Thứ Ba, 2 tháng 6, 2015



Tác giả 7
                      TUYỂN TẬP THƠ & VĂN
                        “MỘT THỜI ĐÊ NHỚ”
                                Tác Giả 7

                                             
                   VĨNH PHƯỚC

         Tên thật: Nguyễn Thị Vĩnh Phước
                     Sinh năm 1959
Quê quán: Lam Thủy, Hải Vĩnh, Hải Lăng, Quảng Trị
Hiện ở tại Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Là cựu học sinh trường Trung học Nguyễn Hoàng - Quảng Trị
 (NK 1971-1975)
Nghề nghiệp: Trung học Sư Phạm


                

NGÀY ẤY NGẬM NGÙI
Bút Ký
NGUYỄN VĨNH PHƯỚC


Tháng 5 năm 1976 - mùa gặt chính. Đây cũng là thời điểm đầu tiên tôi bỏ lại sau lưng tất cả những mộng ước một thuở áo trắng học trò để bước chân vào đời trong vai trò mới. Tôi trở thành lao động chính. Nghề nghiệp: Trồng cây lương thực. Nơi làm việc: Hợp I - tên gọi tắt từ mấy chữ Hợp tác xã Nông Nghiệp số I của đội sản xuất quê nhà Lam Thuỷ - nơi mà mẹ con tôi dắt díu nhau trở về sau ngày 30/4/1975.

Ngày đầu tiên tôi tham gia lao động đúng vào mùa gặt. Đó là một ngày mùa hạ đầy nắng gió. Những cơn gió Lào quăng quật rát bỏng vào mặt, vào những bước chân non nớt của tôi đang cùng đoàn người tay cầm đòn xóc, tay cầm vằng (lưỡi hái) hướng về phía ruộng trũng có tên là Bàu, Đội. Ruộng ở đây sâu nhất làng, quanh năm ngập nước. Bao năm rồi chiến tranh, ruộng đồng bỏ hoang. Nghe đâu thời giao tranh ác liệt đã có không ít xác người nằm lại nơi đây mà chẳng được mai táng. Có lẽ đó là lý do để Bàu là nơi tích tụ nhiều thứ ô nhiễm nên bất cứ ai một lần lội xuống đó đều bị ngứa, gãi trầy da tróc vảy đến tận xương mà chưa “đã” ngứa. Tôi theo mọi người lội bì bõm trong ruộng để gặt lúa, lúc đầu còn lớ ngớ lắm nhưng sau một lúc để ý các thao tác của người bên cạnh, tôi cũng huơ vằng, cũng xoay xoay cho nắm lúa thật chặt tay rồi mới vung chiếc vằng cắt đánh soạt như bao người khác. Đáng sợ nhất là bầy đỉa, con nào con nấy dài thượt, mình trơn tuột đầy vệt ngang dọc rằn ri cứ lượn lờ chực bám vào chân người. Tôi vừa gặt vừa “cảnh giác cao độ” lũ đỉa đói. Vậy mà lâu lâu cũng có một con đeo tòn ten ở bắp chân. May có chị Thương gặt kế bên bảo tôi nhắm mắt lại - đừng nhìn - để chị bốc nó vứt ra xa. Buổi sáng đầu tham gia lao động sản xuất của tôi trôi qua trót lọt nhờ có mấy người bà con hàng xóm tốt bụng, thương đứa học trò vừa tập lội ruộng nên đã tận tình giúp đỡ, coi như tập sự xong. Đến trưa gánh lúa về mới là điều nan giải; coi mọi người xóc lúa, gánh lúa nhịp nhàng thế chứ không dễ gì đâu. Xóc lúa không đúng cách khi đưa lên vai chạy một quãng là lúa sẽ rơi khỏi đòn xóc ngay; không biết đi theo nhịp, lúa cũng sẽ bị “trơi”; mà việc xóc lại gánh lúa đã bị trơi thì càng khó hơn… Ôi thôi! Từ một đứa học trò chỉ biết sách vở, giờ bắt tay vào những công việc đồng áng mới thấy khổ làm sao!
Tôi còn nhớ như in lúc đi qua con mương Thiên Trung, gánh lúa trên vai quá nặng so với vóc dáng bé nhỏ của tôi. Nhìn xuống dưới mương nước đang chảy tôi thấy một con đỉa trâu - loại đỉa rất lớn hay bám hút máu trâu bò - to đùng nổi lềnh bềnh trên mặt nước làm tôi bủn rủn cả tay chân. Thế là“uỵch”, tôi té nhào xuống bờ mương. Chưa hết, cho dù bị té đau điếng, cái đòn xóc mang nặng hai bó lúa đè ngang cổ đến nghẹt thở, tôi cứ vẫn co cao hai chân, quyết không để chân đụng mặt nước dưới mương vì sợ con đỉa đánh hơi bám vào. Tôi cất giọng khàn khàn kêu cứu “Quốc … Quốc …ơi…!” Quốc là cháu họ của tôi, một thanh niên hơn tôi chừng vài tuổi. Quốc có làn da ngăm đen, mạnh khỏe và rất vui tính. Hắn luôn đi sát bên tôi trong những ngày đầu tập sự công việc đồng áng, hầu kịp thời giúp đỡ cho o học trò vừa chân ướt chân ráo vào nghề. Nghe tiếng kêu, Quốc quay lại. Thấy cảnh ấy hắn trách liền “ Đã nói rồi, để cháu đi sau o mà không chịu. Lỡ o có bị té thì cháu đỡ cho mà không nghe. Cứ kêu cháu về trước uống nước kẻo khát, may mà cháu đi chầm chậm chơ không thì o làm răng đây?” Dứt bài ca cẩm, Quốc nhẹ nhàng đặt gánh lúa trên vai xuống bờ ruộng rồi bước lại chỗ tôi. Bỗng dưng hắn ngó tôi đăm đăm rồi ôm bụng cười lăn lộn. Trời ơi! Tôi vừa sợ chân mỏi sẽ rớt xuống nước vừa mệt vì ngạt thở, hắn chưa chịu cứu tôi mà cứ đứng đó ôm bụng cười còn chỉ chỉ vào chân tôi nữa là sao? Tôi tức đến chảy nước mắt. Thấy thế, hắn hoảng hốt “O… o răng rứa? Thôi đừng khóc... đừng khóc, để cháu đỡ cho”. Nói xong hắn đỡ gánh lúa đang đè trên cổ tôi rồi vội vàng nắm chặt tay cho tôi bước qua bờ mương đất mềm nhão nhoẹt đầy cỏ lác. Quốc đặt gánh lúa của hắn lên vai tôi nói “O gánh gánh ni, để cháu bó lại gánh lúa tê rồi cùng về kẻo trưa rồi”. Nghĩ lại thấy tội hắn ghê nhưng cũng tức nữa, hắn đã cứu tôi nhưng từ đó hắn có một đề tài ưa thích để chọc ghẹo tôi. Cứ mỗi lần cùng đoàn người ra ruộng, ngang bất cứ con mương nào, hắn lại diễn cái màn tôi té bên bờ mương rồi cất tiếng vịt mái kêu Quốc … Quốc ơi!  làm tôi mắc cỡ muốn chết còn mọi người thì được dịp cười đau cả ruột.
Xong mùa gặt, chúng tôi lại tiếp tục làm đất ruộng, nào cày, nào cuốc… rồi gieo hạt, nhổ mạ và cấy lúa cho vụ trái. Cuốc đất ruộng được gọi là cuốc đất ải. Mấy ngày đầu, da tay tôi bong lên, sưng mọng nước rồi dập ra đau thấu xương. Thế nhưng cũng phải ráng cho kịp người ta. Cứ một hàng ngang đưa cuốc lên phặp… phặp, mình dừng lại xoa tay là bị tụt hậu liền, chuyện công điểm bình bầu cuối ngày có thể không cần thiết nhưng sợ cuối ngày lại nghe “phê bình” rằng ...thì là... là... là... là… là…thanh niên 17 bẻ gãy sừng trâu mà mà… mà… mà…cuốc đất giống... giống ông thầy phùy thủy hươ cây làm phép thì nhục lắm. Cũng may Quốc luôn cố ý đứng gần để “vớt “ cho tôi. 
Qua một vụ mùa đã quen với công việc đồng áng, hai bàn tay đã đầy vết chai, tôi tự tin hơn, không còn sợ sệt và lớ ngớ như trước nữa. Vừa làm việc, tôi cũng vừa hò vè đối đáp với mấy o, mấy chị lớn tuổi những câu hò mái nhì dặt dìu hoặc hò khoan hò hụi … để quên đi phần nào sự vất vả trên cánh đồng một nắng hai sương. Một lần, đội sản xuất của tôi xuống cấy ở ruộng Bàu. Nhìn qua đám ruộng bên cạnh, tôi thấy Hùng đang dắt trâu. Cũng như mấy anh chàng học trò vừa làm quen với ruộng đồng, Hùng chưa biết cày nên cầm sợi dây xỏ mũi con trâu to bự chảng đi trước để người đi sau cày hoặc bừa làm đất cho ruộng cấy, việc làm đó có tên là “dắt trâu”. Dắt trâu coi vậy chứ không dễ đâu, gặp con trâu chứng, hay lồng lên không chịu đi là người dắt trâu bị thợ cày nạt nộ cho tối tăm mặt mũi. Hùng là thằng bạn học lớp vỡ lòng với tôi ngày trước. Hồi đó chúng tôi học vừa xong lớp Một thì trường làng bị pháo kích đổ nát, nhà tôi cũng tan tành trong một trận đánh. Thế là tôi theo gia đình ra tỉnh học còn Hùng là con nhà lính nên theo cha vào tận Sài Gòn, mãi đến cuối hè năm 1975 hai đứa tôi mới gặp lại. Một ngày, anh Lam - con ông bác họ đồng thời là bạn học cùng lớp với tôi - đã đưa Hùng đến gặp tôi. Lam nheo nheo mắt hỏi tôi “Nhớ ai đây không?” Tôi thấy Hùng rất quen nhưng nhìn cái bảng tên trường thì lạ hoắc nên chỉ cười không nói. Hùng nhắc “Hồi đó hai đứa mình cùng ngồi chung bàn đầu ở lớp Một trường làng Lam Thuỷ đó”. À thì ra là hắn, đứa con trai ở xóm Sông ngồi bên cạnh tôi suốt năm học lớp Một của ngày xưa ấy. Trong lũ học trò nhà quê hắn nổi bật nhất lớp nhờ làn da trắng trẻo và áo quần sạch sẽ tươm tất. Gặp lại bạn tôi vui lắm, hỏi thăm nhau về gia đình và việc học hành mới biết ba Hùng đã tử trận nên mẹ hắn đưa con cái về quê. Để rồi bây giờ chúng tôi cùng dứt áo thư sinh để bước vào đời nông dân. Một thoáng nghèn nghẹn bất chợt kéo đến khiến tôi cay cay mắt. Hùng cũng thấy tôi, hắn hơi ngẫn người ra một chút rồi cười cười vội vã bước đi trong đám bùn ộp oạp. Tôi cũng chăm chú cùng mọi người cật lực cấy cho xong đám ruộng vì sợ chiều nước dâng khó cấy, dù đôi chân ngâm trong ruộng nước dơ ngứa ơi là ngứa.
Buổi trưa vừa về đến nhà là tôi vội rửa sạch hai ống chân, lau thật khô rồi xát cả cối gừng tươi trộn muối hột mạ tôi vừa giã nát chờ sẵn. Sáng nay, biết tôi đi làm ở Bàu nên mạ tôi đã làm sẵn món thuốc tự chế ấy trước khi con trở về. Nhờ thoa “bửu bối” của mạ vừa rát, vừa nóng nên chỉ làm chân tôi sưng tấy lên và đau nhức nhưng cũng bớt ngứa, không phải cào lòi cả da non như mọi người. Chiều đó, khi tập trung trên đường xóm để chuẩn bị xuống cấy ruộng Thiên Tả, nhìn chân của những người khác mới kinh khiếp làm sao!... Trời ạ! Đôi chân của họ không những bị trầy vi tróc vảy mà còn đủ màu sắc: chỗ thì xanh lè, chỗ thì tím ngắt, chỗ thì vàng vàng... Hỏi ra mới biết vì ngứa quá không chịu nổi nên ai cũng cào rách da rồi lấy khế chua hoặc ớt trái xát vô cho bớt ngứa. Khi da ngấm khế và ớt rồi lội xuống bùn thì chân họ biến thành màu sắc thập cẩm vậy đó. Mọi người tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy chân tôi không như họ, tôi liền truyền “bí kíp” của mạ tôi và ai cũng làm theo, nhờ thế lần sau dù vẫn ngứa nhưng chân cẳng mọi người cũng dễ coi hơn.
Hôm sau vào giờ nghỉ trưa Hùng đến thăm tôi, hai đứa vừa ngồi nói chuyện trên trời dưới đất vừa thi nhau đàn tơ-rưng vì ngày qua lội Bàu. Ai xuống Bàu về mà không thành "nhạc sĩ" thì chắc chắn không phải là người trần thế! Lúc về hắn ra trước hàng rào nhà tôi xách vô một nón ổi, từng chùm hai trái chín trắng bóc thơm lừng dúi vô tay tôi nói “Có người ở xóm Sông tặng bạn…” rồi đi thật nhanh ra cổng. Tôi ngơ ngác chưa kịp hỏi gì thì hắn đã biến mất tăm sau luỹ tre làm tôi cứ thắc mắc Ai rứa hè? Ai dấu ổi chín vào hàng dâm bụt nhà tôi rứa hè? Lạ thiệt!
Tháng ngày qua mau, mùa gặt vụ trái đến rất nhanh. Ở quê tôi để gặt hái kịp thời người ta thường có câu Mười bốn hơi xanh, rằm quá chín. Đó là câu nói lo sợ việc thu hoạch không sớm thì bị trễ vì thời tiết khắc nghiệt. Về mùa gặt tháng mười,  nông dân ra thăm ruộng vào ngày mười bốn thấy lúa chín chưa đều lắm, tính toán chừng vài hôm nữa thu hoạch để khi xay giã hạt gạo không nát. Nào ngờ vào đêm đó trời mưa lớn, những trận mưa kéo dài ngày nầy qua ngày nọ không dứt, nước dâng mênh mông rồi thành lụt, cả đồng lúa chìm ngập trong biển nước. Thế là lúa chín trên cây lớp bị thối, lớp lên mộng, thôi thì vớt được chừng nào hay chừng đó chứ biết làm sao được? Rằm quá chín là vậy. Từ đó nhà nông quê tôi lưu truyền câu nhắc nhở xanh trong nhà còn hơn tra ngoài đồng, vì thế nên mùa trái mọi người thường lo gặt sớm, đề phòng mưa lụt dù lúa mới chín vang vang. Con đường xuống ruộng Bàu mùa nầy nước lênh láng không đi được, chúng tôi phải ngồi trên ghe lấy đòn xóc chống xuống nước để lần vào ruộng. Mọi người lội nước ngang ngực đưa lưỡi vằng vớt để cắt từng nắm bông lúa nổi thành dề trên mặt nước. Người gặt; kẻ bó. Chúng tôi lội ì oạp trong nước. Khi chiếc ghe đã chất đầy những bó lúa ướt đẫm, mấy người phụ trách vận chuyển có nhiệm vụ đẩy ghe lúa về sân đội. Trời vẫn mưa như trút, nước từ con mương Thiên Nhì tuôn ào ạt, cả cánh đồng lai láng như mặt bể không còn phân biệt được đâu là bờ, đâu là ruộng. Mọi người lu thu trong những chiếc nilong tất bật vớt và chuyển lúa mặc kệ bầy đỉa mén con nhỏ như cọng tranh tha hồ bâu vào người. Gặt hái cực khổ thế nhưng ngày công mỗi người chỉ được vài ba lạng lúa ướt, đem về nhà rang rang giã giã xong nấu lên thì cơm thành cháo nên bà con không hẹn mà đều thành... kẻ cắp.
Chuyện nông dân ăn cắp lúa là chuyện dài nhiều tập, nói như mạ tôi là Bần cùng sinh đạo tặc. Thật là tội nghiệp cho người nông dân thuở đó, vì mỗi công lao động xuất sắc đến mùa chỉ được chia 3 lạng lúa ướt (lúa tươi, chưa phơi khén), còn công lao động học trò như tôi thì may ra còn một nửa. Được mùa. Lúa vàng cả đồng, vàng cả sân đội nhưng phơi khô xong là đóng bao chờ "trên" về chở đi. Ngày mùa mà người nông dân vẫn phải ăn độn. Đói. Thế là sinh ra ăn cắp. Họ ăn cắp chính cái họ làm ra. Một lần tôi có đọc đâu đó người ta viết mỗi buổi tối họp ở sân đội xong là đống lúa vơi đi, vì bà con ngồi họp bốc lúa cho vào túi. Sao mà nơi đó dễ dãi thế nhỉ? Ở Hợp I của tôi làm gì có chuyện đó. Ngồi họp: lúa một nơi, người một nơi; vô phận sự miễn đến gần. Làm sao mà bốc lúa bỏ túi được? Và thế là có ngàn lẻ một cách ăn cắp khác, cái khó ló cái khôn mà. Tôi nhớ lần gặt lúa ở ruộng Thiên Tả. Ngày hè ruộng khô ráo, những chẽn lúa no tròn nặng trĩu dập dềnh theo gió tạo thành một tấm thảm vàng thơm ngát mênh mông đến tận chân trời, chỉ nhìn thôi cũng đã thấy no. Nhưng lúa tốt mặc lúa, công lao động của xã viên hợp tác xã đã được ấn định rồi, không phải vì được mùa là chia nhiều lúa hơn đâu dù ai cũng thấm nhuần câu Làm tùy sức, hưởng theo lao động (!). Sau một ngày làm việc vất vả, tối về người nông dân còn ngồi nghe cán bộ thuyết giáo để mơ về một xã hội Làm tùy sức hưởng theo nhu cầu. Trong khi chờ ngày được hưởng theo nhu cầu một cách quang minh chính đại, họ cần đáp ứng một nhu cầu cấp thiết trước mắt là ăn. Có lẽ vì thế nên không ai hẹn ai mà họ vừa gặt, vừa suốt lúa cho vào túi. Và sau từng chuyến đưa lúa về sân đội những chị, những thím … vội vội vàng vàng đặt gánh lúa xuống là nhanh chân về nhà uống miếng nước, phơi lại nắm rơm hoặc cho heo ăn,… để trút nắm lúa chắc mẫm từ túi áo ra. Thu hoạch một ngày như thế gấp mấy lần lúa được chia từ ngày công lao động chứ chẳng chơi. Tôi thì không thể học tập điều ấy vì...  chẳng có gan..., bởi thế tôi chẳng tranh thủ được gì. Anh Thanh thấy vậy nhìn tôi cười cười “Eng tam miềng có cách khác, mần rứa chi cho mệt!". (Bây giờ nhớ lại, tôi vừa thương vừa buồn cười chuyện lấy trộm lúa của mình thời ấy). Chiều đó anh Thanh bảo “Vĩnh Phước từ từ rồi về với eng, đừng chạy tót về trước như mọi ngày đó. Mà phải theo bén gót eng nghe chưa?”. Vào thời điểm đó tôi đã biết xóc lúa cho mình và còn xóc lúa dùm cho chị Dàn, chị Vân, … nữa. Tôi hay chạy về trước thật nhanh để nghỉ ngơi, mặc ai làm gì thì làm, không thèm bận tâm.
Chiều xuống. Chờ mọi người rời ruộng hết, anh Thanh mới nháy mắt ra hiệu cho tôi và chị Dàn thủng thẳng xóc lúa gánh về. Anh Thanh đi trước, tôi và chị Dàn theo sau. Lạ chưa! Anh không đi đường ngoài xóm như mọi lần mà băng qua hàng tre để rẽ vào vườn nhà tôi. Dù thắc mắc nhưng tôi vẫn lặng lẽ gánh lúa chạy theo. Đến nơi, anh bảo tôi và chị Dàn đặt lúa xuống để xóc lại. Không nhìn hai chị em, anh vừa xóc lúa vừa cười cười nói “Chừ anh xóc 4 bó lúa thành 3 gánh, còn phần em 1 bó, Dàn 1 bó nghe chưa?”. Tôi hoảng hồn “Rứa làm răng mà gánh?”, Thanh cười “Yên tâm!” Nói xong, anh chỉ cách để ba anh em nối nhau gánh 3 gánh lúa chỉ có 4 bó về sân đội - nghĩa là gánh lúa đi trước và gánh lúa đi sau của anh Thanh và chị Dàn; tôi đi giữa: cái đòn xóc chỉ ké vào bó sau và bó trước của hai người kia thôi. Trong bóng hoàng hôn, người ngoài nhìn vào cứ tưởng ba người gánh lúa chạy lóc xóc nối đuôi nhau - chúng tôi phải chạy thật nhanh mới đánh lừa mắt thiên hạ được - về đến sân đội, cả ba anh em cùng quăng cái ào một lượt xuống đống lúa nên chẳng ai nhận ra. Thế là xong. Thật siêu đẳng! Chuyến làm ăn trót lọt nhưng tôi sợ muốn đứng tim. Sợ nhất là lỡ bị phát hiện thì các buổi tối họp thanh niên, tôi sẽ bị bêu danh dài dài từ làng nầy đến xã nọ. Mà tôi đang là thanh niên rộng rãi, tiêu cực như thế thì làm sao “phấn đấu” vào thanh niên tiền phong được nhỉ? *
Tối đó, khi đem chuyện khoe với mạ tôi, tưởng bà bất ngờ lắm, ai dè mạ tôi cười: "Hồi trước, đến mùa gặt nhà ông nội con đã bị đám thợ gặt ăn cắp lúa bằng cách ấy đấy". Trời! Thì ra chuyện ăn cắp nầy đã có từ xưa,  vậy mà tôi cứ tưởng đó là sáng kiến của anh Thanh nên phục lăn.
          Chuyện ăn cắp lúa ở ruộng Bàu mới là bi hài. Ngày mưa, những bông lúa vàng óng nặng trĩu ngã rạp mình trên mặt nước. Mọi người gặt lúa tuy hăng hái nhưng vẫn nghe đâu đây tiếng thở dài não nuột vì những “giã” lúa tốt như thế nầy thường đem đi nộp hết. Lần đó, mấy người có nhiệm vụ chuyển lúa từ ruộng về sân đội bằng ghe, thấy bà con gặt hái quá vất vả mà công cán chẳng được bao lăm, họ đã lén ông đội trưởng vùi mấy ghe lúa xuống cống Đạc Nhứt để chia nhau. Tối đó đi gặt về muộn, theo mật lệnh truyền tai, tôi cùng mấy người trong xóm dò dẫm ra cống lấy lúa. Khi ngang qua ngõ nhà bác Cối, trong bóng tối dày đặc tôi loáng thoáng thấy dáng người cao lỏng khỏng của đội trưởng, hình như đang rình rập gì đó. Thôi kệ! Tôi nín thở rão bước ra cánh đồng trước mặt, vì quen đường nên tôi tránh được những chỗ lầy lội trên đường xóm. Nghe bước chân, chú Sinh lên tiếng bảo tôi lại gần rồi chất một bó lúa ướt, nước còn chảy ròng ròng vừa vớt từ dưới cống lên cho tôi mang về. Đêm đó tôi mang về nhà đâu chừng ba bốn bó lúa ướt như thế. Mạ tôi mừng vì được “chia lúa” nhưng thương con đứt ruột, mạ xót tôi là đứa rất sợ đỉa mà phải đội những bó lúa như thế.


 Hồi ấy Hội thanh niên chia làm 2 thành phần: Thanh niên tiền phong là những thanh niên tiên tiến, gương mẫu - có cơ may được kết nạp vào đoàn thanh niên CS.HCM - nên họ làm lãnh đạo trong Hội thanh niên địa phương. Số còn lại gọi là thanh niên rộng rãi, ai phấn đấu tốt mới được kết nạp vào Thanh niên tiền phong. Khi tôi về làng, tất cả những thanh niên như tôi đều thuộc thành phần thanh niên rộng rãi, còn số thanh niên "kẹt cầu dài" đa số là thanh niên tiền phong. Mỗi lần Hội thanh niên họp xong, những thanh niên tiền phong đều ở lại để họp riêng, oai lắm!
Về nhà sau cả buổi chiều lội bùn chưa kịp ăn uống gì. Tôi nghĩ chịu cực một chút mà có thêm thúng lúa là tốt rồi, sức thanh niên mà, cái gì người ta làm được thì tôi cũng làm được, thế thôi. Mà trời thương hay sao nên bọn đỉa lúc nhúc dưới cống Đạc Nhứt bữa đó lại chê tôi, tôi đội lúa ướt mấy chuyến thế mà không dính con nào chứ thiên hạ không ai tránh khỏi. Đặc biệt có một người… thật là cười ra nước mắt! Hôm sau đi làm, một chị hạ giọng kể cho lũ đàn bà con gái nghe rằng tối qua đội lúa về xong, chồng của chị ra sân múc nước tắm, vừa tắm vừa kêu “Mạ mi ơi! Lạ thiệt! Răng mà tau có đến hai con chim ri?”. Chị vợ mắng “Làm mệt gần chết mà còn đùa dai?”. Anh chồng nhăn nhó “Tau nói thiệt! Không tin thì mạ mi bưng đèn ra đây soi thử coi”. Và khi chị vợ bưng đèn ra soi thì… Trời ạ! Một con đỉa to tổ chảng đang đeo lủng lẳng song song với … Nó hút máu no lắc lư nên phồng to như thế mà cũng chưa chịu buông. Ha ha ha… Đám phụ nữ cười lăn lộn nhưng vừa cười vừa xót xa.
          Thường sau tết là mùa nông nhàn. Thế là “trên” lên kế hoạch đi khai hoang trồng khoai, trồng sắn. Câu ca dao "Tháng giêng là tháng ăn chơi" của nhà nông lưu truyền bao đời đến đây xem như... bế mạc. Tôi nhớ lần đi khai hoang ở núi Trâu Trằn (eo ơi nghe cái tên đã thấy khủng khiếp!) để mừng hai huyện Hải Lăng và Triệu Phong hợp thành huyện Triệu Hải. Nghe nói vùng đất ấy ngày xưa là nơi lũ trâu rừng chọn làm chiến trường. Ngày ngày, có hàng đàn trâu rừng kéo đến để chọi nhau tranh ngôi bá chủ (?) làm cho cây cối ngã rạp cả vùng đồi núi. Vì thế khi ngang qua vùng nầy, những người đi rừng đã gọi là núi Trâu Trằn - gọi riết thành địa danh luôn.
Trời vừa mờ sáng, tiếng kẻng đã vang lên khắp xóm đánh thức người đi khai hoang. Những người có trong danh sách đi Trâu Trằn vội tập trung đầy đủ trước cổng chào của xóm. Ai nấy cơm đùm gạo bới, chăn mền, áo quần được xếp gọn vào chiếc balô và một cái cuốc “lưỡi gà” sắc bén vác trên vai. Từ xóm Bắc Tả, chúng tôi đi bộ vào xóm Sông, sang sông Vĩnh Định trên chiếc đò ngang của làng Lam Thuỷ khi sương còn giăng kín mặt nước. Con đường làng lên xóm Rú lầy lội qua đám ruộng Thượng Điền nhung nhúc đỉa, những bước chân vẫn lầm lũi đi tiếp. Trời sáng dần trên lối mòn đất cát quanh co, những bia mộ thấp thoáng trong lùm cây đã hiện rõ. Đâu đây mùi hoa dẻ thơm ngát ẩn khuất sau những ngôi mộ cổ. Đoàn người vẫn lặng lẽ  hướng về phía phía chợ Diên Sanh. Qua chợ, chúng tôi lại tiếp tục đi lên ngã ba Hải Lăng rồi theo con đường đất đỏ, như một đoàn quân ra trận mọi người nối nhau cùng thẳng tiến Trâu Trằn.
Rời nhà từ sáng sớm, lại phải vượt qua quãng đường dài nên bụng đứa nào đứa nấy thi nhau réo ùng ục... biểu tình. May sao khi nhóm chúng tôi đang cố vượt qua một con dốc cheo leo bên vách núi, bỗng nhiên cả mấy đứa đều hướng mắt nhìn về một cái gì trăng trắng nổi bật bên lề đường đất bazan đỏ quạch. A! thì ra là một khúc sắn chín khá lớn ai đó đi trước (hay hôm qua cũng không chừng) đã làm rơi. Thế là không thể bỏ qua, mấy đứa đều dừng lại. Anh Mỹ nhặt khúc sắn, lột hết lớp vỏ chang bên ngoài - cũng may nhờ lớp vỏ chang bao bọc mà lõi sắn bên trong vẫn trắng tinh, thơm phức. Lột chang xong, Mỹ bẻ chia cho mỗi đứa một khúc ngắn, chúng tôi ăn thật ngon lành. Tôi vô tư phát biểu Sắn chang mà ngon dữ hè? làm anh Mỹ thở dài tiếp lời Bụng đói thì ăn gì mà không ngon?
Lần đầu tiên lên núi, tôi thấy gì cũng lạ, con đường chênh vênh men theo triền núi đầy lau sậy, bên dưới là những thung lũng mù sương. Thỉnh thoảng một con chim rừng lẻ loi chao cánh cất tiếng hót lảnh hót rồi bay vút lên tận tầng không, để lại âm vang rung động cả núi rừng. Hai bên đường từng cụm hoa dại cánh nhỏ li ti đủ màu sắc chen lẫn với những cọng dương xỉ vươn ra từ vách núi trông như những bức tranh thêu sống động.
Đến lưng chừng núi thì đã quá trưa, tôi cùng chị Dàn, Thuỷ, Hoa, Thạnh, … tìm một bóng mát bên đường để nghỉ chân và mở gói cơm mang theo ra dùng bữa. Xong, chúng tôi hối hả đi tiếp cho kịp mọi người dù đôi chân đã rã rời khi vượt qua mấy chục cây số đường bộ. Cũng may, lần nào đi Trâu Trằn tôi cũng không phải mang vác gì cả. Cây cuốc thì có anh Mỹ hoặc Văn vác dùm; còn Lành - cô bé cùng xóm kém tôi chừng hai tuổi - cứ đòi gánh ba lô của tôi cho bằng được. Lành nói “Chị cho em gánh luôn chơ em gánh một cái ba lô của em không cân, khó đi lắm”. Thấy Lành dùng cán cuốc gánh hai chiếc ba lô chạy băng băng, miệng cười toe toét vì đã giúp được chị, tôi thương làm sao!
Trong chuyến đi đó có một chuyện tuy nhỏ nhưng tôi không thể nào quên được, mỗi lần nhớ lại tôi lại nghĩ thầm "Phải chi mình nán lại dăm phút...". Sự đời mấy ai ngờ được, nay còn mai mất cứ như là giấc mộng vậy. Lần ấy trên đường đi, khi đội xóm Tả của tôi đang leo lên con dốc thật cao thì thấy Phúc  - đội xóm Rú - ngồi dưới gốc cây bên vách núi cùng mấy đứa bạn. Thấy chúng tôi, Phúc vừa ngoắc vừa gọi “Phước ơi! Mỹ ơi! Phúc có chuyện bí mật muốn nói với hai bạn nì. Dừng lại đây chút đi”. Tôi thấy trời chiều rồi, sợ không theo kịp đội nên vừa đi vừa ngoái đầu nói “Chiều rồi... Thôi, để lên trại Phúc qua gặp bọn mình hi!”. Nghe thế anh Mỹ cũng bước theo. Phúc đứng lên nói vói theo câu gì đó tôi không nghe rõ vì đang vội. Ai ngờ chưa kịp gặp lại nhau thì đêm đó vì đói, Phúc cùng mấy người bạn bên đội hắn rủ nhau đi nhổ mấy bụi sắn của xã Hải Trường thì bị bắn chết tại chỗ. Buổi sáng nghe tin Phúc chết, chúng tôi bàng hoàng thương tiếc một đứa con trai tuổi xuân còn phơi phới, một mạng người chết oan uổng chỉ vì mấy củ sắn non. Nhưng rồi mọi chuyện trôi êm, không ai truy cứu và chuyện bí mật mà hắn định nói với hai đứa tôi cũng theo hắn mãi mãi nằm yên trong lòng đất lạnh.…
Vượt qua bao đèo dốc, cuối cùng chúng tôi cũng dừng lại giữa một vùng núi đồi bao la khi bóng cây trong nắng chiều đã ngã dài bên vách núi. Mệt thế mà chẳng ai dám nghỉ ngơi. Mọi người phải nhanh chóng túa vô rừng tìm vật liệu để dựng trại liền, nếu không khi đêm xuống đành ngồi giữa núi rừng hoang vu giá buốt nầy thôi. Đám đàn ông, con trai thì đi chặt cây: cây nào to dùng để làm cột làm kèo; cây nào nhỏ thì róc vỏ và gai góc sơ sơ rồi làm vạc giường để ngủ. Bọn đàn bà, con gái mỗi đứa một cái liềm, từng nhóm đi tìm và cắt cỏ tranh tươi về đan thành tấm, lợp mái nhà cho kịp trước khi trời tối. Xen lẫn trong đám cỏ tranh là những bụi cỏ lác bén như dao, khi đưa tay nắm lọn tranh để cắt, bọn tôi đứa nào cũng bị lá cây lác cắt đứt tay, máu chảy ròng ròng mà không dám than. Nghe nói ở rừng mọi thứ đều thiêng nên phải kiêng, bị đứt tay mà la đứt tay là cứ bị đứt liên tục nên đành cắn răng chịu đau. Những người lớn có kinh nghiệm mách nước rằng muốn cầm máu thì quơ đại vài cọng lá cây mắc cỡ non hoặc vài lá rừng, nhai nhai rồi đắp lên vết thương là cầm liền. Tôi làm theo và đúng như thế. Hay thiệt! 
Khi hoàng hôn lan tím cả núi đồi thì lán trại cũng vừa dựng xong. Chúng tôi vội vàng kiếm củi nấu cơm, khói bếp hoà với sương núi ôm trọn mái nhà tạm thơm mùi lá rừng ngai ngái. Giấc ngủ ở rừng chập chờn bởi những tiếng chân, tiếng hú của thú hoang cùng những đợt gió rừng thét gào trên ngàn cây vi vút. Trong màn sương đêm dày đặc, những ánh lân tinh lập loè khắp đồi núi. Người ta nói mấy năm trước nơi đây người chết vô số, có lẽ vì thế mà oan khí của họ đêm về lại chấp chới qua ánh lân tinh.
Buổi sáng, sau khi ăn vội vàng vài miếng, tôi cùng mọi người rời trại để đi khai hoang. Trên đường đi, chúng tôi gặp những đồi sim bát ngát, hoa tím đẹp đến não nùng. Có ai đó không cầm lòng đã cất tiếng hát Những đồi hoa sim ôi những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt. Vào chuyện ngày xưa…Câu hát bỗng đứt nửa chừng, có lẻ vì ai đó thúc cùi chỏ nhắc nhở hoặc tay ca sĩ ngẫu hứng chợt nhớ ra. Trời! Dám hát nhạc vàng sao? Dù là nơi núi rừng hoang vắng.
Nghe nói thời chiến tranh, vùng đất có tên Trâu Trằn này từng là nơi diễn ra giao tranh ác liệt của đôi bên. Những đồi núi trập trùng hiểm trở mang tên Động Ông Đô có hàng rào điện tử McNamara đã trở thành vùng đất chết trong hàng chục năm. Chính vì thế nên khi đến đây khai hoang và tháo gỡ bom mìn, chúng tôi không còn thấy bóng dáng một con trâu nào mà lại nghe mọi người kháo nhau về ông cọp ba móng. Đó là một con hổ hung tợn đã bị lính đóng ở Động Ông Đô bắn què một cẳng vào đầu thập niên 70. Núi rừng bom đạn trải thảm thế nhưng chẳng diệt được cọp ba móng mà khiến nó ngày càng hung dữ và khôn lanh hơn. Nghe đâu khi đêm về, con cọp thành tinh ấy thường lởn vởn quanh trại những người đi rừng.
Một lần có ông “thợ cội” * ghé trại tôi ngủ nhờ qua đêm, ông ta kêu mọi người đốt một đống lửa thật to giữa trại để ngăn cọp rình mồi vì nó rất sợ lửa? Mọi người lại kháo nhau rằng hình như con cọp ấy theo rình để bắt người thợ cội, vì lúc ông ta rời khỏi trại thì không còn nghe những tiếng kêu bép! bép!... vang vọng trong đêm khuya nữa. Tuy vậy chúng tôi vẫn nơm nớp sợ, vì không biết ông ba mươi ghé lại lúc nào và sẽ lượm ai đi.
Suốt 45 ngày trên núi đồi đầy bom đạn, Mỗi lần tập trung khai hoang là các cán bộ xã vác loa rao thật to Cách xa ra, cách xa ra mỗi người 2 mét. Không được đứng sát nhau! Cách xa ra, cách xa ra mỗi người 2 mét. Không được đứng sát nhau!... Đó là vì họ sợ trúng đạn nổ sẽ chết hoặc bị thương nhiều người. Tôi, Như Ý, Châu và chị Dàn cứ đứng sát sạt nhau mà cuốc. Chúng tôi thường nói hễ cuốc trúng thì mấy đứa cùng chết luôn chứ sống mà tàn tật khổ lắm. Thấy bọn tôi cứ xáp vô nhau, xã đội trưởng Khuynh chạy tới nạt “ Mấy o ni có nghe chi không? Xức ra, xức ra mà cuốc chơ, lỡ bị trúng đạn chết hết răng?”. Bọn tôi cười cười đứng dang ra nhưng khi xã đội trưởng quay lưng đi là lại xáp vô như cũ. Hồi đó đâu có nhiều lễ hội như bây giờ nên mỗi lần đi khai hoang, đi phá gỡ bom mìn hoặc đi thuỷ lợi, … bọn tôi xem như đi hội vậy. Hội khai hoang ở Trâu Trằn “hoành tráng” lắm. Bên đồi ni cuốc và hát hò, đồi bên tê cũng hát hò và cuốc. Đang hăng say cuốc, bỗng bên đồi xã Câu Nhi đang khai hoang nghe một tiếng nổ long trời, tiếng khóc la vang dậy, cáng võng chạy rầm rập… Ngay lúc đó, loa phóng thanh xã tôi cũng vang to không kém Tiến lên! Tiến lên! Tiếng hát át tiếng bom. Biến đau thương thành hành động. Tiến lên! Tiến lên! Chúng tôi cứ cuốc và cuốc, cứ vài nhát cuốc lại gặp mấy quả đạn mắc trong vỏ lon đồ hộp treo lủng lẳng trên vòng thép gai hoặc đạn 105 li, bom bi thì vô số. Tôi cuốc trúng một quả gì màu vàng sáng, to bằng nắm tay rất đẹp, hồi đó tôi vừa rời ghế nhà trường nên khờ lắm, đến nỗi hình thù các loại đạn và sức công phá của chúng ra sao cũng chẳng hề biết. Mấy đứa con gái tranh nhau cầm lên xem, trầm trồ khen đẹp rồi tôi kêu Quốc “Quốc ới ời ơi …! O tặng cháu nè…!” Quả vàng đẹp đó xoay xoay trên cao bay về phía Quốc. Hắn dòm lên rồi vất cuốc phóng như điên, vừa chạy vừa la “Ui o ơi! Quả đạn 79 đó, hắn nổ là chết a”. Tôi sợ hết cả hồn, may sao chưa nổ. Mấy người du kích đến cắm cạnh một nhánh cây báo hiệu để mọi người đừng đến gần. Tới trưa thì nổ, cát bụi bay mù mịt.
Tôi tiếp tục cùng bà con vỡ đất khai hoang trong sự thiếu thốn mọi mặt về những sinh hoạt hàng ngày. Cái chết luôn rình rập dù người ta bảo đất nầy đã được tháo gỡ bom mìn song thực tế thì bom mìn vẫn thỉnh thoảng cười để dậy trời tiếng kêu khóc. Mỗi ngày chúng tôi cuốc đất rừng, chặt sát gốc những cây gỗ cứng ơi là cứng. Có khi cuốc trúng vào gốc cây làm quăn cả lưỡi cuốc bằng thép. Để khai phá xong một vạt đất rừng chúng tôi phải đổ không biết bao nhiêu là mồ hôi và nước mắt, có khi đánh đổi cả sinh mệnh con người. Những làn da xạm nắng, những bàn tay cầm cuốc rướm máu đau buốt và những cơn sốt rét rừng nghiệt ngã cũng không tha cả những thanh niên trai tráng, lực lưỡng.
 Những người đi khai hoang Trâu Trằn thường đi theo đội - nghĩa là dân ở cùng xóm nên thường là bà con thân thích cả. Đội nào cũng có người lớn tuổi đi theo, họ không chỉ là tay nhiều kinh nghiệm, dày dạn trong lao động mà còn là bậc phụ huynh vừa bảo vệ, vừa quản lý bọn trẻ chặt
* **

Thợ cội: Là người đi rừng chuyên nghiệp nên họ thuộc hết mọi ngõ ngách của rừng. Họ vào rừng sâu để săn lùng những cây gỗ quý. Họ thường kín đáo, lầm lì và ít nói. Trông họ rất bí hiểm.
Theo truyền thuyết, thợ cội thường đi rừng một mình và hầu như suốt đời họ sống với rừng già. Đêm về, ông ta đốt một đống lửa to, dùng một khúc cây khoét rỗng ruột úp xuống đất để ngủ và khi nào bên cạnh cũng có một khúc cây để tự vệ. Rừng đêm lạnh, cọp thường đến hơ lửa cho ấm. Có khi con nầy đến rồi con khác đến, ông thợ cội từ trong chiếc giường ngủ đặc biệt lén thò tay ra cầm khúc cây hất nhẹ một cục than hồng vào một con cọp. Con cọp bị than nóng gầm lên tấn công con kia, chúng kéo nhau ra rừng để thanh toán nhau. Thế là ông thợ cội ngủ ngon. Chặt chẽ trong thời gian sống xa nhà. Chúng tôi rất đoàn kết và lo lắng cho nhau, đám phụ nữ luân phiên lo việc bếp núc ăn uống cho mọi người. Mỗi lần đến phiên mình làm chị nuôi, tôi về chợ Diên Sanh mua thức ăn cho cả đội, một mình tôi phải vượt qua hết núi nầy tới đồi kia với gánh thực phẩm kĩu kịt trên vai, có khi cả đi lẫn về cũng gần hết một ngày trời. Có lẽ những gian khổ đó đã ghi sâu vào ký ức tôi không thể phai mờ nên cho đến nay, thỉnh thoảng trong giấc mơ, tôi lại thấy mình đi trên con đường đồi núi chênh vênh đó. Thức ăn mua về chỉ dùng được trong vòng hai ngày nên muối và rau rừng là thức ăn chính của đội. Có hôm mãi lần theo những cọng rau rừng xanh mướt, tôi đi lạc lúc nào không hay. Chỉ biết khi ngẫng đầu lên thì thấy chung quanh lạ hoắc. Tay chân run lẩy bẩy nhưng tôi vẫn khu khư ôm chặt chiếc nón đựng đầy rau rừng. Tìm bóng râm, tôi ngồi phệt xuống, định thần lại cho tâm bình tĩnh để tìm lối ra. Tôi nhớ những người lớn tuổi có dặn rằng nếu lạc ở rừng thì cứ tìm suối hoặc sông, rồi men theo bờ mà đi thì sẽ tìm được đường về. Thế là tôi cố lắng tai nghe, đúng là có tiếng nước chảy đâu đây. Tôi lần dò bước tới, tiếng nước chảy càng lúc càng rõ rồi qua rặng cây, một khung cảnh đập vào mắt làm tôi kinh ngạc một cách thú vị. Trước mặt tôi là một dòng sông rộng lớn, nước trong văn vắt làm lộ rõ những viên đá cuội trắng tinh dưới đáy. Trong làn nước mát lạnh, từng đàn cá bơi lội tung tăng. Hai bên bờ sông, vài phiến đá phẳng phiu như được bàn tay vô hình bào gọt cho láng bóng. Cảnh đẹp của thiên nhiên vừa thơ mộng vừa hùng vĩ nhưng tôi không dám nán lại để thưởng thức mà nhanh chóng men theo bờ sông. Sau một hồi quanh co, tôi tìm lối về trại không mấy khó khăn. Hôm đó ai cũng vui vì được ăn một nồi canh rau tươi thơm ngon nhưng họ đâu biết rằng vì ham hái rau mà tôi suýt lạc mất lối về.
Khi đã quen nơi quen chốn, vào giờ nghỉ trưa chị Thương thường hẹn tôi lội dọc theo con suối nhỏ lên tận đầu nguồn, đến chỗ có một vòm cây che kín và mấy tảng đá nhỏ nằm ven suối tròn trịa rất đẹp. Hai chị em nghĩ nơi đây có lẽ chưa ai biết đến nên đã cùng nhau tắm giặt thật vô tư, chúng tôi còn cất tiếng ca những bài hát mình yêu thích giữa núi rừng hoang vắng mà không sợ bị ai nghe nữa chứ. Những khoảnh khắc ấy mới tuyệt vời làm sao!
Sau khi khai hoang xong, mọi người lại tiếp tục làm đất. Trong công việc chúng tôi cũng có những trò ma giáo, ăn gian vui đáo để. Đó là khi ban đo đạc của xã đến kiểm tra số đất khai hoang của từng đội để tính điểm. Đội của tôi do cậu Lộc - đội phó sản xuất - chỉ huy. Lần nào cũng thế, khi có “ông đo đạc” tới là cậu Lộc kêu tôi cùng làm việc. Tôi cầm cây sào dài 5 mét trên tay, cứ thế vừa gợi chuyện vừa đo đất. Biết đôi mắt “ông đo đạc” không nhìn xuống cây sào trên đất mà cứ mãi nhìn mặt tôi để kịp góp chuyện nên cậu Lộc cứ nháy nháy mắt ra dấu. Tôi hiểu ý nên cứ đo được một cây sào tôi lại lùi chừng nửa mét. Nhờ thế đội tôi lời quá trời luôn, đúng là làm chơi ăn thiệt! Người của đội tôi đa số là con gái yếu đuối, làm việc cành khơi vậy mà một ngày có khi tới ba, bốn chục điểm, gấp mấy lần công điểm lao động ở làng. (10 điểm/ngày là công điểm cao nhất ở làng). Thấy đội chúng tôi khi nào điểm cũng cao, các đội kia ức lắm mà không hiểu được lý do, họ cũng không dám nói ông đo đạc của xã thiên vị. Thấy họ tức, thím Thẩm xỏ tay vô túi áo, đứng ưỡn ngực khoe đội ta phần lớn là dân chiêu chang mà lao động giỏi hơn đội họ toàn cá trê (cứng cựa, mạnh). Nói xong thím còn cười cười ra vẻ đắc thắng làm thiên hạ tức lộn ruột.
           Khi đất đã lên vồng, chúng tôi bắt đầu trồng khoai và sắn trên đất mới. “Trồng khoai bén tay, trồng sắn bay bụi”, đó là những kinh nghiệm của nhà nông: những ngày mưa chúng tôi trồng khoai và ngày nắng thì trồng sắn. Buồn cười nhất là Trà, hắn cao lớn lênh khênh mà lại lười biếng. Cuốc chừng vài nhát là hắn mang cuốc đi “tra” lại, vì cán đi đường cán, lưỡi văng đường lưỡi. Cậu Lộc bực lắm nên cứ la hắn bằng những câu nói thật nhanh “ Tau... tau là cái thằng hay la mà mi răng cứ nhác nhớn dữ  rứa? Rứa chơ khi bình bầu thì cứ đòi xếp loại A vì to con đó”. Còn tội nhất là chú Học, thấy Hoa và Thạnh nhỏ con lại ốm yếu cuốc không kịp, chú thường chạy lui cuốc dùm cho mấy đứa mà không tính toán gì cả.
          Khi vạt đất của đội đã phủ đầy những ngọn khoai lang và hom sắn, chúng tôi lại quay về với ruộng đồng, chỉ để lại vài người trông coi và giữ trại. Sau một thời gian, lại lên rừng để thu hoạch sản phẩm. Lần nầy do trại cũ bị sập nên chúng tôi lại phải chặt cây, cắt tranh dựng trại mới. Thấy đám đất bên cạnh trại Hải Thiện sạch sẽ, đội tôi làm nhà tạm trên đó để ở. Hằng ngày chúng tôi nhổ khoai sắn chất thành đống cho người từ hợp tác xã lên chở về. Trưa nào cũng thế, mọi người hẹn nhau ra những chỗ đã thu hoạch để mót sắn. Trưa đó tôi định vác cuốc đi mót sắn thì anh Mỹ kêu lại bảo đừng đi nữa. Tôi sợ không đi mọi người lại cho mình là “tư sản”. Đang dùng dằng thì Văn tới nói “O đừng đi mót nữa, ở nhà cũng có sắn cho o xắt phơi không xuể đó”. Anh Mỹ ghé tai tôi nói nhỏ “Để họ đi ra rừng hết rồi bọn mình lấy sắn ra xắt phơi. Hôm qua khi dựng cột làm nhà anh thấy có một kho sắn ngay dưới chỗ mình đang ở đó”. Nghe vậy, tôi liền kêu Lành, thím Thẩm và mấy người trong đội ở lại lấy sắn dưới hầm lên chia nhau. Tôi sợ khi về lại không gánh nổi nên chỉ lấy một ít cho có rồi cùng mọi người xắt phơi. Lành nói “Chị cứ lấy cho nhiều kẻo uổng, sắn tốt quá nì, để em xắt và gánh về cho”. Tôi cười nhìn hắn “Em không nghe người ta nói Ham của rừng rưng rưng nước mắt à?” Bọn tôi phơi sắn lát trắng cả đồi. Mấy người đi mót sắn về thấy vậy ngạc nhiên hết sức. Chúng tôi cũng không biết vì sao lại “trúng” được hầm sắn tốt như vậy. Vài ngày sau khi sắn lát đã được phơi khô và cất vào bao cẩn thận thì mới thấy mấy người lạ xuất hiện. Họ tìm gì đó dáo dác, hỏi thì họ không nói mà đứng xa xa chỉ chỏ vào trại của chúng tôi.  Đến lúc đó tôi mới hiểu ra hầm sắn nầy là do nhóm người đó chôn dấu khi đi thu hoạch cho hợp tác xã của họ, định sau sẽ trở lại lấy chia nhau. Thế mà bọn tôi không biết đó là của ăn cắp, cứ tưởng "trời cho" nên chia nhau hết rồi. Thật là...! Người mất đành ngậm đắng nuốt cay mà người được cũng phải ngậm tăm. Thôi thì đành đổ cho câu ông trời cho ai nấy hưởng chứ biết làm sao?
          May mà số sắn trời cho ấy xắt nhằm mấy ngày nắng lớn nên khi phơi khô lát sắn trắng bóc, thơm tho. Còn những lần sau gặp ngày mưa, chúng tôi đành ngâm cả bao sắn xuống suối cho khỏi bị hư, đợi có nắng mới đem phơi để gánh về cho nhẹ. Mà sắn xắt nhằm ngày mưa dù phơi có khô nó cũng không ngon, lát sắn bị thâm xỉn. Nhờ mấy bao sắn mót từ rừng đem về nhà, bà con trong đội đã chống đói được một thời gian đáng kể.
          Tuy việc làm vất vả, nhưng ngày tháng sống ở rừng đôi khi cũng thú vị. Vào những trưa nắng gắt mặt trời như rọi sát trên đầu, thừa lúc người lớn nghỉ trưa, bọn trẻ lại hẹn nhau phơi nắng rảo khắp đồi núi rồi lội dọc con suối nhỏ tìm kiếm những điều mới lạ. Có khi bắt gặp cả một khu rừng đầy hoa sim, hoa mua tím ngát hay lạc vào những vùng đất hoang sơ đầy cây cao bóng cả như chưa từng có dấu chân người. Tôi nghe người ta kể xưa những người đi rừng có khi ngang qua một khu rừng đầy chuối, đầy mít hay đầy cam trái chín vàng ửng. Họ đánh dấu định ngày về sẽ ghé hái một ít nhưng khi trở về thì không bao giờ gặp nữa, hầu như họ đã đi lạc qua một vùng đất khác. Người ta bảo đấy chính là của rừng, hái ăn tại chỗ thì được chứ đừng hòng mang về. Chúng tôi muốn đi sâu vào rừng già để tìm những khu rừng trong chuyện kể đó nhưng làm gì có thì giờ, đành phải trở về thôi vì tiếng kẻng báo ca chiều đã vang lên.
          Chiều ở rừng thường đến sớm, mới thấy mặt trời hoe hoét đó mà chỉ một lúc là sương mờ đã giăng bủa khắp nơi. Những ngày mưa chiều xuống càng nhanh hơn. Trời sầm sập tối, nhìn ra ngoài bìa rừng chỉ thấy một không gian mịt mờ ảm đạm. Những lúc như thế, tôi lại nhớ đến những ngày còn ở nhà, mỗi chiều đi làm đồng về muộn, khi ánh hoàng hôn đang nhuộm màu bóng tối trên con đường đất quanh co phủ bóng tre xanh dẫn lối vào nhà, tôi thích nhìn bóng mình in trên con đường thân thuộc dưới ánh trăng non đầu tháng. Vào mùa trăng, khi bước đi trên con đường đầy trăng lấp loáng sau những bóng tre, tôi vu vơ nhẩm lại bài tập đọc từ hồi còn nhỏ Ngày chưa tắt hẳn trăng đã lên rồi. Mặt trăng tròn, to và đỏ…  
           Khi đêm xuống, rừng bao phủ trong một màn đêm huyền bí đầy đe dọa, đâu đây tiếng thú hoang gầm gừ từ xa vọng về; tiếng vạc kêu sương nghe khắc khoải và cả tiếng vượn hú càng tăng vẻ thê lương. Nhưng đến mùa trăng thì lại khác, trăng ở rừng như gần gũi với chúng tôi hơn. Rừng núi trong đêm trăng không còn dễ sợ, những cây lá, cảnh vật lấp loáng dưới ánh trăng trông thật thơ mộng, huyền ảo. Trăng tỏa bóng mát êm dịu xuống cả một vùng đồi núi bao la. Mấy đứa tuổi thanh niên như tôi thường cùng nhau thả bộ ngắm trăng. Chúng tôi đi từ con dốc nầy qua con dốc khác, vừa đi vừa ca hát, chuyện trò. Khi dừng lại ở một đỉnh dốc cao nhất, cả bọn bày trò chơi. Đề tài: Bạn thích nhất đêm trăng nào trong tháng. Tại sao? Trò chơi nầy lúc nào cũng mới mẻ và đầy hấp dẫn, nhất là với mấy đứa mới nhập hội “chơi trăng”. Những lúc như thế, chúng tôi gần như quên hết mọi gian lao, vất vả; chỉ còn người và trăng bàng bạc cả núi rừng và bàng bạc cả những tâm hồn non trẻ. Có lúc mãi chơi quên cả thời gian, khi chúng tôi chia tay nhau về trại nghỉ thì tóc tai, áo quần đứa nào cũng ướt đẫm sương đêm.
Ngày ngày công việc cứ đuổi theo chúng tôi không ngơi nghỉ, vừa thu hoạch khoai, sắn ở rừng xong là lúa ở làng đã vàng rực cả đồng. Vụ mùa năm sau vui hơn vì có bà con ở Trung Du về giúp sức. Tôi còn nhớ có chú Tùng, trước khi đi xây dựng vùng kinh tế mới Trung Du có nhà ở bên kia sông. Chú thường lấy đòn xóc của tôi làm điểm tựa để bó lúa. Khi thấy lúa đã đủ chuyến, chú xóc cho tôi một gánh lúa thật gọn và chắc đặt trên bờ ruộng rồi hô to V…ề …ề …. Thế là mọi người ùa nhau chạy đi tìm những bó lúa vừa ý để xóc và gánh về, trong khi đó tôi đã được chú đặt lên vai gánh lúa sau khi gọi “Bé con, lại đây…” Với gánh lúa vừa ý trên vai, con đường về sân đội đối với tôi dường như ngắn lại, vừa thả hai bó lúa thơm tho xuống là tôi quày quả về nhà ngay. Ở nhà, mạ tôi lúc nào cũng nấu một nồi chè hoặc cháo đậu múc sẵn từng chén đặt trên bàn cho con gái. Cháo mạ nấu thật ngon, hạt gạo chín mềm quyện với đậu đỏ bùi bùi thơm phức. Khi ăn, tôi thường đồ cháo ra lòng bàn tay, chén cháo đông lại gọn gàng trông thật thích mắt, cắn một miếng cháo rồi lại cắn một miếng đường đen. Tuyệt! Có ai đã từng ăn cháo kiểu như tôi không nhỉ? Hãy thử một lần để cảm nhận nhé! Với tôi trong miếng ăn giản dị ấy sao mà ăm ắp tình mẹ bao la quyện lẫn với hương vị quê nhà thật là đậm đà, tha thiết. Cũng có khi là mấy khúc mía cơm rượu ngọt lừ - loại mía da tím, mềm và dòn - đã róc vỏ sạch sẽ hoặc chùm ổi chín thơm phức; đó là những thứ mạ tôi  trồng lại trong vườn nhà sau ngày hồi hương. Tôi là chúa lười ăn nên mạ phải nấu đủ thứ để trên bàn như thế, mỗi chuyến lúa về nghỉ giải lao, tôi thường rủ chị Dàn và mấy đứa trong xóm ghé nhà ăn bữa lỡ của mạ để dành cho tôi. Những trưa hè nắng gắt đi làm đồng về, tôi thường dừng lại một lát trước cổng nhà mình để nghỉ ngơi; để tận hưởng cái mát mẻ từ bóng tre tỏa xuống. Cổng nhà tôi là một mái vòm mát rượi được uốn chụm đầu nhau từ hai bụi bông kiểng thật to, hàng rào trên lối vào cổng luôn được cắt xén thẳng tắp. Ngày nào cũng thế, từ những cành xanh vòng cung thành cái cổng xinh xinh ấy đong đưa những đoá hoa cánh mỏng đỏ tươi mới nở như những chiếc lồng đèn rực rỡ. Ngày hè hoa càng nở nhiều hơn, có khi những chiếc lồng đèn bằng hoa ấy thi nhau nở, xúm xít từ cổng đến mặt đất. Hai bên đường vào sân là hai hàng huệ tây nở đầy hoa hồng tím, những đoá hoa có màu sắc thật ngọt pha lẫn mùi hương nồng nàn của các loại hoa khác trước sân nhà tạo cho tôi một cảm giác thật dễ chịu. Có khi tôi chưa vội vào nhà mà dừng lại ở bậc thềm chái nhà đầu hè để ngắm những chùm hoa lựu lập lòe, lòng lại mơ hồ về một câu thơ của cụ Tiên Điền ngày trước. Những lúc rảnh rỗi, tôi thường chăm chút cho từng gốc cây, bụi hoa và việc làm đó đối với tôi thật là thú vị!
Thời đi học tiếp sau ngày 30/4/75, tôi nhớ có học một bài thơ ca ngợi lao động ở miền Bắc gì đó mà có câu "Không cho đất nghỉ, không ngừng tay ta". Câu đó thật đúng với cuộc sống của người dân ở quê tôi ngày ấy. Việc làm luôn tay, kể cả ngày mồng một tết cũng tiếng kẻng vang xóm kêu gọi bà con tập trung để "ra quân" trồng cây đầu năm. Làm cực thế mà có đủ ăn đâu, những lúc đi làm đồng xa phải đem bữa trưa theo, tôi nhìn bà con nhai khoai sắn thay cơm mà lòng xót xa quá đổi. Tôi thì khá hơn vì mạ tôi không còn tuổi lao động nên bà có quyền làm ăn cá thể. Những tưởng con gái đang tuổi lao động chính đi làm nuôi mẹ già, đằng này nhờ mẹ già chắt chiu nuôi con gà, trồng cây rau, cây cải mà con mới có bữa ăn đầy đủ; còn những gia đình như “chị Dậu” thì không thiếu đâu, dù họ làm quần quật quanh năm suốt tháng không nghỉ ngày nào như nhà văn hiện thực phê phán Ngô Tất Tố đã viết.
Vừa xong việc trên đồng cạn, tôi lại cùng mọi người tham gia khai hoang đồng sâu ở Đồng Dương. Hình như bất cứ lúc nào có chuyến đi dài thì đêm trước ngày xuất phát, chúng tôi cũng phải họp nghe triển khai kế hoạch để mọi người quán triệt vấn đề rất khuya, dù cán bộ phổ biến gì bà con cũng nhất trí cao hết. Gà gáy eo oóc mới họp xong, mỗi người về nhà lục đục lo sửa soạn gạo muối, vật dụng xếp vào ba lô chuẩn bị cho chuyến đi ngày mai. Xong xuôi, lên giường nằm chưa nóng chiếu thì kẻng báo thức đã vang lên. Tôi mắt nhắm mắt mở vừa thức dậy thì mạ đã nấu cơm chín từ lúc nào. Trong khói bếp thơm mùi rơm mới, mạ vừa giục tôi gắng ăn để có sức mà đi, vừa hơ mấy ngọn lá chuối non trên lửa cho mểm để gói cơm cho tôi mang theo.
           Đường vào ruộng sâu rất xa, có khi chúng tôi đi bằng thuyền, có khi đi bộ phải lội qua không biết bao nhiêu là con mương rộng và sâu, nước ngang ngực. Tôi thích đi bằng thuyền hơn vì vừa đỡ mỏi chân, vừa khỏi sợ bị đỉa đeo khi băng qua đồng; lại được nhìn cảnh vật lạ mắt hai bên bờ sông. Thuyền trôi qua những bến nước vang vang tiếng cười đùa của đám con nít tập bơi. Cánh đàn ông, con trai cứ nhắm vào mấy o đang chao thùng múc nước hay mấy chị giặt giũ đưa bàn tay đập vải thành tiếng bồm bộp lan xa trên mặt nước, để cất tiếng hò trêu ghẹo. Lắm khi mấy o, mấy chị cũng hò trả treo đáo để không kém. Thích nhất là khi thuyền qua vùng Lương Chánh - Thượng An, nhìn những bãi bắp xanh mướt trên đất bồi ven sông bạt ngàn thật là trù phú. Từ con sông Vĩnh Định, thuyền rẽ vào một nhánh khác về phía Vân Trình để vào ruộng sâu.
Đoạn sông này vừa nông vừa hẹp nên có những khúc sông không cần dùng mái chèo mà chỉ dùng sào để chống. Khi đến ruộng thì mặt trời đã đứng bóng, tôi cùng bà con rời thuyền, bờ sông ở đây nhỏ như bờ đê ở làng tôi vậy. Trên bờ sông, chúng tôi ăn vội bữa trưa mang theo, vừa ăn xong là phải xuống ruộng ngay kẻo chiều nước dâng không làm được lại mất một ngày. Vì suốt ngày lội ruộng nên chúng tôi chả cần dựng lán trại, đêm về chỉ cần vác cái mui thuyền lên úp trên đê để làm chỗ ngủ. Vì đông người nên mấy đứa con gái như tôi, Hoa, và các chị Dàn,  Ba, Vân, Thương, … nhường cái mui ghe cho cánh đàn ông. Phía nữ chúng tôi lấy cuốc của mình cuốc mạnh xuống đất cho lưỡi cuốc dính cứng vào đất rồi cứ hai đầu cán cuốc bắt chéo lại với nhau thành điểm tựa. Từ các điểm tựa ấy, chúng tôi lấy nilong treo lên làm mái che, thế là có ngay cái trại tạm thời để ngủ. Khi trời sáng thì "dỡ trại": nilong mang vào người; cuốc vác trên vai. Thế là xong! Có khi ngủ nửa đêm nước sông dâng cao tràn lên bờ, chúng tôi ai nấy ướt lói ngói, rơm và củi đem theo để nấu ăn cũng vắt ra nước, những cái bếp Hoàng Cầm ướt nhẹp nên cơm sống và khê là chuyện bình thường.
          Buổi sáng mùa đông rét buốt, gió lạnh thấu xương. Tôi cùng mọi người chuẩn bị đi làm. Từ trên bờ sông nhìn đoạn đường phải lội qua thấy mà ngao ngán. Xa xa, trên những mô đất nhô lên giữa mặt nước mênh mông có những con chim to xù cất tiếng kêu nghe sao mà thảm thiết. Tôi hỏi chú Học "Loài chim chi kêu mà nghe thảm rứa chú hè?”. Chú Học mím mím môi, nhìn trời nhìn nước một lúc rồi tỉnh bơ trả lời “Chim nớ có tên là Ui chao ôi! Ui chao ôi!…”. Tôi và mọi người cười chảy nước mắt, nhưng lắng nghe thì tiếng chim kêu như thế thật! Có lẽ nơi đây đồng không mông quạnh, quanh năm nước ngập, ruộng đồng bao la vắng vẻ quá nên những con chim đó mới cất tiếng kêu buồn da diết vậy. Trời mưa, mưa không ngớt. Chúng tôi rét cóng tay; môi tím tái; răng va vào nhau lập cập. Lạnh thế nhưng ai nấy đều phải vác cuốc trên vai rồi cùng ào xuống ruộng, lội vào tận chỗ khai hoang của đội mình để làm việc. Đến nơi, mấy đứa con gái có nhiệm vụ lội trước, dùng liềm cắt dọn cỏ để cho nhóm đàn ông theo sau cuốc ruộng. Từng nhát cuốc vung lên, phập xuống. Đất đâu chẳng thấy mà chỉ thấy vấy lên từng mảng bùn phèn tan vào nước hoặc quánh lại trôi lềnh bềnh cùng đám cỏ lác. Chúng tôi nhìn nhau, đứa nào đứa nấy mặt mũi lấm bùn. Thỉnh thoảng, Hoa hét lên một tiếng kinh hoàng và vọt chạy té sấp té ngữa khi quơ phải một con rắn trong đám cỏ lác. Còn đỉa ở đây thì nhiều vô kể, những con đỉa to chi mà to lạ! Có con bằng con lươn chứ chẳng chơi, con thì cuộn tròn như con ốc, con thì lượn tới lượn lui dài lằng ngoằng thấy mà nổi gai ốc cùng mình. Nghe đau và khó chịu ở chân, tôi kéo chân lên và quay lại nhìn thì ôi thôi: một con đỉa dài thượt đã "đo" hết ống chân tôi. Vừa sợ vừa ghê, tôi bặm môi nghĩ Một là mi chết, hai là tau chết rồi cố hết sức dùng cái cuốc lưỡi gà sắc bén gạt một phát từ trên xuống, không biết chết hay không chứ tôi thì bị nhát cuốc kéo rách một mảng da máu chảy ròng ròng. Dù đau lắm nhưng vì quá kinh hãi nên tôi không dám nhìn lui nữa. May mà rớt đằng nào không biết.
          Trời lạnh quá, lạnh đến nỗi cá từng đàn không bơi mà lờ đờ trong nước, gặp người chúng cũng không lẫn trốn được. Chúng tôi vừa làm vừa bắt cá, Văn và Sinh bắt được nhiều nhất, chú Học thì chịu, không bắt được con nào ra hồn. Mỗi lần nghe chú la lên A! đây rồi, ai cũng quay sang nhìn thì... Trời ạ! Chú lại đưa lên một con cá to bằng điếu thuốc, những tràng cười hi, ha… lại vang vang trên mặt nước. Mới qua buổi trưa mà mọi người đã bắt được gần đầy thùng cá. Chiều đó lúc trở về, tôi cùng chị Dàn, Hách, Sinh, Học, Quốc chèo thuyền qua chợ Vân Trình mua gia vị về kho cá. Chú Hách hồi đó để ý chị Dàn nên cứ nằn nì o bán hàng thêm cho một khoanh đường táng để tặng chị Dàn (Ôi! Một mối tình đơn phương chỉ dám nhìn và trao… táng đường…). Đến bữa cơm tối, mọi người ăn cá nhiều hơn cơm. Còn tôi có một nồi cá đặc biệt do ông bác cùng xóm - mà sau nầy là ba chồng tôi - kho riêng trong cái nắp cà-mèn.  Bác biết tôi không ăn cá trê, cá lóc nên đã lựa mấy con cá rô, cá trắng nhỏ xíu để kho riêng cho tôi. Thật là cảm động! 
Hết chuyện ăn đến chuyện ngủ. Buồn cười nhất là lúc bắt đầu đi ngủ, thấy chú Trụ bước ra đổ hết nước uống trong nồi rồi úp luôn cái nồi xuống đất, ai nấy nhao nhao “Chú đổ hết nước, đến khuya khát lấy chi mà  uống?” Chú Trụ cười đáp tỉnh queo “Chơ lúc tối ai cũng ăn mặn cá mần răng không khát? Mà khát thì phải uống nước,mà uống vô thì mắc tè, mà mắc thì phải đi chơ nín răng được? Rứa có phải tau tra, bây cho nằm ngoài làm ranh giới mà cứ hết đứa ni lại đến đứa tê đi vô đi ra, bước qua bước lại trên người tau cả đêm. Rứa thì mần răng tau ngủ? Đổ nước đi là thượng sách!”. Nghe chú nói, dù bị khát khô cổ nhưng ai nấy cũng không nín được cười. 
Sau mấy ngày, ruộng làm xong đã đến lúc cấy lúa. Mạ non ở làng được chất đầy từng thuyền đưa vào ruộng, tất cả mọi người đều cắm cúi cấy thật nhanh vì cứ khoảng ba giờ chiều là nước dâng mênh mông, không thể cấy được. Mang thân đàn bà con gái luôn khổ hơn đám đàn ông. Khi xuống ruộng, mấy ông chỉ đánh một cái quần cộc, tối về tắm chỉ cần nhúng nước rồi vắt cái vèo phơi lên là xong. Còn phụ nữ thì khác, những chiếc quần chéo đen từ miền Bắc đưa vào phân phối cho giới nữ lao động rất chi là đặc biệt. Cái thứ vải chi mà chỉ cần giặt một nước là phai màu, khi lội ruộng, nước phèn ngấm vào trở nên mốc thếch. Thứ vải chéo* đó, chỉ cần ngấm nước là nặng chịch, trời nắng phơi cả ngày chưa chắc khô chứ nói chi là trời mưa? Bởi thế, khi đi làm chúng tôi thường mặc những chiếc quần còn ỉn ỉn - chưa khô; lại thiếu xà bông giặt nên chuyện bốc mùi là chuyện bình thường. Thiệt khổ hết biết!
Rồi cũng đến lúc thu hoạch, việc gặt lúa ruộng sâu vất vả hơn ruộng cạn nhiều. Cũng may ruộng ở đây mỗi năm chỉ làm được một vụ. Mỗi lúc gặt hái xong là chúng tôi thở phào, mừng trút bớt một gánh nặng của năm nay.
           Mùa gặt vừa xong cũng là lúc thanh niên đi làm thuỷ lợi Đồng Dương. Trên  sông Vĩnh Định, từng đoàn thuyền chở thanh niên các xã của huyện Hải Lăng cờ xí rợp trời, phèng la đánh inh ỏi đổ về Đồng Dương. Vì tôi thuộc loại sợ đỉa ác chiến nên được đội phân công lo hậu cần. Với cái bếp là một hố đất nhỏ vừa đặt được cái soong nấu khoảng 20 long gạo và một đống rơm luôn bị ướt vì trời mưa. Mỗi ngày đêm tôi phải nhóm lửa, nước mắt chảy tèm lem để nấu khoảng năm bữa ăn cho mấy chục người trong đội. Này nhé: Suất cơm đầu tiên trong ngày lúc nấu lúc ba giờ sáng cho số thanh niên đi tát nước về ăn khuya.
* **
*Vải chéo đen: Loại vải thô nhuộm đen bán phân phối cho người lao động tay chân. Còn  người lao động trí óc thì được bán “quần xi áo lon”(những thứ vải nhẹ và tốt hơn do Trung Quốc sản xuất). Hồi đó mỗi người lao động được bán phân phối vải mỗi năm đủ may một bộ áo quần. Khi nào hợp tác xã nộp lúa nghĩa vụ vượt mới được bán thưởng cho cả đội một khúc vải đủ may một cái quần chéo. Vì thế bà con thường nói đùa chia nhau mỗi người mặc một ngày. Nhưng thường chúng tôi nhường cho người nào nhà đông người lao động.)
. Nấu cơm xong, hôm nào tôi cũng cầm đèn ra sau bếp soi cho mấy đứa mới về nhìn cho rõ mà bắt đỉa bu vô người vì phải dầm chân dưới ruộng để tát nước. Sau đó tôi nấu tiếp suất cơm thứ hai vào lúc sáu giờ sáng. Mười một giờ nấu bữa trưa xong là lên thuyền để đưa cơm ra tận công trường. Khoảng bốn giờ chiều lo cơm tối rồi tám giờ tối nấu bữa cuối ngày cho số người đi trực đê ban đêm ăn. Có hôm nước lên mạnh quá khiến kè đê bị vỡ, mọi người phải nhảy xuống dòng nước đang chảy xiết như thác đổ để giữ đê. Hàng chục người cả nam lẫn nữ đứng sát vào nhau, tay siết chặt tay làm thành một bức tường người mặc cho con nước hung hăng cuồn cuộn chảy. Trên bờ, những người còn lại ra sức cuốc, gánh và đổ từng thúng đất xuống để ngăn dòng nước. Trên khúc đê vừa được đắp cao, tiếng đờn, tiếng hát của đám văn nghệ tuyên truyền thuộc phòng Văn hoá thông tin huyện cũng thi nhau hét Đôi bồ câu đang bay về hướng. Anh cùng em đi ra nơi công trường. Gió lộng trời mây chim hót hoa đưa hương... vang trời. Lâu lâu chiếc loa phóng thanh lại hô hào Hải Vĩnh đang là con chim đầu đàn của huyện Hải Lăng ta, đã đắp được .... mét đê thuỷ lợi…, các xã khác cố lên! cố lên!... Một lát,  tiếng loa lại vang lên nhưng lần này là xã khác… Kiểu "bắc loa" đó được gọi là động viên tinh thần để mọi người hồ hởi, phấn khởi ra sức lập công trong lao động. Mà quả thật! Tự dưng nghe tiếng loa thúc giục, tôi cũng thấy tim mình đập rầm rầm. Tiếng loa cũng làm cho không khí công trường thuỷ lợi thêm phần rộn ràng, nhộn nhịp. Nhóm cuốc cho đất vào trạc sắt; nhóm gánh đất lên đổ trên đê; nhóm đứng trên đê ngước đất để nện xuống cho chặt, nhóm nầy toàn là nam giới. Đây là dịp để các anh chàng ga-lăng ra tay, các chàng thấy cô nào ưng ý là luôn ngước sớm - nghĩa là cô gái gánh đất chưa tới nơi chàng đã chạy vội đến ngước dùm một quãng. Các cô dù đôi khi bụng chẳng có tình ý gì nhưng cũng chớp mắt cưòi duyên để hắn mở lòng bao tạ làm dùm cho đỡ mệt.
Ngoài việc lo bếp núc, có lúc tôi cũng đi theo nhóm lấy đất cỏ về trồng cho những khúc đê mới để giữ đất. Việc trồng cỏ nầy đỡ tốn công chăm sóc và cỏ cũng dễ sống hơn. Hai ba người cùng chèo thuyền đi thật xa để tìm những thảm cỏ đan kín trên mặt đất, người muốn lấy đất cỏ phải cuốc thật khéo để làm sao mảng đất khi được dỡ lên vẫn còn nguyên cỏ. Chúng tôi nhẹ nhàng xếp chúng lên thuyền, khi đã đầy thì chèo thuyền về trồng lên đê rồi lại đi tiếp. Công đoạn này không đơn giản đâu nhé! Trồng cỏ phải có kỹ thuật và mang tính thẩm mỹ cao mới được ghi điểm ngày công lao động cho từng mét đê thuỷ lợi đấy.
          Ngoài thủy lợi Đồng Dương, tôi đã từng cùng mọi người đi làm thuỷ lợi nhiều nơi như ở Hội Yên, Hải Ba, Lam Thuỷ, Thi Ông, Triệu Sơn, … mà chẳng nơi nào dễ, dù rằng những cái khó ấy không hề giống nhau, nhưng nhờ sức trẻ nên chúng tôi đã vượt qua tất cả. Và vào một ngày tôi tham gia công trình thuỷ lợi Nam sông Thạch Hãn (đắp Trấm).  
          Thực hiện chủ trương Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước trên con đường tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa, khi hơi xuân năm 1978 chưa tàn thì công trình thủy lợi có tên là Trấm ở phía Nam sông Thạch Hãn khởi công. Thế là thanh niên nam nữ của 3 tỉnh Thừa Thiên - Quảng Trị - Quảng Bình được điều động về Trấm để xây dựng công trình. Trước tình hình đó, người già thì lo lắng đủ thứ - nhất là con gái chưa chồng xa nhà trong điều kiện như thế; nhưng đám trẻ thì vô tư khi nghe tên mình trong danh sách đi làm thủy lợi đắp Trấm, mãi đến khi rời làng mới nghe lòng nao nao.
          Mấy ngày trước khi lên Trấm, tôi và Liễu - nhỏ em cùng xóm kém tôi hai tuổi - đã hì hục chặt một vác tre, ngồi chẻ và vót đến chảy máu tay. Hai đứa định làm một cái giường đem theo lên Trấm để ngủ. Nhưng đến ngày đi thì giường vẫn chưa làm xong mà nếu có xong thì làm sao hai đứa tôi vác đi bộ từ nhà lên Trấm - một chặng đường trên hai chục cây số? Vậy là hai đứa đành cõng hai chiếc ba lô trên lưng. Chúng tôi ra đi, bỏ lại sau lưng ruộng vườn xanh ngát với những bông lúa vừa trổ đòng đòng; bỏ lại cả nỗi nhớ thương và lo lắng của mẹ già cùng những thanh tre làm giường ngỗn ngang sau hè nhà. Lên Trấm làm xong mọi thủ tục trời đã tối thui, tôi đem cất những dụng cụ làm việc vào phía sau lán trại. Lạ quá! Sao cứ một bước thấp lại một bước cao hụt chân suýt té thế nầy? Tôi nhủ thầm Ở đây họ trồng khoai mà răng lại lên vôồng tròn tròn ri hè? Đêm đầu tiên ở Trấm nhớ nhà quá tôi không sao ngủ được dù chỗ nằm cũng khá êm: đó là một chiếc giường đơn nhỏ của anh Mỹ - ông xã của tôi bây giờ. Thấy tôi lên, Mỹ nhường lại cái giường tre tự tay anh trau chuốt rất đẹp cho tôi dùng riêng. Liễu vì không có giường nên phải ngủ chung với mấy đứa khác, hắn buồn thiu. 
Sáng sớm hôm sau, khi sương mù còn giăng kín tiếng kẻng đã vang rền khắp các trại. Tôi thức dậy cùng mọi người ra sân của Đại đội Hải Vĩnh để tập thể dục. Nhìn quanh, thấy có mấy người trùm kín mền từ đầu đến chân. Nếu không biết mà bất ngờ gặp những cái mền phết đất ấy ngọ nguậy theo động tác thể dục trong sương mờ, có lẽ tôi sẽ chết khiếp vì chúng cứ y như là hình ma vẽ trong truyện tranh vậy. Có người vừa tập vừa ngoác mồm ngáp dài không dứt, hai mắt thì nhắm trít lại trông thật buồn cười. Trời ơi! Tập thể dục cho có sức khoẻ mà như thế nầy thì hại sức khoẻ thêm thôi. Trời sáng dần, tôi đi vòng quanh lán trại để xem mình đang ở chỗ nào vì từ nhỏ đến giờ tôi chưa hề đến nơi này. Thì ra đây là bãi tha ma của vùng Như Lệ. Ngoài các con vật thân mềm tôi cũng sợ ma không kém, vậy mà tối qua tôi đã bước lên bước xuống trên các ngôi mộ quanh trại, còn nghĩ đó là vồng khoai nữa chứ! Tôi sợ đến bủn rủn cả tay chân. Nơi đây là một nghĩa địa lớn của vùng đất Quảng Trị gần La Vang. Phần đất lán trại chúng tôi ở được dựng trên các ngôi mộ vừa được xe ủi đất san bằng, còn chung quanh vẫn đầy những nấm mộ tròn tròn sát nhau chen lẫn với lau lách hoang vu. Thật là khiếp!
          Ngày nào cũng thế, chúng tôi ăn sáng bằng một loại hạt có tên là bobo. Bobo có sức đàn hồi như cao su vậy, ngâm từ đầu hôm để sáng đun nấu hết củi mà khi ăn vẫn nhai trệu trạo vì không chịu mềm. Sau này nhiều đứa đau bao tử chắc cũng bởi di chứng bobo. Bữa trưa có món đặc biệt hơn: A trưởng Lành xuống nhận phần ăn cho 10 đứa là hai thau sắn với một nhúm muối sống nguyên hột nằm bên góc thau. Nhìn phần ăn sau một buổi sáng gánh đá “thuỷ quân lục chiến” bọn tôi chỉ biết thở dài đánh sượt. (À! Chúng tôi đặt tên loại đá xanh, rất rắn, cục nào cục nấy to tổ chảng là đá “thủy quân lục chiến” đấy). Thuỷ lấy chân đá thau sắn lăn tròn xuống gầm giường rồi cả bọn lên giường đắp chăn nằm khóc, trong nước mắt chỉ nghe bập bệu mỗi hai tiếng Mạ ơi! Khóc và ngủ cho quên cơn đói, khi nghe tiếng kẻng báo đã đến giờ làm mấy đứa lại hè nhau lôi thau sắn dính cứng dưới giường ra, phủi phủi đất cát, mỗi đứa cạy một miếng nhăn nhăn với hột muối cho có rồi đi làm ca chiều. Bữa cơm tối thịnh soạn gồm một thau nhỏ lưng lửng cơm cho mỗi phần năm người ăn với thau canh gì không biết, chỉ thấy trong nước đùng đục dài ngoằng một miếng dưa chua. Nghe nói là canh nấu với cá lóc nên tôi nhịn luôn dù không thấy miếng cá nào cả. Đặc biệt trên mỗi thau cơm có thêm năm lát mì nhỏ được làm từ bột mì trắng, nhưng chúng tôi chưa hề được nếm vị ngon của lát mì đó bao giờ. Lý do: bọn con trai cứ đi làm về là chạy qua bên lán nữ bốc hết những lát mì nằm hớ hênh trên mỗi thau cơm xơi hết, chúng nó không cần điệu đàng kỳ cọ rửa ráy tay chân như lũ con gái đâu. 
Trong lán nam có mấy đứa con trai "trời đánh". Không hiểu sao mà chúng ác ơi là ác! Có lẽ vì cuộc sống lúc đó quá cực khổ nên chúng cần xả stress? Hay tại nghịch ngợm và phá phách là bản chất? Bọn chúng cứ như là dân đại ca vậy. Có sáng thức dậy bọn con gái bị mất hết quai nón nhung, có đứa mất tấm nilong, … Thủ phạm là mấy cái bụng đói meo của bọn con trai, đêm qua chúng lén lấy rồi đem đi đổi bánh bột lọc và bánh bèo hết rồi. Nhiều đêm đói mà chẳng kiếm chác được gì, bụng rỗng khó ngủ bọn chúng lại bày trò. Mấy đứa Hoàng, Bưởi, Thúc, Minh, Lãng, … diễn lại Mùa hè đỏ lửa trên Đại lộ kinh hoàng. Tụi nó phân vai: đứa nào nhỏ làm con đeo cứng trên lưng mẹ, giả giọng con nít kêu mạ ơi mạ ơi… nheo nhéo. Đứa nào mập mạp thì làm mẹ vừa cõng con chạy vừa luôn miệng trả lời mạ đay, mạ đay…Mạ đang tìm coi cha con rớt chỗ mô rồi… Mấy đứa khác lại giả bộ tật nguyền chống nạng; còng lưng làm người già và cả làm con nít níu nhau chạy, khóc la inh ỏi. Chúng còn chia làm hai phe đánh nhau rất hăng: đứa làm lính bắn đạn chíu chíu; đứa lái xe tăng ầm ì bắn pháo ùng oàng; đứa dang tay làm máy bay liệng tới liệng lui thả bom miệng ầm ầm; đứa đội nón tai bèo hô tấn công khản hơi; đứa vờ trúng đạn bị thương bò la bò lết kêu van hay bị chết nằm vắt vẻo... Thôi thì chẳng thiếu cảnh nào. Những âm thanh khốc liệt một thời được tái hiện thật sống động nhưng cách diễn lại cố ý chọc cười. Diễn bên lán con trai riết ít khán giả cũng chán, thế là chúng kéo qua luôn lán bên nữ để diễn tuồng khiến bọn con gái cũng mất ngủ theo.
Có một buổi chiều vừa đi làm về, Hoàng liền chạy qua nói với tôi “Đêm ni có chi xảy ra thì VP cũng đừng sợ nghe chưa? Cứ ngủ đi, đừng mở mắt ra dòm làm chi” Hắn còn nói thêm “Tụi tau bàn với nhau phải nói cho mi biết, vì nếu mi sợ mà chết thiệt thì không ai đẻ kịp mà đền cho mụ Khoá mô”. (Khóa không phải là tên mà là cách bà con trong làng gọi tránh tên tục, vì ngày trước ba tôi có theo học chữ Nho). Nghe hắn nói, tôi không yên tâm chút nào nên vặn vẹo hỏi mãi, cuối cùng Hoàng phải nói ra điều bí mật. Thì ra, bọn hắn kiếm đâu được mấy khúc xương và chiếc đầu lâu nên định bày trò. Kế hoạch của tụi hắn là tối nay sẽ bắt đom đóm lén thả vào mùng của mấy đứa con gái sợ ma, chắc chắn mấy o ni sẽ tốc mùng mà chạy ra ngoài và khi chạy sẽ đụng phải xương và đầu lâu chúng treo sẵn ở cửa ra vào. Ôi thôi! Con gái sợ ma mà gặp thế thì chắc chắn là la hét, kêu khóc rền trời. Khi đó các yêng hùng mới xuất hiện cứu mỹ nhơn trong tiếng cười thỏa thích. Nghe kế hoạch thất đức của tụi hắn tôi tá hỏa tam tinh nhưng cũng chẳng dám ho he, vì tụi hắn mà thù là khó sống. Tuy đã biết trước tối nay lũ ác nhơn sẽ hù ma, nhưng khi liên tưởng tới xương và đầu lâu cùng đom đóm lập lòe tôi vẫn nghe rờn rợn. Tôi không dám bật mí mà tối đó chỉ khuyên mấy đứa con gái nên túm lại ngủ chung với nhau một đêm dù chật chội, còn mấy cái giường trống vẫn cứ giăng mùng rồi đặt mền gối như có người đang ngủ. Mấy đứa trong lán không biết chuyện gì nhưng vẫn làm theo răm rắp, vì chúng rất tin tôi. Khoảng 9 giờ đêm, Lãng  với chức vụ trưởng ban bảo vệ (người có quyền đi kiểm tra đột xuất các lán) chạy vô lán nữ kêu “Có một cái bóng áo quần trắng xóa, tóc dài phết đất vừa vô trại nữ, ai mô ở đó để ban bảo vệ kiểm tra!” Rùng rùng sau Lãng là bọn con trai quái ác vừa chạy vừa la Bắt con ma. Bắt con ma. Đứa hô đứa "tranh thủ" thả đom đóm vào mùng, đứa treo vội các vật hiếm lên cửa ra vào rồi dông tuốt ra ngoài, hí hửng ngồi chờ kết quả. Bọn tôi ngó qua thấy bên giường của Huệ, Liễu và Niềm, Thuỷ đom đóm lập loè bay đầy trong mùng, có con to đỏ lòm đến khiếp. Trên các cửa ra vào, ở khoảng lưng chừng một cái đầu lâu trắng hếu đu đưa với mấy khúc xương dài ngắn đang tòn ten trước gió thật dễ sợ. Bọn tôi rụt cổ và kéo chăn trùm kín mít. Một lúc thấy không có động tĩnh gì, tụi nó quay lại để xem thử thì thấy cả lán nữ im re nên đành thu dọn hiện vật rồi ra về tiu nghỉu như mèo bị cắt tai. Tuy thất vọng vì kế hoạch phá hoại đã chuẩn bị chu đáo bất thành nhưng bọn chúng cũng chẳng có lý do gì để trách tôi được.
Công việc nặng nhọc lại thiếu đói nên bất cứ lúc nào trêu chọc được bọn con gái là bọn con trai ra tay liền. Hình như đó là liệu pháp kích thích lòng vui sống của chúng vậy. Có lần thằng Minh bắt một con rết to bự chảng, thằng Một thì quấn một con rắn đen thùi lùi còn ngo ngoe quanh cổ, lâu lâu hắn thè lưỡi liếm vô mình con rắn một phát rối nuốt ực trông phát khiếp. Hai thằng phát-xít cứ làm như vô tình lang thang qua lán nữ, đi tới đi lui, xáp vô đứa ni xáp vô đứa tê làm bọn con gái chạy tơi tả còn hơn chạy giặc. Tôi cũng rất sợ nhưng cố bình tĩnh nhẹ nhàng kéo Cúc lảng dần ra ngoài cổng trại của đại đội rồi núp sau một chiếc xe Jeep bị hỏng. Tưởng được yên thân, không ngờ mới được một lát thì Võ Công Diên và Hồng Lam cũng vác đờn ra đó ngồi đờn hát. Hai đứa tôi ngó trốn không yên nên lò dò đứng dậy định đi chỗ khác, ai dè Lam cười nói “Hai o tưởng trốn ở đây là khỏi sợ à? Có ba người bị chết cháy trên xe đó!” Trời ơi! Đúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa.
          Một hôm vào giờ giải lao trên công trường, chúng tôi đang ngồi nghỉ thì Bưởi tới hỏi “Trong mấy đứa, đứa mô sợ rắn thì giơ tay lên!” Tôi thiệt thà giơ tay lên liền.  Huệ, Chủng, Lành ngó tôi nói “ Mi nói sợ là hắn chọc đó, phải nói không sợ”. Lam bước tới hỏi dồn “Còn đứa mô sợ nữa không?”. Ba đứa còn lại đều nói không sợ, không sợ... Nghe thế Lam chỉ tay ra lệnh “VP qua bên tê ngồi, để mấy đứa không sợ ngồi đây coi có sợ không cho biết”. Tôi ngoan ngoãn làm theo, bò lên mặt đê thay vì ngồi ở triền đê với mấy đứa bạn. Tôi sợ lắm, đụng vô con rắn chắc tôi chết ngất. Chờ tôi đi rồi, Bưởi huýt sáo miệng một tiếng nghe thật du côn, Thúc ở đâu liền xuất hiện với một con rắn rất to toàn thân vằn vện thấy ớn. Hắn đung đưa con rắn rồi thình lình tung vào ba đứa con gái. Cả Chủng, Huệ, Lành cùng thét lên rồi lăn tròn xuống lòng đê thuỷ lợi lởm chởm những đá nhọn hoắt. Tôi hoãng hồn nhìn theo, dưới lòng đê cả ba đứa nằm sóng soài, ba cái nón bài thơ mới tinh gãy gọng, con rắn cuộn chặt vào Chủng làm nó hét váng trời. Thật là hãi hùng! Sau lần đó, đêm nào cũng nghe tiếng hét của Chủng trong giấc ngủ. Có lẽ ám ảnh hôm đó đã trở thành những cơn ác mộng hành hạ nó. Thật là tội nghiệp!
           Mấy đứa con trai ác nhơn cứ tiếp tục hành lũ con gái chúng tôi để giải khuây - dù chúng chẳng thù hằn hay ghét bỏ gì. Đến giờ tôi cũng không hiểu sao chúng ác như thế? Sáng nào cũng vậy, bọn con trai quỷ quái làm vệ sinh xong là đổ hết nước trong thùng. Số nước mà bọn con gái chúng tôi phải vượt quãng đường xa lởm chởm đá mới gánh về được. Có khi nước gánh về gần đến lán chợt bị vướng chân té nhào, thế là công cốc. Trò chơi ác khiến ai cũng phải dậy sớm, nếu dậy trễ một chút là không có nước để rửa mặt. Trong nhóm nữ, có 2 cô dành nhiều cảm tình cho chàng Mỹ nên sáng nào cũng thi nhau dậy thật sớm lấy nước để dành trong lon sữa guigô cho chàng rửa mặt. Mỹ biết ý mấy đứa mà cứ giả lơ và đem chia cho tôi một lon nước. Thiếu ăn đã khổ, thiếu nước càng khổ hơn nên nước ở đây quý lắm. Ai tình nghĩa lắm mới để dành một ít nước tặng nhau đấy.
Công việc đắp Trấm hàng ngày vẫn thế, từng tảng đá xanh nổ tung lên cao ầm ầm bởi công suất của bộc phá; rồi cuốc, xúc, gánh và đổ. Chúng tôi chạy đi chạy lại từ dưới lòng đê qua triền đê đầy đá sắc nhọn để lên tới mặt đê thuỷ lợi. Tiếng hát “Con kênh ta đào chưa có nước chảy qua. Chỉ có nắng mùa hè nóng bỏng. Mồ hôi muối lưng áo em bạc trắng...” xuyên suốt một vùng đồi núi mênh mông như mang nỗi buồn tuổi mới lớn của chúng tôi.
Một buổi sáng trong lúc chuẩn bị đi làm, Mỹ qua lán nữ nói với tôi “Sáng ni tui đi tháo gỡ bom mìn theo phân công của ban chỉ huy…”. Câu nói ngưng lại nửa chừng nhưng tôi đọc được nỗi buồn và sự lo âu trong mắt anh. Tôi không nói gì được, chỉ lặng lẽ gói cho anh một cái bánh mì và vài táng đường. Khi anh quay đi, tôi nhìn theo mà lòng phấp phỏng vì việc làm ấy lành ít dữ nhiều. Cũng may lần đó Mỹ trở về an toàn làm tôi mừng muốn khóc dù lúc ấy chúng tôi chưa là gì của nhau cả. Có lẽ những chăm sóc nho nhỏ trong cuộc sống gian khổ đó đã kéo chúng tôi lại với nhau.
Hồi đó, tuy khó khăn vậy nhưng riêng tôi vẫn dồi dào thức ăn. Cứ mỗi lần có người lên Trấm là mạ tôi gởi cho tôi rất nhiều thức ăn như khoai luộc, đường, bánh kẹo, … Mạ còn gởi cả gạo để tôi đổi gạo lấy bánh mì, cứ một long gạo là đổi được hai ổ mì để chống đói. Hồi đó bánh mì thuộc loại thực phẩm cao cấp đó nghe. Nhưng số thực phẩm dự trữ của tôi thỉnh thoảng cũng bị ... chia phần. Chia cho các bạn đồng cảnh ngộ thì do tôi tự nguyện rồi nhưng… tôi bị chia phần mới tức chứ. Không phải người đâu nghe, mà là các loại động vật nho nhỏ quanh đây, có lẽ chúng cũng đói nên lặn lội tìm kiếm. Chuột, gián thì chạy hà rầm khỏi nói rồi, tối nào nằm ngủ tôi cũng chùm kín mền dù trời nóng hay lạnh vì cứ sợ chúng xơi nhằm chân mình. Một lần đi làm về tối, tôi mò mẫm tìm cục đường đưa lên miệng cắn cho đỡ mệt. Chưa kịp nhai thì sao tóc đâu mà vướng vào miệng mình quá chừng vậy nè? Tôi đưa tay phủi phủi mới phát hiện ra. Trời ạ! Không phải tóc mà là lũ kiến đen - còn gọi là kiến hôi - chúng đang tranh nhau ăn vụng cục đường tôi để dành, bây giờ tôi ăn chúng. Thế là tôi nôn thốc nôn tháo. Sau lần đó rút kinh nghiệm xương máu, muốn ăn gì tôi phải vỗ vỗ kiểm tra trước khi đưa vào miệng.
Song, tuổi thanh xuân thường biết tìm vui trong gian khó, có như thế chúng tôi mới sống được chứ? Có những đêm khó ngủ chúng tôi lại cùng nhau hò đối đáp, những câu hò đâm bắt tuỳ hứng đôi khi cũng vui đáo để và khiến cho các đội khác có phần kiêng nể cái lán toàn con gái của Hợp I vốn nỗi danh với câu hò “Ai về Hợp I mà coi. Con gái Hợp I cầm roi dọi chồng”. Hi hi… chúng tôi còn chua thêm là … nếu chồng cùng Hợp I thì không thèm sắm roi (!). Điều đó làm mấy anh chàng Hợp I nở mũi nhưng cũng thắc mắc Tụi hắn nói không thèm sắm roi thì sắm cái chi hè???
Chuyện dài của ngày ấy càng nhớ lại càng ngậm ngùi. Thương cho mình một thời mới lớn đã phải chịu quá nhiều thiệt thòi, gian khổ.
Hai năm sau, gia đình tổ chức đám cưới cho anh Mỹ và tôi. Rồi tôi cùng gia đình chồng dắt díu nhau đi tìm miền đất mới, bỏ lại sau lưng một miền quê đầy nhớ thương và gian khổ. Đất phương Nam mênh mông đãi người khách lạ. Cũng như bao người dân Quảng Trị bỏ xứ mà đi thuở ấy, gia đình tôi đã chọn được đất lành để an cư lạc nghiệp. Dù cũng phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có cái ăn, cái để nhưng đời sống của chúng tôi dễ thở hơn. Gia đình tôi sống bằng nghề nương rẫy nên tôi thoát khỏi nạn sợ đỉa. Ngày làm việc vất vả thì ban đêm chúng tôi ngủ thẳng giấc, không phải dự những buổi họp hành dài lê thê đến khi gà gáy nữa. Còn khi trời mưa hay nghe người thấm mệt là chúng tôi có quyền ở nhà nghỉ ngơi hay đi thăm bà con đâu đó. Chúng tôi cũng không phải ăn cắp vật phẩm do mình làm ra và khi ăn ngon cũng không phải lo sợ, dấu diếm... Một thời gian sau, khi cuộc sống nơi vùng đất mới đi vào nề nếp, vợ chồng tôi đã tiếp tục học để lấy các bằng cấp cần thiết và đổi nghề. Bây giờ chúng tôi đã trở thành những giáo viên được học trò cũng như phụ huynh các em quý mến.
Ba mươi năm nhìn lại, nghĩ đến buổi thiên cư ngày ấy mà không khỏi giật mình nhưng cũng đầy nỗi tự hào. Chỉ là đi tìm miền đất sống mà những người dân lương thiện đã bỏ hết mà đi như trốn chạy. Nhà cửa, đất vườn và cả những sản phẩm làm ra đều để lại y nguyên để tránh sự phát hiện của chính quyền địa phương. Rồi một sáng mù sương, chúng tôi lặng lẽ rời làng như những chiếc bóng. Sau mấy ngày lây lất từ bến tàu nầy đến bến xe kia, cuộc hành trình trên những chuyến tàu, xe chật như nêm đã đưa những con người mệt mỏi đến một vùng đất hoang hoá lâu ngày đầy cây lùm và lau lách. Rồi đúng là Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm. Vùng đất hoang ngày ấy bây giờ đã thành một miền quê trù phú quanh năm nước ngọt trái lành. Tự hào lắm thay! Tự hào rằng mình đã can đảm dứt áo ra đi để tìm tương lai cho con cháu. Tự hào rằng mình đã vượt qua bao gian nan thử thách của cuộc đời để sống cho đến ngày nay mà lương tâm không hề hổ thẹn.
Ba mươi năm đã trôi qua, những đứa con vợ chồng tôi sinh ra từ mảnh đất phương Nam nầy giờ đã khôn lớn, đã được học hành đến nơi đến chốn. Chúng đã vào đại học bằng con đường thẳng tắp chứ không phải khựng lại vì hai chữ lý lịch như cha mẹ của chúng ngày nào. Xin cảm ơn miền đất phương Nam đã như người mẹ hiền dang tay đón nhận chúng tôi. Mai đây, nơi này sẽ trở thành quê hương của lớp con cháu đời sau. Cả chúng tôi, một ngày nào đó khi trở về cùng cát bụi cũng xin gởi nắm xương tàn vào lòng đất bao dung nầy. Còn Quảng Trị chỉ còn là cội nguồn ghi trong gia phả. Nhưng quê hương ơi! Cho dù miền đất đó đã một thời ghi dấu trong tôi nhiều kỷ niệm ngậm ngùi nhưng sao trong lòng cứ mãi nhớ thương, thương nhớ. Tình hoài hương cứ vấn vương theo ngày tháng tha phương… Thỉnh thoảng tôi kể cho các con tôi nghe chuyện quê hương, chuyện của cha mẹ một thời mới lớn. Chúng cứ ngẫn người như nghe chuyện ngày xưa vậy.
Ừ! Mà đúng là chuyện ngày xưa. Xưa lắm rồi…
Cuối hạ 2010
NG VĨNH PHƯỚC



                                       THỜI GIAN
                                          Tùy Bút
                              NGUYỄN VĨNH PHƯỚC

        “Thời gian không đo lường bằng năm tháng mà bằng
                           những gì chúng ta làm
                                                                    H.Cason

Trời cuối hạ với những cơn mưa chiều bất chợt đôi khi làm tôi xốn xang nhớ về những cơn mưa của tháng ngày xa xưa. Ngày ấy, đối với tôi có khi như vừa mới hôm qua, cũng có khi như đã quá xa xôi trong miền dĩ vãng… Giã từ quê nhà Lam Thủy tôi theo gia đình chồng vào miền Nam tìm kiếm cuộc mưu sinh. Bước thẳng vào cuộc sống mới toanh - ở cái nơi chốn mà chưa hề hình dung ra được trong trí tưởng tượng của tôi. Đó là một vùng đất bỏ hoang lâu ngày nên cỏ tranh và lau sậy ngút ngàn.
Vào thời đó các phương tiện đi lại còn rất hạn chế nên phải sau mấy ngày vất vưởng với giỏ xách, hành lý cồng kềnh lê la ở các bến xe, bến tàu,… rồi cuối cùng chiếc xe đò ngừng lại. Đặt chân xuống ngã ba Mỹ Xuân trên Quốc lộ 51 - đường Saigon đi Vũng Tàu, chúng tôi chia nhau mang vác hành lý. Rời con đường nhựa để đặt chân lên vùng đất xa lạ mới ngán ngẩm làm sao! Ôi! Cái trảng cát mênh mông thuở ấy sao mà chẳng thua gì cát trắng ở vùng rú hoang vu của quê tôi. Bước đi đã nặng vai hành lý mà dưới chân thì cát níu giật lùi. Qua mấy ngày lây lất mất ngủ, bây giờ lại phải di chuyển trong tình trạng như thế tôi chỉ muốn ngã quỵ nên con đường hầu như càng dài thêm. Tôi còn nhớ đó là ngày rằm tháng giêng năm Canh Thân (1980). Chiều ấy trong bóng hoàng hôn, đi bên cạnh người chồng mới cưới, tôi hỏi mãi về ngôi nhà mới mà chúng tôi đang hướng tới qua bãi cát mênh mông còn phả hơi nóng rát sau một ngày dài: Nhà mình từ đầu xóm vào là thứ mấy hở anh? Nhà thế nào? Xung quanh có cây cối chi nhiều không? Nhà mình ở gần nhà ai, có quen không? Những câu hỏi của tôi cứ rơi vào quãng lặng, tôi cũng không dám hỏi lại vì ngại những người chung đường đang nghiêng ngó. Lát sau anh thở dài và bảo tôi cố gắng đi nhanh để đến nơi kẻo trời tối, đường khó đi. Sau nầy tôi mới hiểu chồng tôi làm thinh, anh không thể trả lời những câu hỏi ấy vì nơi đây là chốn rừng thiêng nước độc, chung quanh hoang vắng, nhà cửa thì heo hút nên chưa được gọi là xóm như ở quê nhà.
Sau khi băng qua một con suối nước lạnh căm, chúng tôi lội cát thêm một chặng dài nữa mới thở phào tạm biệt con đường cát trắng. Rời trảng cát, chúng tôi rẽ vào một lối nhỏ bên phía tay phải. Thấp thoáng hai bên lối đi ngoằn ngoèo là những bụi cây cằn cỗi, thỉnh thoảng vài bụi mua dại khoe từng chùm hoa mang sắc tím lạnh buồn cạnh mấy gò mối cao cao…Và tôi ngỡ ngàng quá đỗi khi bước chân vào căn nhà mới - nhà tranh vách đất đúng nghĩa. Ngôi nhà gồm ba gian nhỏ xíu với các cửa ra vào thông thương thành một lối đi. Đây là căn nhà mà những người đàn ông của gia đình đã tự dựng lên khi cùng nhau đi tìm vùng đất mới, sau đó họ trở về quê và thu vén trong âm thầm, rồi một ngày khi trời còn mờ sương, họ lặng lẽ đưa bầu đoàn thê tử rời quê như chạy trốn. Họ sẵn sàng bỏ lại ngôi nhà rộng rãi, dòng sông trong mát, mảnh vườn rau cải mùa xuân đang xanh mướt và cả ruộng đồng lúa đang thì con gái rì rào sức sống, hứa hẹn một mùa bội thu để ra đi. Vì sao thế? Phải chăng vì sống ở quê nhà khổ quá? Nếu chỉ khổ về vật chất thì con người vẫn có thể vượt qua, vì nơi đó bao đời ông cha ta đã sống thì con cháu vẫn sống được dù thiên nhiên có hà khắc mấy chăng nữa. Nhưng cái khổ về tinh thần thì quả là khó mà chịu đựng, chính điều ấy đã khiến bao người dân quê tôi rủ nhau đi tìm vùng đất mới. Khi đi họ chỉ xin phép chính quyền địa phương là đi thăm người thân, nhưng rồi một ngày họ trở về và chỉ sau một thời gian ngắn họ cùng gia đình biến mất - như các chiến sĩ cách mạng ngày xưa hoạt động bí mật vậy. Ngày đó tôi còn trong lứa tuổi mơ mộng nên sau ngày đám hỏi, nghe chồng tương lai bảo cha con nhà anh sẽ vào Nam tìm đất sống. Khi nào tìm xong anh sẽ về cưới tôi rồi cùng nhau đi lập nghiệp nơi quê hương mới. Dù có buồn vì phải xa mạ, xa bạn bè nơi quê nhà nhưng tôi cũng rất thích. Tôi mơ màng về một vùng đất miền Nam trái ngọt cây lành như trong sách vở, hơn nữa ba người chị gái của tôi cũng đã rời quê vào miền Nam sinh sống từ mấy năm trước nên tôi rất hào hứng. Có ngờ đâu…
Đêm đầu tiên nằm trong ngôi nhà chưa quen tôi nhớ mạ, nhớ ngôi nhà có vườn cây thân yêu ở quê nhà da diết. Trời càng về khuya tôi càng buồn, còn đâu mùi hương thơm của các loài hoa trong vườn nhà cũ? Còn đâu ngọn gió nhẹ đưa kẽo kẹt hàng tre già bên bờ ao? Thay vào đó là tiếng con tắc kè kêu từng chặp suốt đêm đầu hè làm tôi giật mình thảng thốt, chập chờn trong giấc ngủ mệt mỏi, vật vờ…
  Thế rồi những ngày mới bắt đầu. Tôi cùng gia đình chồng bắt tay vào việc khai hoang vỡ đất. Ngày ngày vô rừng Sáu Cang hoặc Phước Thái đốn cây phát rẩy. Khi hoàng hôn buông, mọi người ra sức vác những cây gỗ to đã chặt đem về để chuẩn bị cho một căn nhà mới. Khổ nhất là những lúc phải đi dọn rẩy luộc (rẩy có cây mới chặt chưa kịp khô mà đã bị ai đó đốt cháy lan sang), chúng tôi phải vác mớ cây cành cháy lem nhem xếp thành từng đống, sau đó dốt tiếp cho cháy hết mới làm đất để tỉa lúa được. Những lúc đó thôi thì người nào người nấy mặt mũi dính bụi than lem luốc chẳng nhận ra ai nữa. Hồi đó đi làm rừng không như bây giờ đâu, không khẩu trang che mặt, không bao tay và cũng không mang giày dép gì cả, cứ việc giao lưng cho trời, thí mặt cho đất. Tội nhất là hai bàn chân trần, nó phồng rộp lên đau đớn vì dẫm phải rễ cây hoặc than còn nóng. Cứ tưởng rời bỏ quê nhà để thoát cảnh khốn khổ, nay lại càng vất vả hơn nên tối nào đi làm về tôi cũng lén ra sau vườn, hướng về phía quê nhà mặc cho nước mắt tuôn trào mà kêu mãi hai tiếng “Mạ ơi!”.
          Từng ngày, từng ngày; công việc cứ tiếp nối nhau không ngừng nghỉ. Việc làm nặng nhọc đã lấy hết thì giờ nên tôi cũng không còn rảnh rỗi chút nào mà buồn rầu nữa, tuổi thanh xuân của tôi coi như giao phó cho các đám đất mới vỡ. Ngày đi làm rẩy xa, đêm về cuốc đất quanh nhà cho kịp mùa vụ. Trăng treo đầu ngọn cây mới được vào nhà, sự mệt mỏi đã kéo sụp hai mí mắt xuống, còn thì giờ đâu mà suy tư, nghĩ ngợi? Cuộc sống cứ tiếp tục như thế, không chỉ vất vả vì công việc nặng nhọc mà còn đầy gian nan, thử thách với bao bệnh tật, lo sợ… Đêm đêm những con chim lạ lại đến đậu trên cành cây trước sân nhà kêu lên từng hồi cứ như là ma tru, quỷ khóc làm sởn cả người…
             Tháng ngày gian nan vất vả trên vùng đất mới không làm sao nói cho hết. Những bữa ăn chủ yếu là khoai sắn cõng cơm không làm no lòng kẻ tha hương. Sau mỗi ngày dài phát rẩy, buổi tối cả nhà tôi cùng nhau ngồi chẻ củi bán để lấy tiền mua gạo và thức ăn. Chúng tôi cưa những khúc cây dài rồi chẻ mỏng từng thanh, sau đó bó cứ 5 thanh củi áp vào nhau thành một bó - một thanh ở chính giữa làm chuẩn cho bốn thanh khác áp vào bốn phía. Việc bó củi cần có sự tính toán thật khéo để khi cầm lên không bị lỏng lẻo và trông bó củi có vẻ to. Cứ vài ngày, ba chúng tôi (tôi, ông xã và cô em chồng) lại gánh củi ra chợ bến ghe Mỹ Xuân bán một lần. Ba gánh củi chất cao hết mức mà chỉ bán được khoảng chừng 75 ngàn đồng. Với số tiền ít ỏi đó, tôi chia ra để mua gạo còn bao nhiêu thì mua mắm muối… và một bữa ăn sang cho cả nhà là một nồi miến nấu với vài lạng mỡ heo.
Tôi còn nhớ trong những bữa ăn, có cậu em bà con bên chồng của tôi thường than thở: Gỗ đâu mà toàn bìa? Đó là vì nồi cơm nấu với khoai khô mà củ khoai nhỏ quá nên khi cắt phơi chỉ chẻ đôi, thành ra thấy toàn là bìa (vỏ) mà không có ruột. Có lần mấy người phát rẩy bắt được một con nhím đem làm thịt. Nhà tôi cũng được chia một phần, tôi sợ quá không dám ăn, chồng tôi cũng vậy, chỉ lấy một ít lông nhím coi cho vui thôi. Ai cũng bảo dại, ăn thịt vào cho có chất đạm chứ! Ngồi nghe mọi người nhai thịt nhím lạo xạo mà rùng mình, tôi như còn nghe âm thanh ấy đến tận bây giờ vậy. Có lần vào lúc trời chạng vạng tối cả nhà đang ngồi ăn cơm, tôi nhìn ra sân bỗng thấy từ trong đống cây chuẩn bị cho ngôi nhà mới để bên góc sân có một khúc gỗ to chợt dựng đứng lên và lùi lũi tiến ra giữa sân. Tôi bật người kêu lên: “ Ba ơi! Cái cột biết đi kìa!” Cả nhà bỏ đũa chạy ra coi. Chồng tôi la lên:”Rắn! Rắn!”. Mấy người đàn ông vơ vội rựa và cuốc chạy theo cái cột di động, định chặt nó nhưng tôi can, sợ mình chặt không đứt mà còn bị nó quay lại quật cho thì càng nguy hiểm. Thế là cả nhà đứng nhìn cây gỗ mun ấy chậm chạp bò qua sân và biến mất sau đám cỏ tranh. Thật kinh khủng! Cũng trong đám cỏ tranh ấy, mỗi lần tôi và cô em chồng đi cắt tranh về đánh lại thành tấm để lợp nhà thì bắt gặp vô số là rắn. Con thì dài thượt, có con ngắn cỡ gang tay và hình như có hai đầu thì phải. Người ta gọi tên loại rắn nầy là rắn Cát Nhĩ Lan, nghe nói nó rất độc. Tôi là đứa sợ rắn cực kỳ mà cứ cầm phải cùng với nắm cỏ tranh trong tay để cắt. Những lần đầu tôi còn vứt cả liềm mà bỏ chạy, nhưng ngày nào cũng bị vậy đâm nhờn, tôi chai hẳn đi và cố gắng bớt sợ để làm cho xong công việc.
Nhưng trong cảnh đời gian khổ cũng có những niềm vui nho nhỏ. Tuổi thanh niên sức dài vai rộng luôn yêu đời tha thiết. Những ngày đông lành lạnh trời nắng ráo, trên đường vào nương rẩy chúng tôi co ro bên nhau mà an ủi rằng miền Nam lạnh nhưng không mưa dầm, đến trưa trời lại nắng ấm, sướng hơn ngoài mình nhiều. Làm đất khô cũng lắm vất vả nhưng lại bảo thế là thoát cảnh sợ đĩa. Tối về cần thì làm thêm việc trong vườn nhà mà mệt thì có thể ngủ, không phải dự những buổi họp hành đến khi gà gáy như thời ở quê. Rồi thì mùa nào thức ấy: mùa đậu phụng tôi nấu cả thúng đậu tươi, mùa bắp tôi luộc bắp trái cả thùng lớn, ông xã tôi là tay đàn guitar khá ngọt và các em chồng tôi ai cũng thích ca hát, thế là đám thanh niên quanh nhà tìm đến. Trong những đêm trăng sáng, chúng tôi quây quần bên nhau vừa ăn vừa trò chuyện hát ca. Thôi thì tha hồ hát bất cứ bài nào mình thích mà không sợ bị bắt đi nhổ cỏ. (Hồi ở quê, có lần tôi hát Mưa hồng của Trịnh Công Sơn bị thiên hạ nghe được, thế là Xã Đoàn mời vô xã làm kiểm điểm và bắt nhổ cỏ sân uỷ ban xã hết mấy ngày). Hết hát lại kể chuyện tiếu lâm có thật - nhất là những chuyện mới tinh vừa xảy ra trên vùng đất mới. Ví dụ có nhà bảo nhau vào đất miền Nam phải nói tiếng Saigon chứ cứ giọng Quảng Trị người ta không hiểu, phải tập nói ngay từ bây giờ. Thế là có chuyện rằng cô nọ đi làm về kể lại: Tôi đứng cuốc đất lâu quá cái chân bị kia (tê)  nên phải đến ngồi trên cái đâu (mô) đất… (Ha ha ha). Rồi khi thu hoạch, bán sản phẩm có tiền tôi làm một bữa cơm thật hoành tráng đãi mấy anh em để bù những ngày ăn bìa thiếu gỗ. Có bữa mấy đứa con trai choai choai thách nhau ăn cơm, một tên xơi luôn 23 chén đầy. Ăn xong no căng thiếu đường rách da bụng, thấy nó nằm thở giốc chúng tôi sợ quá chừng chừng, may mà chưa đến nổi bể bụng (!)
Thời gian cứ thế dần trôi. Lâu lâu lại có người đến thăm, chê vùng đất nầy thiếu mầu mỡ, thế là lắm người lại bồng bế nhau bỏ nơi nầy, đi tìm nơi khác đất đai tốt hơn. Vợ chồng tôi không đi vì quả thật tôi không đủ sức, hai đứa lại thuộc loại người “chiêu chang” nên không đủ can đảm đi tìm đất hứa lần nữa. Có lần về thăm em, chị An Lành thấy chồng tôi đi  củi về dáng điệu quá thảm hại. Hỏi, chồng tôi nói mùa nông nhàn, hết việc không biết làm gì nên đi kiếm gánh củi, sáng mai ra chợ bán cũng đong được vài long gạo. Chị bảo người thư sinh thế mà toàn làm việc nặng nhọc chịu sao xiết, thôi em lên Biên Hoà vài tháng, anh truyền cho cái nghề, khi nào rảnh rỗi nhận may vài bộ áo quần cũng có thêm thu nhập mà đỡ vất vả. Và kể từ mùa xuân đó, chồng tôi có thêm nghề may áo quần cho bà con quanh vùng.
     Người cũ bỏ đi nhưng người mới lại đến. Nơi đây trở thành điểm tụ tập cho những người đến muộn, nhất là người dân bên kia vĩ tuyến 17. Người đi tìm đất sống càng lúc càng kéo đến đông hơn. Cái quạnh quẽ của vùng đất ban đầu đã dần thay đổi, nương rẩy đã đi vào ổn định, vợ chồng tôi có con nên được ra ở riêng, tôi cũng đã thích nghi với cuộc sống nơi đây. Rồi cuộc sống liên tiếp thay đổi đến chóng mặt, lúc này hai đứa con trai của tôi đang học tiểu học tại ngôi trường gần nhà còn bé út mới hai tuổi thì gởi nhà ngoại tại Biên Hoà, (năm 1982, chị tôi chuyển công tác vào Nam dạy học luôn nên mạ tôi đành phải theo con - vì chẳng còn đứa con nào ở quê với bà nữa). Vợ chồng tôi ngoài thời gian lo việc nương rẩy còn mở thêm quán may nhỏ ven đường - chồng cắt may, vợ làm khuy nút. Tay nghề của chồng tôi dù chỉ qua sự truyền dạy của ông anh rể có mấy tháng nhưng nhờ chịu khó, chăm chỉ nên những bộ âu phục hình thành từ tay anh ấy được khách hàng ưa chuộng. Tôi chấp nhận số phận, chấp nhận cuộc sống hiện tại, ngày ngày cặm cụi làm việc và nuôi dạy con cái. Hai con trai của tôi đều học giỏi và rất ngoan, sau giờ học các cháu không chỉ chơi đùa mà còn tự nguyện giúp ba mẹ những việc nhà lặt vặt phù hợp với sức lực trong độ tuổi của chúng nữa. Và cứ thế, tôi sống an phận trong cái hạnh phúc đơn sơ, nhỏ bé của một gia đình nghèo mà tiếng cười luôn đầy ắp nơi vùng quê mới.
Ngày đó tôi cứ tưởng giấc mơ làm cô giáo từ bé của mình sẽ không bao giờ thực hiện được. Không ngờ vào một buổi chiều, chú Tiến - người bà con ở cùng xóm và là hiệu phó trường con tôi đang theo học - đến nhà tôi thăm. Qua một hồi chuyện vãn, khen ngợi việc học hành của hai con trai tôi, chú ấy đi vào vấn đề là mời tôi vào dạy ở trường tiểu học mà chú đang làm Phó hiệu trưởng. Tôi vừa ngạc nhiên lại vừa lo lắng nói với chú: “Không được mô, chị đã bỏ cây bút lâu lắm rồi, chừ cầm lại chắc sẽ khó lắm. Rứa cơ sở mô mà chú nói chị đi dạy? Chú không sợ chị dạy không được làm ảnh hưởng tới chú à?”. Tiến vừa cười vừa trả lời: “Thầy hiệu trưởng trong trường nhờ em mời chị vô dạy đó chơ.”. Tôi thắc mắc: “Ông hiệu trưởng? Chị và ông ấy có biết gì về nhau đâu mà…”. Tiến vui vẻ: “Chị không nhớ là hai thằng con của chị đều được chọn vào đội tuyển của trường đi thi học sinh giỏi cấp Tỉnh kỳ rồi sao?” Tôi ngơ ngác: “Nhớ chứ! Nhưng… liên quan gì đến chuyện nầy?” Tiến kể: “Thấy cả 2 anh em đều mang niềm vinh dự về cho trường, thầy hiệu trưởng liền gọi đến hỏi: Ngoài học ở trường, các con còn đi học thêm ở đâu không? Cả hai đứa đều nói: Thưa thầy, chúng con không học thêm đâu cả mà học ở nhà, mẹ con dạy cho hai anh em con ạ! Rồi Tiến nhìn tôi kết luận: “Nhà trường vùng kinh tế mới nên đang thiếu giáo viên, ban giám hiệu chúng tôi quyết định đến mời chị cùng tham gia việc truyền kiến thức cho các em học sinh nhỏ. Đó, chị yên tâm chưa?”. Tôi im lặng mà mắt ngân ngấn nước, tôi thương các con tôi quá. Chúng biết hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đâu dám xin tiền đi học thêm như các trẻ khác. Khi ôn bài ở nhà, bí đến đâu chúng hỏi mẹ đến đó. Còn tôi, khi giúp các con học tôi rất vui với ý nghĩ những ngày tháng miệt mài sách vở trước kia của mình đã không hoài phí.
Trước đề nghị bất ngờ của Tiến, tôi cứ tưởng mình nằm mơ. Ngày ấy ở quê nhà, bạn cùng lớp với tôi một số không tiếp tục học thì nộp đơn vào sư phạm và được nhận một cách dễ dàng. Vì sau ngày 30/4, số giáo viên bên kia giới tuyến về nhận nhiệm sở tại các trường vùng thôn quê Quảng Trị trình độ rất chi là… trời ơi đất hỡi. Hồi ấy người ta thường gọi là giáo viên bảy cộng không hai; năm cộng không ba - nghĩa là có trình độ lớp 7 hay lớp 5 thì chỉ cần học thêm 2 hoặc 3 tháng sư phạm là trở thành giáo viên dạy cấp 1 (tiểu học). Hoặc chín cộng không sáu - lớp 9 học thêm 6 tháng sư phạm - thì ra dạy cấp 2 (từ lớp 6 đến lớp 9), v.v… Ba chị em nhà tôi cũng mon men làm đơn, chị Nho làm sớm được chính quyền xã ký, nhờ có cái bằng Tú Tài 2 nên chị được gọi vào Huế học Cao Đẳng Sư Phạm. Có lẽ đó là một chữ ký nhầm nên đến phiên tôi và chị Liên Hưng vác đơn vô thì họ không ký. Lý do là thanh niên mà chị em tôi chưa đóng góp gì để xây dựng quê hương, vậy phải ở nhà làm nghĩa vụ lao động. Và tôi đã phải trải qua những ngày tháng ngậm ngùi, gian khổ mà chị tôi thường mượn tên một tác phẩm nước ngoài để đùa là “Lưu đày nơi quê nhà”. Còn chị LH của tôi - không dễ dàng chấp nhận số phận “lưu đày” như tôi nên một buổi sáng mù sương chị đã xuống thuyền, bỏ nhà vào Nam tìm con đường sống khác khi vừa rời ghế nhà trường.
           Trở lại việc được mời đi dạy, thật sự tôi chưa yên tâm chút nào dù rất cảm ơn chú Tiến - người đã dẫn đường cho tôi đến gần bến bờ mơ ước từ thuở còn thơ ấu của tôi. Ngày vào trường trình diện để nhận việc, sau khi phân công chuyên môn cho tôi phụ trách lớp Bốn A2 của trường, thầy hiệu trưởng khích lệ: “ Cô đừng lo, cứ coi các em học sinh như con của mình, cô dạy các con thế nào thì dạy các em thế ấy, tôi tin cô sẽ làm được”. Lời nói ấy như truyền thêm niềm tin và nghị lực cho tôi, tôi thầm nghĩ: “Mình nhất định sẽ làm được!”
          Và tôi đã làm được. Tôi còn nhớ một kỷ niệm vui của những ngày còn chân ướt chân ráo lúc mới vào nghề Kỹ sư tâm hồn. Một buổi sáng vừa bước chân vào lớp, nghe tiếng ồn ào phía cổng trường tôi nhìn ra thấy một đoàn xe honda chừng hơn mười chiếc nối đuôi nhau tiến thẳng vô trường. Thì ra đó là đoàn thanh tra của Phòng giáo dục về kiểm tra trường đột xuất. Thấy các thầy cô khác vội vã lo lắng, thầy Thiện chạy qua lớp tôi hỏi mượn bảng nhỏ cho học sinh rồi hỏi có ai dự giờ lớp tôi không, tôi nói với thầy chắc tôi mới vô dạy mấy ngày người ta không dự đâu. Đến giờ học sinh vào lớp, tôi thản nhiên giảng bài cho học sinh như thường lệ. Bỗng có một người trong đoàn thanh tra đến trước cửa lớp hỏi tôi: “Đã có ai dự giờ lớp cô chưa?” Tôi thiệt tình đáp: “ Dạ chưa”. Ai dè ông ta nói: “Vậy cô cho tôi dự giờ Toán…”. Chưa dứt câu ông đã bước vào ngồi cuối lớp, kế bên em Lụa là một học sinh to con và học yếu nhất lớp. Tôi thảng thốt, tim đập liên hồi như trống trận. Trời ơi! Thế mà tôi ngây thơ cứ nghĩ… Diễn biến ấy chưa tới một phút nhưng tôi tưởng như cả thế kỷ không bằng. Cố giữ bình tĩnh, tôi nói với “ngài thanh tra” rằng thầy cho tôi ba phút chuẩn bị. Sau khi phát đủ bảng nhỏ cho cả lớp, tôi bắt đầu bớt run, lòng thầm nghĩ: “Đây là một nghề mình yêu thích nhất, mình cứ giảng bài như thường lệ, cứ xem ông ấy như là một “học trò già” trong lớp. Nếu được nhận xét “đạt” thì tốt; ngược lại bị chê và người ta không cho mình dạy nữa thì thôi vì mình đã qua đào tạo chuyên môn gì đâu mà mắc cở”. Nghĩ vậy tôi thấy tự tin hơn và tiến hành tiết dạy một cách tự nhiên. Cuối buổi dự giờ, đoàn thanh tra họp nhận xét chuyên môn và tác phong của giáo viên trong tiết dạy. Xong, Tiến tươi cười đi nhanh về phía tôi nói: “Chúc mừng chị nghe, thầy Lụa nhận xét chị dạy rất bản lĩnh đồng thời có sự quan tâm động viên học sinh yếu của lớp rất tốt”. Trời ạ, mới nghe tới đó tôi muốn xỉu luôn. Không phải vì thầy khen tôi đâu mà vì tên của thầy là Lụa. Lụa cũng là tên của em học sinh yếu nhất lớp nên giờ học nào tôi cũng thường gọi em để... rèn. Hèn chi mỗi lần tôi gọi “Lụa!” là thầy dòm tôi… Tôi đến bên em Lụa để hướng dẫn thêm về cách giải toán thì thầy ngồi sát em Lụa cũng chăm chăm dòm theo… Ối giời ôi! Khi nghe tôi kể lại giờ dạy toán đó Tiến ôm bụng cười như nắc nẻ. Thật là!         
 Lần dự giờ đó như một thử thách cho tôi vững lòng tin hơn vào khả năng của mình để bước tiếp trong nghề dạy học. Rồi ông xã tôi cũng được nhà trường mời vào dạy. Mùa hè năm đó nghe Sở giáo dục tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu mở lớp tại chức cho những thầy cô giáo chưa có bằng sư phạm, vậy là tôi làm đơn lên phòng tổ chức để xin cho ông xã tôi đi học. Vào một buổi sáng sớm, sau khi đạp xe vượt qua quãng đường dài chừng 20km, tôi đến nhà thầy Dương – cán bộ có thẩm quyền phê duyệt đơn đi học. Khi tôi đến, cả nhà thầy đang dùng bữa sáng, thấy tôi vào thì chị Phương (vợ thầy Dương đang làm Phó hiệu trưởng trường cấp 3 Phước Hòa) chạy ra dẫn tôi vào rồi kêu tôi cùng ăn sáng, tôi nhẹ nhàng cám ơn chị rồi xin phép gặp thầy để trình bày nguyện vọng. Sau khi nghe tôi nói, cả thầy Dương lẫn chị Phương đều la tôi: “Sao em không đi học mà chỉ xin cho ông xã? Em có biết mai này không có bằng cấp sẽ bị sa thải không? Em nói con còn nhỏ à? Con út em ba tuổi rồi có phải lo bú mớm gì đâu chứ? Điều kiện kinh tế à? Mọi người đi học được thì em cũng đi học được. Em hy sinh bản thân nhiều quá rối đấy! Về làm đơn nói ông hiệu trưởng ký vô, lên đây thầy duyệt để hai vợ chồng đi học luôn”. Cũng nhờ thầy Dương và chị Phương la mà sau nầy tôi mới có được bằng cấp đàng hoàng để tiếp tục dạy học. Thật không biết nói thế nào để cám ơn. Đó là những người tốt bụng, chỉ một lần gặp đầu tiên đã thương mến và giúp đỡ tôi tận tình. Tình cảm nầy tôi luôn ghi nhớ trong lòng không bao giờ phai nhạt.
Thế là từ đó, liên tục mấy mùa hè vợ chồng tôi không có ngày hè. Hai đứa cơm đùm gạo bới đến trường Trung học Sư Phạm tại Bà Rịa - cách nhà trên 30 cây số để làm “giáo sinh”, mỗi tuần mới về nhà một lần. Trong căn nhà nhỏ lợp lá, hai con trai nhỏ của tôi tự lo cuộc sống hàng ngày và chăm sóc nhà cửa. Riêng bé út, chị LH đã về bồng lên Biên Hoà để chăm sóc trong suốt những ngày tháng đó. Bé ở nhà ngoại đến nổi quên luôn ba mẹ, có lần tôi đến thăm con, nó chào thưa dì rồi bảo dì ở nhà chờ mẹ cháu đi làm về sẽ có bánh… làm tôi tủi thân bật khóc.
           Bên cạnh cuộc sống của gia đình nhỏ của tôi luôn có sự bảo bọc, che chở đầy tình thương của những người thân. Những lúc khốn khó hoặc lâm vào cảnh đau ốm tôi thường được mạ và các chị nắm chặt tay, kéo tôi ra khỏi cơn nguy khốn. Tình thương của những người thân tôi yêu quý luôn là nấc thang dẫn lối cho tôi vững bước trên đường đời vốn chẳng hề bằng phẳng. Riêng đối với môi trường sư phạm mà tôi đã gắn bó lại càng gắn bó hơn. Qua thời gian công tác, tôi rất vui vì được các bậc phụ huynh và học sinh tin yêu. Được bạn bè đồng nghiệp quý mến và nhất là phía ban lãnh đạo cũng rất tin tưởng khi giao việc cho tôi. Bây giờ ngồi viết lại những dòng chữ nầy tôi không hiểu hồi đó sức mạnh nào đã giúp tôi làm được nhiều việc như vậy nữa. Tôi dặn hai con trai ngoài giờ học ở trường , các con cố gắng giúp mẹ việc nhà để mẹ có thì giờ làm thêm hầu có  tiền để lo cho các con. May sao hai con trai tôi rất ngoan. Hoàng Nguyên học buổi sáng thì làm việc nhà buổi chiều; còn Hoàng Quân học buổi chiều thì buổi sáng làm việc nhà. Tuy nói nghe nhẹ nhàng thế chứ những việc không tên ở nhà tôi hồi đó không ít đâu. Buổi sáng thì nấu bữa sáng, rửa ly pha trà, phơi áo quần, chặt củi, nấu cơm trưa. Buổi chiều phải rửa chén, gánh nước, tắm heo, nấu cơm tối, lùa gà vô chuồng, …Ông xã tôi thì sáng làm thầy, chiều làm thợ. Có nghĩa là buổi sáng đi dạy học, chiều về làm thợ may đó mà. Riêng tôi, ít có bữa trưa được ăn cơm cùng gia đình. Buổi sáng đi dạy, tôi dẫn theo Út Quỳnh, tôi gởi bé ngồi chầu rìa (học dự thính) ở lớp cô Quyết dạy lớp Một - vì bé chưa đủ tuổi vào lớp mà thời đó vùng tôi ở chưa có trường mẫu giáo. Riêng tôi vừa dạy học vừa làm thêm các việc khác của nhà trường. Mỗi ngày tôi dạy hai lớp: sáng một lớp, chiều một lớp. Dạy xong buổi sáng, tôi vào phòng thư viện nhà trường ăn trưa với chiếc bánh mì mua từ sáng mang theo nguội ngắt rồi làm sổ sách, thống kê các số liệu của thư viện. Sau đó tiếp tục dạy lớp buổi chiều. Đêm nào cũng thế, bên ngọn đèn dầu tôi thức đến hai giờ sáng là chuyện thường tình. Tôi thức để soạn giáo án, lên kế hoạch, báo cáo, dự toán, quyết toán Công đoàn, kế toán nhà trường, hồ sơ của tổ chuyên môn, …  Trong không gian yên ắng, mọi người đã an giấc, gà gáy đi gáy lại nhưng xong việc tôi mới ngủ yên được. Tôi cũng biết vì ban giám hiệu tin cậy nên mới giao việc cho tôi, đồng thời họ cũng tạo điều kiện để tôi kiếm thêm thu nhập để lo cho gia đình. Vì vậy, tôi cũng quyết tâm làm tốt mọi việc để khỏi phụ lòng của những người đã quan tâm đến gia đình mình.
          Dạo mới đến, nhà tôi tìm đất gần suối để tiện canh tác nên sau nầy trở nên bất tiện. Trong khi phía ngoài, đường sá mở mang rộng rãi thì xóm nhà tôi ở vẫn những con đường đất ngoằn ngoèo, khúc khuỷu. Mỗi lần đi học về út Quỳnh té lên té xuống, tôi xót con vô cùng. Vậy là gom góp số tiền dành dụm bằng sức lao động bấy lâu nay, vợ chồng tôi mua miếng đất gần đường cái để dời nhà ra đó. Rồi đất nước vào thời kỳ mở cửa, người khắp nơi kéo về đông hơn. Những nhà đầu tư trong và ngoài nước bắt đầu dòm ngó vùng đất còn nhiều khoảng trống hoang hoá lâu ngày. Khu đất cát ở cái trảng cát mà thời chúng tôi đến không ai thèm dòm ngó, giờ lên giá vùn vụt. Vì những người đến trước luôn tìm đất tốt gần khe suối để canh tác, chứ ai dại gì mà cắm dùi trên đất cát? Những người đến sau hết đất tốt nên đành phải làm nhà dọc theo cái trảng cát ấy, thế mà bây giờ nó trở thành “mặt tiền”. Chẳng mấy chốc bộ mặt nơi đây thay đổi hẳn: nhà cửa khang trang; nhà nào cũng có vài chiếc xe máy làm phương tiện đi lại; những cái bếp ga sáng loáng sạch sẽ được thay cho bếp củi ngày nào. Điện về, nhà nào cũng có ti vi, máy hát, điện thoại. Chưa có nước máy thì dùng nước giếng khoan, chỉ cần bật cầu dao là nước phun lên đầy thùng chứa - không cần phải trầy tay kèo gàu như dạo trước. Những ngôi trường kiểu mẫu thi nhau mọc lên. Chỗ lội suối trên lối đi ngày nào giờ đã có cầu bê tông bắc ngang, con đường cát trắng níu chân người được tô một màu đỏ mới, sau đó được tráng nhựa và bây giờ nó trở thành một trong những con đường đẹp của miền Nam.  Cuộc sống thay da đổi thịt khiến nhà nhà không còn phải vất vả như dạo trước. Phải chăng đó là phần thưởng cho những con người chịu thương chịu khó cố bám lấy mảnh đất nầy.
          Người xưa nói thời gian như bóng câu cửa sổ. Còn tôi, tôi thấy thời gian như một giấc mộng dài. Đôi lúc bất chợt trong giấc mơ tôi lại thấy mình là cô bé 4, 5 tuổi mặc áo đầm oanh vũ nữ lên hát bài Reo vang bình minh trên sân khấu chùa làng trong đêm mừng Phật đản được khán giả vỗ tay vang rền - trong đó có lẽ tiếng vỗ tay của mạ tôi vang to nhất. Rồi khi tôi lại mơ thấy mạ cõng tôi chạy giữa hai lằn đạn ì ầm trong cái đêm kinh hoàng cuối thu năm 1966. Khi lội qua con mương bị nước ngập ướt hết quần áo, vào nhà bác Xạ lấy tạm áo quần cô cháu mới 13 tuổi của bác để thay, nhìn mạ mặc áo quần củn cỡn tôi cứ cười như nắc nẻ, quên cả đói, cả sợ. Nhiều nhất là tôi nằm mơ thời đi học, hết làm học trò trường Tiểu học Nữ Quảng Trị đến trường Trung học Nguyễn Hoàng. Xen lẫn vào những giấc mộng ấy còn có cả những gian khổ của giai đoạn lưu đày nơi quê nhà. Ôi! Lắm lúc tỉnh dậy tôi vẫn bàng hoàng chưa định được không gian và thời gian mình đang sống.
          Mạ tôi lại thường bảo đời là một tấn tuồng, mỗi lần chiếc màn sân khấu kéo lên lại thấy một lớp tuồng mới. Chiếc màn ấy nhiều lần kéo lên, kéo xuống và chỉ chấm dứt khi đôi mắt ta vĩnh viễn khép lại. Tôi thấy đúng quá. Mới ngày nào tôi còn theo gia đình chồng bỡ ngỡ đến vùng đất mới này; mới ngày nào tôi còn mong đứa con trai đầu biết đi biết nói; mới ngày nào tôi thấy hình bóng tuổi thơ của mình trong đứa con gái út mà bây giờ chúng đều đã lớn khôn. Còn tôi, tôi đã bước vào cái tuổi tri thiên mệnh. Bất chợt soi gương thấy sợi tóc thay màu bên thái dương mình hay đôi lúc nhìn những vết hằn phá ngang nét thanh tú trên khuôn mặt của chồng - tôi bất giác thở dài. Nhưng rồi nhìn con cháu tôi lại thấy vui, hai con trai lớn của tôi đã nên gia thất, có công ăn việc làm ổn định. Các cháu nội của tôi rất dễ thương và “mê” ông bà nội hơn cả ba mẹ chúng. Gái út Khánh Quỳnh cũng vừa trả xong nợ đèn sách, hôm sinh nhật cháu cũng là ngày cháu nhận được điểm thi tốt nghiệp đại học khá cao và chỉ hai tuần sau là có người mang trầu rượu đến “bỏ nhánh nè”. Cha mẹ đôi bên cùng đợi chúng nhận công tác một thời gian sẽ tổ chức lễ cưới để chúng chăm lo cho nhau. Thế là vợ chồng tôi đã xong phần nào nhiệm vụ làm cha làm mẹ, xong phần nào trách nhiệm bình thường của một đời người.
          Với tôi, giấc mộng đời đi qua chưa dài nhưng cũng không ngắn. Phải chăng vì tôi đã trải qua không ít đắng cay, gian khổ? Tuy nhiên khi vượt qua chặng đường gai góc thì ta cũng cầm được trên tay nhánh hoa hồng. Tôi đã có những đứa con hiếu thảo và những đứa cháu thật đáng yêu.  Và bây giờ, ước mơ còn lại với tôi thật đơn giản, đó là một cuộc sống bình an bên gia đình; một mảnh vườn nho nhỏ để tôi lại vun trồng những hoa lá, cây trái yêu thích như khu vườn cũ của ba mạ tôi ngày nào nơi quê nhà yêu dấu.
Và thời gian ơi! Tôi không mong thời gian ngừng lại, thời gian cứ đi về phía trước theo định luật. Song, tôi mong rằng con đường của thời gian ngày càng rộng rãi, càng sáng sủa hơn để đời con cháu chúng tôi không còn phải vất vả, gian nan vì những ngày tháng ngậm ngùi.
                                                         
NGUYỄN THỊ VĨNH PHƯỚC
                                                                                 








Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét