu tiên buổi sáng nhổ neo, ông toan về thì thấy cái xe của mình chạy sồng sộc qua trước mặt để lên tàu cho kịp. Ông đuổi theo một đoạn chợt nhận ra thằng trộm là con một người quen. Ông đứng lại ngay. Giám đốc Công ty chạy tàu Khuất Duy Chưng, thức cùng ông đêm ấy để bắt trộm giúp ông, bảo: Tôi sẽ yêu cầu bến Hải Phòng giữ cái xe lại cho anh. Ông bảo: thôi, cảm ơn anh, không cần nữa. Và về. Hoặc nữa, ngày 05/8/2001 ông đi từ Hà Nội về Quảng Ninh. Đến gần Ghẽ (huyện Cẩm Giàng, Hải Dương) lúc 22 giờ 15 phút, xe con của ông đang dừng bên đường thì bị một cái xe tải lao đánh “rầm” một tiếng. Cái xe tải này di cái xe con của ông trên mặt đường 55 mét, thì quặt trái và phanh độc khiến xe ông bay chéo trên không trung 57 mét, qua giải phân cách ở giữa đường, cắm đầu xuống ao nông thả muống ở phía bên kia đường, cách mép cuối cùng của vệ đường 2 - 3 mét. Vỏ cái xe con của ông bị vò nát như cái vỏ trứng, toàn bộ 2/3 xe phía sau, bị cái ba đờ sốc của xe tải kéo giật ra, trống hoác, cái cặp số của ông để ở cốp xe cũng bẹp rúm… Trần Nhuận Minh chết lâm sàng bốn tiếng đồng hồ liền. Khi tỉnh lại, ý nghĩ đầu tiên của ông là: “Tưởng chết thế nào chứ thế này thì đơn giản, tớ thấy được”. Và ông đã viết văn bản yêu cầu công an không xử lý xe, không xử lý tài xế, cũng không yêu cầu nhà xe bồi thường tiền cho cá nhân mình. Cái xe hư nát thì đã có bảo hiểm lo. Nhà xe, một phụ nữ ở thành phố Hồ Chí Minh, đi áp tải hàng, nói: cháu có phúc mới đâm vào chú (!). Cái xe của chú bay như một chiếc lá khô. Phim Hollywood còn phải gọi bằng cụ. Cháu nghĩ chuyến này cơ nghiệp nhà cháu thế là hết…
 Nhưng phục nhất là lần ông đến ăn cơm khách ở nhà học trò khi còn làm thầy giáo. Nhà không có mâm, cơm dọn trên cái sàng gạo, chỉ có một đĩa tép riu rang và một bát canh rau cải, cũng nấu với tép. Ông ngồi đầu nồi, trực tiếp so đũa, xới cơm như một người con cả của gia đình, bên kia nồi là Hiệp (học trò). Đúng lúc ấy, một con nhái, chả biết thế nào nhảy tõm ngay vào bát canh cải duy nhất có trên “mâm”. Mẹ Hiệp hoảng hốt, còn Hiệp thì ngồi đực ra không biết xử lý như thế nào. Thầy Minh liền lấy muôi múc canh chan luôn vào bát cơm của mình, ăn ngon lành, như không có điều gì xẩy ra, giải tỏa cho hai mẹ con người học trò khỏi nỗi khó xử, rồi sau đó, cả mẹ và Hiệp đều chan chung bát canh… Chỉ người hiền mới có được những ứng xử thấm đẫm tính nhân văn như thế.
Thông kim bác cổ, lại luôn sống với một tinh thần công dân cao cả, mỗi ý kiến của ông đề xuất khi còn đương chức (Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Văn Nghệ Quảng Ninh…) hay sau này, khi đã thôi tham chính, thường được nhiều người lắng nghe, ủng hộ. Nhờ thế bây giờ Quảng Ninh mới có được Ngày thơ truyền thống (tiền đề của Ngày thơ Việt Nam hiện nay) tổ chức vào 29/3 hàng năm. Mới có tên đường Lê Thánh Tông cho con đường qua chân núi Bài Thơ đẹp nhất Hạ Long mà bao nhiêu vị thức giả bụng chứa đầy kinh sách mỗi bận đi qua đều phải chịu là tài(1). Đi mang mang trong đời, tròn  một  lục  thập  hoa  giáp  cầm bút,  công  dân  Trần Nhuận  Minh  đã giúp nhà thơ Trần Nhuận Minh viết  và in  được  17 tập thơ,  3 tập truyện vừa,  2 tập lý luận văn học, 9 tập khảo cứu. Sách của ông thường xuyên được bạn đọc đón nhận, hầu hết được tái bản. Có cuốn như Nhà thơ và hoa cỏ đã tái bản 22 lần, Bản Xô nát hoang dã tái bản 13 lần, hay 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh Miền dân gian mây trắng tái bản 5 lần…
      Trần Nhuận Minh đã nhận Giải thưởng Nhà Nước về Văn học nghệ thuật ( đợt 2, năm 2007 ) 2 Huân chương Lao Động cùng 21 giải thưởng văn học khác. Nhiều năm trên cương vị Trưởng ban Thơ Hội Văn Nghệ Quảng Ninh, ông đã có công phát hiện, bồi dưỡng nhiều cây bút thơ vùng mỏ, giúp họ sớm vượt qua những vụng dại ban đầu để nhanh chóng đi xa. Trong số đó, 4 người: Nguyễn Châu, Trần Ngọc Tảo, Trần Tâm, Ngô Xuân Hội sau này trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Nhưng thành tích ấy của ông thì không mấy người tính cho…
 TP Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2015


  Nguồn: Báo VĂN NGHỆ
 số 44 (2906) Thứ Bảy 31/ 10/ 2015



 




Đ
ó là tập “Trần Nhuận Minh và ba lần định vị cho thơ” (Nxb Văn học, 2009), và “Trần Nhuận Minh và một hướng tìm diện mạo mới cho thơ” (Nxb Hội Nhà văn, 2015), có thể coi là tập I và tập II vì cùng có chung một nội dung và một thể thức biên soạn. Trần Minh Hà và Trần Nhuận Vinh đã rất công phu và nghiêm túc, sưu tầm các bài viết về thơ Trần Nhuận Minh đã in sách, đăng báo trong nhiều năm qua, tập hợp lại trong 2 tập sách này, với tổng độ dày 756 trang, của khoảng 80 tác giả, trong đó có nhiều tên tuổi quen thuộc như Huy Cận, Phong Lê, Mai Quốc Liên, Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Trần Mạnh Hảo, Vũ Quần Phương, Nguyễn Bùi Vợi, Xuân Cang, Ma Văn Kháng, Đỗ Ngọc Yên, Nguyễn Trọng Tạo, Thái Doãn Hiểu, Vũ Văn Sĩ, Phạm Khải, Nguyễn Văn Quảng… và nhiều tác giả khác, cùng 5 nhà thơ, nhà văn, GS-TS nước ngoài, là Iuri Konhetxki, Châu Hồng Thủy (Nga), Nguyễn Đức Tùng (Canada) và Phùng Trọng Bình, Dương Hạ Nguyệt (Trung Quốc).
 Đến nay, Trần Nhuận Minh đã được xuất bản 31 tác phẩm, bao gồm 17 tập thơ; 3 tập truyện vừa và tiểu thuyết, 1 tập tiểu luận, 1 tập Đối thoại văn chương và 9 tập biên khảo. Trong đó nhiều tác phẩm đã được tái bản từ 5 đến 22 lần. Một số thơ Trần Nhuận Minh cũng được dịch và xuất bản ở nước ngoài. Giáo sư Phong Lê, trong một bài viết rất công phu: “Trần Nhuận Minh và ba lần định vị cho thơ”, đã chỉ ra rằng, Trần Nhuận Minh có 3 lần định vị cho thơ: lần thứ nhất là đến với giai cấp Công Nhân, lần thứ 2 là đến với Nhân Dân và lần thứ 3 là đến với Con Người. Nhà thơ Nga, Iuri Konhetxki, là người đầu tiên, từ năm 1992, đã cho rằng Trần Nhuận Minh là người học tập và kế thừa rất rõ rệt truyền thống hiện thực chủ nghĩa của thơ Đỗ Phủ và điều ấy được giáo sư Mai Quốc Liên và nhà thơ Vũ Quần Phương nói sâu sắc hơn, còn nhà thơ Nguyễn Đức Tùng thì coi Trần Nhuận Minh là nhà thơ thế sự rất đặc sắc của thơ đương đại Việt Nam. Có thể nói, những ý kiến trên, đã có ảnh hưởng ít nhiều tới các bài viết khác và đặc biệt, tới các luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn về thơ Trần Nhuận Minh của các nghiên cứu sinh, được trích in trong 2 tập sách này.
 Tôi rất thú vị với bài viết của nhà thơ Trần Mạnh Hảo: “Trần Nhuận Minh, người bay bằng chân”, khẳng định thơ Trần Nhuận Minh bay lên bằng đôi chân trần của sự thật, cũng là cái chân trong chân, thiện, mĩ của nghệ thuật. Cách viết của Trần Mạnh Hảo rất tinh xảo và tài hoa, rằng: cái thời em trai Trần Đăng Khoa đã nổi như thần đồng, thì “thi tứ” của Trần Nhuận Minh còn rất nghèo, phải đi nhặt vỏ bom Mỹ về làm thơ, hệt như người đi lượn ve chai thơ vậy. Thế rồi, khi tìm được con đường đi của mình, tức là nhận ra cái chân của thơ, của đời sống, Trần Nhuận Minh làm thơ hăng như cuốc đất. Ông (TNM) thả hồn lên trời như chim, hết làm mây gió lại làm trăng sao… Ông bỏ làng quê và giun dế cho người em ruột, để đánh đu với thiên hà, đi mà mò thơ trong vũ trụ như người mò tôm cá…Ông quyết đi bằng đôi chân trần mà “bay lên” tới tận cùng, “thăng hoa theo phép bay bằng chân của bút pháp hiện thực phương Đông”, và, (ở một phương diện khác của bút pháp hiện thực nghiệt ngã của Trần Nhuận Minh), mà, nén không gian, sự thật và tâm trạng của người đời “vào các khe chữ cho đến lúc phải bật máu”…
 Những tác phầm của Trần Nhuận Minh đề cập đến nhiều lĩnh vực, nên có “quang phổ” rất rộng. Trong bài viết: “Bản Xônat hoang dã nhìn từ góc độ thiền học”, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sơn, lại đặt thơ Trần Nhuận Minh trong hệ quy chiếu của thiền học mà nhận ra lẽ phải trái, thị phi, yêu ghét, còn mất…, những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh. Bằng ngọn đuốc thiền học chiếu sáng, Trần Nhuận Minh luôn chỉ ra, phân tích sự vật, hơn là khẳng định hay phê phán. Và khi đã đạt đến Đạo, thì:
“Cõi trần gian
Chẳng có cái gì tươi đẹp hơn Cái Chết
Nếu tất cả mọi người từ thượng cổ
 Đều sống cùng chúng ta
Thì thế giới này khủng khiếp đến nhường nào…”
Vì thế, Trần Nhuận Minh cảm nhận được điều không dễ cảm nhận:
“Những sung sướng…..
 Không còn làm tôi sung sướng
Những đau khổ
Cũng không còn làm tôi đau khổ…”
 Nhà thơ Vũ Quần Phương qua bài “Khúc đàn bầu thân phận” đã rất thấm thía và sâu sắc khi đánh giá về Trần Nhuận Minh: “Ông tỉnh táo và tin vào mắt mình, khi nhìn vào thực chất xã hội, khi theo dõi những số phận người. Không cố tình ca ngợi, cũng không có ý định phê phán, Trần Nhuận Minh chỉ muốn thể hiện đúng nhất, bản chất nhất, cái cuộc đời vốn có. Bút pháp hiện thực nghiêm ngặt, sâu sắc và hàm súc, đã giúp ông lưu giữ được cả tâm sự của một giai đoạn giao thời khá nhiều nghịch cảnh, nghịch lí của cái xã hội “làm chủ tập thể” đang tư bản hóa theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”.
 Trong “Trần Nhuận Minh và một hướng tìm diện mạo mới cho thơcủa nhà phê bình văn học Đỗ Ngọc Yên và nhiều tác giả, là tập tiếp theo tập trên. Đỗ Ngọc Yên cho rằng: “Trần Nhuận Minh là người mạnh mẽ đến quyết liệt, không chỉ trong việc đổi mới thơ, mà quan trọng hơn là làm lại chính mình với tư cách là một chủ thể thơ, một sự làm lại nhọc nhằn, quằn quại và đau đớn. Ông không cần quan tâm đến lý thuyết về các trào lưu, trường phái hay chủ nghĩa nào, mà có lẽ chỉ quan tâm làm sao đem đến cho thơ Việt, một diện mạo mới và một hơi thở, sức sống mới”. Đỗ Ngọc Yên đánh giá cao hai tác phẩm đặc sắc, dài hơi, được viết với bút pháp “lạ” của Trần Nhuận Minh là “Bản Xônat hoang dã” “45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh”. Ông nhận ra mạch trữ tình chiêm nghiệm và biểu dương “phát hiện” của Trần Nhuận Minh trong đoạn thơ:
“Con người là những giọt nước mắt
Cảu Đấng Âm U rơi xuống trần gian
Giọt nước mắt bên phải là đàn ông
Giọt nước mắt bên trái là đàn bà
Chúng lẫn trong nhau
Mà hóa ra bát ngát…”
 Ông cũng nhận ra “tính tự sự khái quát, mang tính tổng kết nghiệm sinh và sự suy tư về cuộc đời, về sự bất biến của tự nhiên” và cho đó là “cái tài của Trần Nhuận Minh” được bộc lộ trong thơ vừa rõ rệt và vừa huyền ảo, để rồi từ đó, “từ việc tạo ý, lập tứ, đến bố cục tác phẩm; từ ngôn ngữ đến hình tượng; từ giọng điệu đến khúc thức… đều là của riệng Trần Nhuận Minh”:
“Kẻ khôn ngoan thường giấu điều mình biết
Ý nghĩ ở đàng Đông
Miệng nói ở đàng Tây
…….
Giấu mưu toan dưới những cốc rượu đầy…

Ta già rồi
Chẳng biết giấu vào đâu
Nỗi Ngu Dại
Học từ thời Tốt Đẹp
Nén hương tắt khi mình chưa trọn kiếp
Cầm chân hương đi đến cuối cuộc đời…”
 Hai dịch giả Trung Quốc, GS-TS Phùng Trọng Bình và Th.S văn chương Dương Hạ Nguyệt, trong 2 bài viết Nhà thơ Trần Nhuận MinhGiá trị nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh”, đã có nhiều ý kiến xác đáng, có thể coi là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, mang tính phát hiện cao. Hai bài này, in ở đầu tập Trần Nhuận Minh, thi ca tinh tuyển tập, Nxb Phát thanh và Truyền hình Trung ương Trung Quốc ấn hành, Bắc Kinh, 2014, với những dòng rất xúc động: “Quá trình soạn thảo bản dịch này, khiến tôi có cảm giác như mình đang bước vào tận sâu đáy lòng của một con người, bước vào thế giới tinh thần của một dân tộc, tôi mê mẩn, ăn ngủ không yên… khiến tôi thậm chí muốn bộc lộ một điều gì đó, nảy sinh một ý tưởng bộc phát, không thể kìm nén, những cảm xúc đó khiến lòng tôi thổn thức không yên... Thơ của ông Trần Nhuận Minh đã gợi cho tôi quá nhiều cảm xúc mãnh liệt, và lối tư duy quá sâu sắc. Nhà thơ Trần Nhuận Minh đã dùng đôi mắt tinh tế, cách tạo dựng hình ảnh độc đáo, cùng nhân cách độc lập, được tôi luyện của mình, để phác thảo thành công bức tranh sinh tồn, phấn đấu và tư tưởng của dân tộc Việt Nam, thể hiện sức hấp dẫn nghệ thuật độc đáo và giá trị thẩm mĩ cao, với thủ pháp vô cùng tươi mới”. Và hai nhà dịch giả cho rằng, đó là thơ của Việt Nam ngày hôm nay “đang từng bước tiến vào văn đàn thế giới”. (Hoàng Thiên Hương, Hệ phát thanh Đối ngoại, Đài Tiếng nói Việt Nam, dịch từ tiếng Trung).
 Trong tập còn nhiều bài khác về các nội dung được đề cập, trong đó có các bài về tập Đối thoại văn chương, các chương trích từ các Luận văn khoa học về thơ Trần Nhuận Minh đã đăng báo… tất cả tạo thành một bức chân dung dày dặn, và nghiêm túc về nhà thơ Trần Nhuận Minh, một trong nhiều nhà thơ đã trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc và đi qua Công cuộc đổi mới đất nước đến ngày hôm nay. Hai tập tiếp liền nhau sẽ là nguồn tư liệu phong phú để bạn đọc tham khảo và có thể là sách công cụ tiện lợi cho các nghiên cứu sinh, nếu có nhu cầu tìm hiểu nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh từ năm 1960 đến nay.





([1]) Nhà thơ.
(1) Ông cũng là người đề xuất Giải thưởng Văn  học Nghệ thuật của UBND tỉnh Quảng Ninh 5 năm xét và trao 1 lần từ năm 1975,  Giải thưởng thơ Lê Thánh Tông trao hằng năm của Ủy ban MTTQ tỉnh QN từ năm 1988, đề xuất  xây dựng Điện thờ Lê Thánh Tông và Cổng tỉnh Quảng Ninh từ năm 1990. Ông cũng đề xuất lấy ngày Giải phóng Khu mỏ 25/ 4 làm Ngày Âm nhạc Quảng Ninh. Ngày 25/ 4/ 2005 Tỉnh ủy và UBND tỉnh Quảng Ninh đã họp báo tại Khách sạn Quốc tế Bảo Sơn, Hà Nội và TTXVN đã công bố sự kiện văn hóa đó trong số báo Tuần Tin tức, cuối tháng 4/ 2005 (NBS).
([2]) Nhà báo.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét