Thứ Ba, 9 tháng 6, 2015


                        BÌNH THƠ THÁI QUỐC MƯU

CẢM NHẬN BÀI THƠ “ĐỜI” CỦA THÁI QUỐC MƯU

                                                                  Châu Thạch

                  ĐỜI
  Vét sạch sành sanh dạo phố chơi
Đi tìm cái thú để yêu đời
Banh chưa tới đích, liền buông th
Ngựa mới nâng chân, đã ngã rồi
Giữa chợ, bóng người hiu hắt đổ
Ven đường, chiếc lá dật dờ rơi
Chợt cơn dông đẩy mây đùn xuống
Những hạt mưa tuôn đẫm góc trời

Atlanta, Mar. 17, 2014
Thái Quốc Mưu

Châu Thạch cảm nhận:

Chủ đề của bài thơ nói về đời nhưng toàn bộ bài thơ từ câu mở đến câu kết chẳng nói chi trực tiếp đến đời mà lại nói lông bông chuyện đá banh, đua ngựa, đi chợ rồi kết luận bằng cơn mưa xối xả.
 Đó là một trong những phong thái Đường thi của Thái Quốc Mưu, cái phong cách tưởng như tưng tưng khác với đời xưa và trái với thời nay làm cho khi đọc ta cứ tưởng Nhà thơ cười cười diễu cợt mà té ra càng ngẫm nghĩ càng thấy trường đời, ý vị và thâm thúy ẩn sau nụ cười.
 Ví như bài thơ “Đời” ở trên, tác giả làm thơ như mở cửa nhà cười hóm hỉnh với ta, nhưng sau đó lại dẫn dắt ta vào tham quan một khung cảnh u trầm với những bức tranh đời nghiệt ngã. Thử trích từng câu thơ để thảo luận hầu tìm cho nhau một vài giây phút vui thi phú, dẫu đúng hay sai xin lượng tình tha thứ.
 1- “Vét sạch sành sanh dạo phố chơi”:
 Câu thơ tý vào đời bằng tất cả vốn liếng của mình, là sự dấn thân nhưng với một phong cách thư thái như đi dạo phố chơi, nghĩa là không bôn ba, không cập rập đua chen . Đây là phong cách nhập thế thường là của các vị đức cao hay của những người chân tu thoát tục.
 2. “Đi tìm cái thú để yêu đời”:
 Đi tìm cái thú để yêu dời có nhiều cách. Người thì bôn chen làm giàu, kẻ lại tranh đua danh vọng..v.v, thậm chí các vị nhà tu cũng vì mục đích tuy có cao cả nhưng cũng là mục đích yêu đời. Nhà thơ Thái Quốc Mưu thì không như thế, bởi ông “Vét sạch sành sanh dạo phố chơi” cho nên phố ở đây chính là hình ảnh cuộc đời mà ông chính là người rong chơi nhìn ngắm, không hề tham gia vào thị trường cạnh tranh trên đường phố. Sự nhập thể của nhà thơ ở đây thư thái và thanh thoát như một người đi dạo phố chơi.
 Qua các câu thơ sau cuộc đời liền được diễn tả bằng những hình ảnh sống động khác như sân banh, cởi ngựa… và trong đó mỗi hình ảnh kèm theo thân phận bi đát của con người.
 3- “Banh chưa tới đích, liền buông thở”:
Banh thì phải được dẫn tới cầu môn và đá tung vào lưới mới ghi bàn. Ở đây banh chưa tới đích liền buông thở là bỏ cuộc nửa chừng, là thất bạị thảm thương. “Buông thở” ở đây có thể  hiểu là mất banh rồi dừng lại đứng thở nhưng nên hiểu là đức hơi thở hay là sự chết thì hay hơn. Không một ai đi qua cuộc đời nầy mà làm tròn bao ước vọng của mình giống như dẫn được banh vào lưới. Thân phận con người khi lìa đời ai cũng giống như cầu thủ dẫn banh chưa tới cầu môn.
 4- “Ngựa mới nâng chân, đã ngã rồi”:
Hình ảnh bi đát thứ hai của cuộc đời là hình ảnh con ngựa vừa nâng chân lên đã ngã quỵ. Đó là hình ảnh của sự thất bại xảy ra trong chớp nhoáng, cũng là hình ảnh thể hiện cho cả một đời người từ kẻ thành công nhất cho đến phường vô danh tiểu tốt, vì khi đến cuối cuộc đời mà ngoảnh lại thì chỉ thấy mình như vừa lên ngựa đã ngã ngay vào sự chết u minh. Đời người trăm năm như bóng câu qua cửa sổ, chưa làm được gì mà quỵ ngã ngay trong lưởi hái tử thần, khác chi con ngựa vừa nâng chân đã liền bị ngã!
5- “Giữa chợ, bóng người hiu hắt đổ”:
Đây là hình ảnh ảm đạm nhất. Dưới con mắt trần tục thì giữa chợ là nơi đông đúc nhưng dưới cái  nhìn vĩnh hằng của Phật, của Chúa thì giữa chợ đời từng lớp người, từng thế hệ thi nhau gục xuống. Bao nhiêu người đi lại giữa chợ đời hôm nay sẽ “hiu hắt đổ” không chừa một ai.
6- “Ven đường chiếc lá dật dờ rơi”:
Đây là nỗi cô đơn của cuộc đời. Hình ảnh cuộc đời bây giờ như một con đường mà sự chết con người cô đơn như chiếc lá rơi. Ở cuối cuộc đời con người lặng lẽ đi như chiếc lá dật dờ. Tác giả dùng bức tranh tĩnh ở cặp luận như khép lại một quảng đời sôi động đá banh, cởi ngựa ở tuổi thanh xuân để lui vào trong bóng tối của tuổi già nua.
Và rồi ở hai câu kết, cái cuối đời ảm  đạm đó phải nhận chịu sự cuồng nộ, bi đát phủ lên:
7 và 8: “Chợt cơn dông đẩy mây đùn xuống
               Những hạt mưa tuôn đẫm góc trời”
Sự chết được báo động bằng cơn dông đẩy mây đùn xuống hay thực tế hơn là bệnh tật và cô đơn và nuối tiếc và bao hệ lụy của tuổi già phủ trên ngày tháng. Khi “những hạt mưa tuôn đẫm góc trời” là lúc linh cửu con người được đưa xuống đất và linh hồn con người run rẩy như lạnh dưới cơn mưa.
Nếu không chú ý ta có thể nghĩ rằng qua bài thơ nầy Nhà thơ Thái Quốc Mưu có tâm trạng bi quan yếm thế. Thật ra không phải như thế! Vì, những điều ông nói cũng chỉ là những điều nằm trong triết lý tôn giáo có từ xa xưa của những bậc giác ngộ giáo hóa con người. Các vị ấy ở trên con người, ở chốn siêu thoát không dính dấu vết con người, ở chốn hạnh phúc mà báo động cho con người biết thảm họa của mình.
Thái quốc Mưu không phải là bậc giác ngộ nhưng bài thơ hay ở chỗ ông dùng cái cốt cách thoát tục trong lời thơ để diễn tả sống động và trọn vẹn nỗi bi đát của cõi nhân sinh hay của cuộc đời trong đó có cả Nhà thơ.
Suy nghiệm về bài thơ tôi nhớ đến câu chuyện đức Phật lần đầu tiên ra khỏi thành Ca-tì-la-Vệ. Ngài chứng kiến được hình ảnh sinh, lão, bệnh, tử diễn ra giữa đời từ đó, sau nầy Ngài xuất gia tìm đạo. Mấy ngàn năm sau, có một Nhà thơ “dạo phố chơi” cũng thấy cảnh bi thương gần như thế, nhưng không biết bao giờ mới chịu xuất gia?                                                     

                                                          Châu Thạch
                                                   (Đà Nẵng 24/3/2014)
Vài cảm nghĩ về bài thơ "Biển, Sóng và Ta" của Thái quốc Mưu - Châu Thạch
 Biển, sóng và ta

Tháng năm biển vẫn mặn mà
Ngàn xưa con sóng nổi trôi phận mình
Chân trời góc biển lênh đênh
Trắng phau giọt nước bãi gềnh nhấp nhô.
Thoát qua! bỗng vút xa bờ
Ngàn thu dấu cát đợi chờ bến xưa
Nỗi buồn lên hạt nắng trưa
Nghe cô quạnh, ngọn gió lùa bên tai.
Rong rêu phủ kín tháng ngày                                   
Thời gian níu kéo hình hài rụng rơi
Xác thân thân xác một đời
Ta con sóng lượn dưới trời lao đao.

Thái quốc Mưu

Lời bình :  Châu Thạch

Bài thơ có đầu đề nói về biển nhưng thật ra chỉ dùng hình ảnh của biển để nói về thời gian và thân phận con người. Bốn câu đầu của bài thơ là một tiếng thở dài cho  con sóng lênh đênh phiêu dạt:
Tháng năm biển vẫn mặn mà
Ngàn xưa con sóng nổi trôi phận mình
Chân trời góc biển lênh đênh
Trắng phau giọt nước bãi gềnh nhấp nhô.
Đọc bốn câu thơ nầy ai cũng liên tưởng đến thân phận đời người có khác chi con sóng. Sóng lênh đênh trên biển cả và đời người lênh đênh trong thời gian vô định. Sóng nhấp nhô như kiếp luân hồi. Biển vẫn mặn mà tháng năm nhưng sóng thì biến đổi không ngừng theo con trăng và theo thời tiết, thời gian thì êm đềm nhưng đời người có biết bao thay đổi. Bài thơ có thể chỉ nói đến đời người trong hiện tại nhưng cũng có thể suy diễn đến những kiếp người trong bánh xe luân hồi giữa thời gian vô thủy vô chung.
Bốn câu thơ tiếp theo  mới thật sự đưa người đọc vào những suy nghiệm, suy nghiệm về sự phi lý của đời người, và suy nghiệm  cái niềm đau thấm thía về thân phận bọt bèo của biết bao nhiêu kiếp sống:
Thoát qua! bỗng vút xa bờ
Ngàn thu dấu cát đợi chờ bến xưa
Nỗi buồn lên hạt nắng trưa
Nghe cô quạnh, ngọn gió lùa bên tai.
Mỗi câu trong bốn câu thơ nầy đều tạo được một cái nhói đau trong con tim người đồng cảm.
- “ Thoát qua! bỗng vút xa bờ”: Thoát qua (đánh dấu than) là tiếng kêu than vãn về sự thoát qua đó. Vừa thoát qua đã vút xa bờ ngay là vì sao? Chúng ta hãy nghĩ đến sự chết. Chỉ có sự chết mới thoát qua trong đau thương và vút xa cuộc đời trong chớp nhoáng.
- “ Ngàn thu dấu cát đợi chờ bến xưa” : Sóng trên biển còn có thể quay lại bến xưa nhưng con người thì chắc chắn không bao giờ quay lui kiếp trước. Đây là một tiếng kêu uất ức, tắt nghẹn về thân phận con người khi qua đời, vĩnh biệt ngàn thu đất sống.
- “ Nỗi buồn lên hạt nắng trưa” : Đây không phải là nỗi buồn của người ra đi vì người ra đi đã biến mất, nhưng là nỗi buồn của người ở lại, của thế gian, của xứ sở, của quê hương, của cảnh vật, của tất cả những gì ở nơi mà đã từng có một đời người sinh sống. Con sóng đã thoát qua, đã ra đi xa bờ trong phút chốc và để lại nỗi buồn trên những hạt nắng trưa. Con sóng là đời người và hạt nắng trưa là phản chiếu tất cả những gì liên quan đến kiếp sống.
- “ Nghe như cô quạnh, gió lùa bên tai” : Ai nghe cô quạnh? Ai nghe ngọn gió lùa bên tai? Con sóng đã ra đi xa bờ vĩnh viễn, còn lại là bờ, là bến xưa. Vậy chắc chắn là bờ, là bến xưa nghe cô quạnh khi ngọn gió lùa than thở bên tai. Bờ và bến xưa đối với đời người là trần gian, là sông là núi, và muôn vật ở quanh ta, nơi mà ta đã từng có dấu bước qua khi  còn hiện hửu . Tôi hiểu từng hạt nắng trưa phản chiếu ngàn vạn nỗi buồn khi con sóng ra đi cũng như phản chiếu nỗi buồn của muôn vật trên trần khi con người biến mất. Tác giả đã nhân cách hóa cho dấu cát biết đợi chờ, hạt nắng biết buồn nhưng ở một khía cạnh nào đó của triết lý sâu xa, đó có thể là sự thật. Người ta vẫn thường nói sỏi đá hay muôn vật đều có linh hồn nên cũng có cảm xúc buồn vui, đợi chờ  chẳng khác chi người.
Ở bốn câu thơ cuối ,chủ đề của bài thơ được tác giả nêu lên một cách rỏ ràng:
Rong rêu phủ kín tháng ngày
Thời gian níu kéo hình hài rụng rơi
Xác thân thân xác một đời
Ta con sóng lượn dưới trời lao đao.
Tháng ngày là thời gian, và thời gian đã phủ kín rong rêu lên kiếp người. Chính thời gian đó cũng đã níu kéo hình hài con người già nua, rụng đi và rơi mất. Xác thân của một đời ta giữa cái thời gian vô tận chẳng khác chi một con sóng lượn trong biển bao la. Sóng hiện lên rồi sóng biến mất, người sinh ra rồi người tiêu vong. Một đời người chỉ như một con sóng mà vạn kiếp người cũng như những đợt sóng mà thôi: Chìm đi rồi hiện lại, hiện lại rồi chìm đi, không nhớ trước chẳng biết sau, chỉ thấy hiện tại là thân phận lênh đênh, nhấp nhô, lao đao và rong rêu phủ kín.
  “Biển, sóng và ta” là một bài thơ nhỏ nhưng đề cập đến vấn đề rất lớn, câu thơ gọn nhưng khiến lòng người suy tư mông lung, triết lý trong thơ tiềm ẩn trong hình ảnh của biển, của sóng đưa người đọc đi vào trầm tư suy tưởng, khắc khỏi vì thân phận kiếp người. Đó là những gì tôi thấy ở bài thơ “ Biển, sóng và ta” của nhà thơ Thái quốc Mưu ./.

Châu Thạch
ĐỌC THƠ DU ĐỊA PHỦ CỦA THÁI QUỐC MƯU
                                                                Châu Thạch

Cũng như lên trời, nhà thơ Thái Quốc Mưu du địa phủ nhiều lần trong nhiều tư cách. Khi thì ông được mời, khi thì đi dạo chơi, nhưng chưa lần nào ông bị gọi đi như đã từng nhận chiếu chỉ của Ngọc Hoàng. Điều đó chứng tỏ vai vế của ông đối với nhà trời thì còn thấp đôi chút nhưng đối với địa phủ thì chẳng đứng dưới ai kể cả Diêm Vương. Cũng khác với lên trời, tâm trạng của Thái Quốc Mưu khi về địa phủ không được vui, vì ở đó ông thấy toàn nghịch cảnh.
 Bây giờ ta hãy xem xét một vài bài thơ tiêu biểu trong những chuyện về âm phủ của Thái Quốc Mưu:

VIẾNG CÕI ÂM
Xuống dưới Diêm Vương dạo cảnh chơi.
Ô hay, địa phủ khác xa đời!
Quần thần mặt mũi như trâu ngựa
Binh lính sai nha khác tính người
Quan lại tham tiền nên tối mắt
Dân đen có miệng phải câm lời
Dưới trên một lũ y khuôn đổ.
Có mắt nhưng mà chẳng có ngươi.
Atlanta, Dec. 31, 2011
Thái Quốc Mưu

Đối với Thái Quốc Mưu, địa phủ hoàn toàn tăm tối. Dương trần còn có chuyện vui nhưng địa phủ theo hai cầu mở bài là “khác xa đời” và ở những câu thơ kế tiếp ông nêu ra toàn những hình ảnh xấu xa: Quần thần thì “mặt mũi như trâu ngựa”, binh lính sai nha thì “khác tính người”, quan lại thì  “tham tiền nên tối mắt”. Điều đau khổ nhất là cả cõi âm chỉ là một tập đoàn mù quán  “Dưới trên một lũ y khuôn đúc/ Có mắt nhưng mà chẳng có ngươi”. Sự kiện cõi âm là một tập đoàm mù quán trên dưới giống nhau như khuôn đúc là một tệ nan chung, lớn lao và đau khổ. Nó như một chiếc khóa khổng lồ cùm trói xã hội qua nhiều đời nhiều kiếp đã làm cho “ Dân đen có miệng phải câm lời”.
   Ở một lần thăm viếng địa phủ khác, nhà thơ Thái Quốc Mưu lại khẳn định thêm một lần nữa cõi âm ty là một chốn mà giới cầm quyền không có phẩm chất của người cai trị:

CÕI ÂM TY
Buồn buồn xuống viếng cõi âm ty
Mắt thấy tai nghe thật lạ kỳ
Viên chức toàn là đồ bát nháo
Quan quân cả thảy lũ vô nghì
Đầu trâu, mặt ngựa luôn vênh váo
Miệng hổ, lòng lang khó sánh bì
Lính lác cũng đòi tiền mãi lộ
Diêm vương thì đầu óc đen xì
Atlanta, Mar. 26, 2012
Thái Quốc Mưu

Tất nhiên lên trời hay xuống địa phủ cũng là những bài thơ phát sinh từ trí tưởng tượng của nhà thơ Thái Quốc Mưu, nhưng chúng ta thử hỏi vì sao ông có thái độ cởi mở khi lên trời mà lại có thái độ hằn học khi du địa phủ? Điều đó cũng có thể lý giải được vì hai thái độ khác nhau đó phát sinh từ tâm lý của nhà thơ. Đối với Thái Quốc Mưu, lên trời nằm trong ước vọng của ông về một điều tốt đẹp  Ông muốn đồng hóa cõi trời và cõi thế. Ông muốn con người cũng tốt đẹp như thần thánh và thần thánh cũng mang bản chất như con người để gần gủi con người. Những điều tốt đẹp ông tưởng tượng có ở trên trời thì ông ít thấy có ở trần gian mà có thể chỉ nằm trong ước mơ mà ông hư cấu trong đầu óc của mình, còn nhưng điều xấu xa ông gán cho đja ngục là cái mà ông đã thấy nhản tiền giữa thế gian, là cái mà ông đã và sẽ 
chung đụng, là cái mà ông rất ghét và đã từng phẩn nộ vì nó.  Vì vậy dễ hiểu khi ta thấy ông bỏ qua cái tốt mà chỉ toàn công kích cái xấu ở cõi âm ty. Chỉ một lần trong bài thơ “Địa phủ Du” nhà thơ công nhận âm ty cũng còn điều tốt đẹp: “ Âm ty chẳng khác gì nhân thế/ Cũng lắm hoa thơm lắm bọ giòi”. Có lẽ vì lúc đó tác giả có niềm vui gì đó nên cái nhìn của ông về cõi dưới cũng vui lây.
  Một lần nhà thơ được Diêm Vương mời xuống đánh cờ. Đánh cờ là thú chơi tao nhã của tiên ông, nó không phù hợp ở chốn kêu la và khóc lóc, vì vậy nhà thơ tỏ ra không hứng thú : 

NÓI VỚI DIÊM CHÚA
Cái lão Diêm Vương cắc cớ thôi
Nhè ta mời xuống đánh cờ chơi
Làm như cạn ráo lòng yêu gái
Chẳng biết dư thừa sức tắm hơi
Ào ạt y chang xe xuống núi
Lom khom na ná ngựa leo đồi
Không như tướng, sĩ xua dàn pháo
Chưa bước sang sông đã tịt ngòi.
Atlanta, Nov. 29. 2011
Thái Quốc Mưu

Đem cái thú chơi tiên mà so sánh với thú chơi dục tính của trần gian là một ẩn ý sâu sắc của bài thơ. Ta nhìn thấy ở đây Diêm vương lúng túng như một chú hề trong cái cử chỉ học đòi thanh tao đó . “ Y chang xe xuống núi/ na ná ngựa leo đồi” và cuối cùng thì “ Chưa bước sang sông đã tịt ngòi”  là tiếng cười chế diễu Diêm Vương, hay đúng ra, nhà thơ chế diễu hạng người quyền cao chức trọng, ăn chơi trác táng mà còn lòe thiên hạ sau tấm bình phong tốt đẹp.
 Đọc thơ về du hành ra khỏi trần gian của Thái Quốc Mưu ta thấy nhà thơ lên trời thì ít mà về địa phủ thì nhiều lần. Vì sao? Rỏ ràng vì ông canh cánh bên lòng những tệ đoan giữa cuộc đời, những bất công, những đau buồn trên trần thế. Nỗi lòng ông nặng bởi đời sống con người, bởi hạnh phúc nhân quần xã hội, cho nên sự phản đối sự xấu xa âm ỉ trong tâm tư ông,  khiến ông thường đi về địa phủ như đến thăm viếng an ủi lớp người bần cùng thì nhiều mà đi đến thiên đàng nơi có nhiều vinh quang thì ít.

   Đọc thơ về du hành địa phủ của Thái Quốc Mưu ta thấy ở đó tóm gọn những bản cáo trạng tố cáo mảnh liệt những điều xấu xa, nhất là những điều xấu xa ở giai cấp quan lại từ cao xuống thấp. Thật ra những điều Thái Quốc Mưu viết không chắc có ở địa phủ nhưng chính nó thật sự xảy ra ở trần gian. Thái Quốc Mưu dùng địa phủ để chỉ trích trần gian, chỉ trích những tệ nạn hoặc ít hoặc nhiều, hoặc nhẹ hoặc trầm trọng còn tùy vào cái nhìn ở mỗi góc cạnh khác nhau nhưng nó đã thật sự xảy ra trên toàn thế gian nầy không trừ một nơi đâu. Góp thêm với tiếng kêu của nhưng người có tâm huyết, Thái Quố Mưu dóng lên nhiều tiếng trống tố cáo quyền lực của sự tối tăm đã làm cho trần gian vốn chẳng thua gì tiên giới bao nhiêu lại trở thành địa phủ, nơi lòng người “đen xì” và mặt người biến ra “trâu ngựa”
                                              3/4/2014
                                              Châu Thạch
ĐỌC THƠ LÊN TRỜI CỦA THÁI QUỐC MƯU
                                                         Châu Thạch

Chẳng biết nhà thơ Thái quốc Mưu có phải là tiên là Phật hay không?. Nếu không phải là tiên là Phật thì đích thì ông là anh chàng ngông thuộc hàng bậc nhất thế gian. Bởi vì ông làm thơ lên trời nhiều lần mà xuống địa phủ cũng lắm khi. Thường thường, những người ngông thì hay kiêu ngạo khiến cho trời không dung đất không tha nhưng cái ngông trong thơ Thái quốc Mưu lại làm cho người vui mà trời cười thoải mái.
Đọc cái ngông của Thái quốc Mưu nhiều khi ta cũng thấy mình lâng lâng siêu thoát như cùng ông viếng Ngọc Hoàng, thăm đja phủ.
  Trước hết hảy thưởng thức vài bài thơ tiêu biểu mà ông kể chuyện lên trời:


LÃO ĐIÊN CHẦU TRỜI

Ngọc Hoàng hạ chiếu bảo về chầu
Vội lái phi thuyền diện kiến tâu
Quan chức ngồi nghe ngàn mấy trự
Bệ tiền tấu rỗi mỗi thằng tao
Cái tình dân tộc còn đâu - Chán!
Hai chữ nghĩa nhân cũng hết - Sầu!
Thượng Đế nghe xong liền vỗ án...
Tây Vương Thánh Mẫu thét: “Đau đầu!”

      Atlanta, April. 7, 2012
   Thái Quốc Mưu

Hai câu mở của bài “Lão điên chầu trời” đã cho ta thấy hai cái ngông của nhà thơ. Thứ nhất Thái quốc  Mưu tự nhận mình là quan chức nhà trời, vì chỉ có quan chức nhà trời thì mới lìa thế bay lên khi nhận chiếu chỉ Ngọc Hoàng. Người trần mắt thịt của chúng ta chỉ bỏ thế gian khi Satan mang lưởi hái tử thần đến điều đi trong đau khổ. Cái ngông thứ hai là Thái quốc Mưu tự cho mình là phi hành gia số một trần gian, vì cho đến nay chỉ có người cởi phi thuyền bay đến cung trăng chứ chưa hề có ai cởi phi thuyền mà lên đến tận trời, nơi thượng đế định cư .Hai câu mở tưởng là Thái quốc Mưu chỉ nói đến hai cái ngông để cười, nhưng thật ra còn thêm một cái ngông ẩn trong hai câu thơ đó vừa cao siêu vừa thú vị. Đó là Thái quốc Mưu tự cho mình có hai thân vị trong một con người. Thân vị là tiên khi ông nhận chiếu chỉ Ngọc Hoàng và thân vị là người khi ông cởi chiếc phi thuyền bay lên. Tiên thì chỉ về trời bằng mây hay bằng cá chép chớ không cởi phi thuyền mà đi được. Người thì chẳng bao giờ nhận được chiếu chỉ của Ngọc Hoàng triệu hồi về lại thiên cung. Thái quốc Mưu được về trời, lại vể trời bằng phi thuyền của con người chế tạo, cho nên ông có hai thân vị của thánh thần và của nhân gian. Vì mang hai thân vị đó nên qua hai câu thơ ở vế trạng, nhà thơ Thái quốc Mưu coi mình như bình đẳng với thánh thần nhà trời mà phát ngôn bằng những từ của giới bình dân trần thế:

Quan chức ngồi nghe ngàn mấy trự
Bệ tiền tấu rỗi mỗi thằng tao

“ Mấy trự” là mấy đồng tiền lẽ. “Thằng tao” thì thằng là tự coi mình tầm thường, “tao” là xưng hô với người ta không tôn trọng.
Quan chức nhà trời ngồi trên ngàn vị nhưng được xem chỉ như là “mấy trự”, có nghĩa là giá trị của họ chỉ bằng bạc cắt, bạc kênh thôi. “ Tấu rỗi” có nghĩa thong thả tâu, lai rai trình tấu. Hai câu trạng chứng tỏ tại sân nhà trời, Thái quốc Mưu và thánh thần không có ai trên ai dưới, phẩm cách như nhau. Chữ “tấu” ở đây chỉ là cách nói lịch sự tôn trọng đám đông. Cách chơi chữ trong hai câu thơ nầy rất hay vì tác giả tự nhún nhường hạ mình xuống làm “ thằng” sau khi xem thường gọi đối phương nhà trời là ‘trự” và xưng “tao” với họ. Quan chức nhà trời ngồi nghe ở đây không thể nổi nóng mà dễ dàng cười thông cảm vì Thái quốc Mưu dùng cách xưng hô như người Dân Tộc: ai cũng gọi bằng thằng và xưng lại là tau.

Qua vế luận, lão điên không còn điên nữa mà lời phát ngôn nghiêm chỉnh như một hiền nhân ưu tư về thế sự:

Cái tình dân tộc còn đâu – chán!
Hai chữ nghĩa nhân cũng hết –sầu!

Hai chữ “chán” và “sầu” nhấn mạnh như kết luận tình hình trần thế mà lão điên trình lên hội đồng thiên thượng cùng lời ta thán bày tỏ nỗi lòng lo âu vì thời cuộc thế gian. Điều đó chứng tỏ sự tỉnh táo trong tâm thần người đứng trước bệ tiền. Cái điên vừa qua chỉ là trò giả ngây ngô của một vì thần tiên pha cốt cách con người đóng vai hài hước tạo nguồn vui. Lão điên bây giờ trở lại nguyên hình là một sứ thần đầy uy tín. Do đó nhà trời tin ngay những lời ông nói mới “vỗ án”, “đau đầu”.

Bài thơ “lão điên chầu trời” như một nụ cười diễu cợt nhà trời. Nụ cười đó mang đầy tính chất ngông nghênh, hài hước đem đến giữa thiên triều một không khí tươi vui nhưng cũng gián tiêp tỏ ra nhân phẩm của con người không thua chi thiên thượng. Đọc bài thơ ta thấy cõi trời và cõi người hầu như rất gần nhau và cái điên của lão điên là cầu nối thân thiện giữ con người cùng thượng đế.
Qua một lần khác, Thái quốc Mưu không chầu trời với tư cách sứ thần mà với tư cách khách vãng lai:

VIẾNG TRỜI
Nhân tiện ngang qua ghé viếng Trời
Gặp ông Thái Thượng vểnh râu cười
Một đàn tiên nữ ra vồn vã
Mặt ngọc Hằng Nga tỏa sáng ngời
Phật Tổ giơ tay: “Chào Lão Đệ!”
Quan Âm cất tiếng: “Á, Ông Lười!”
Nước Trời trên dưới cùng tôn quý
Khác với nhân gian lắm ngợm người
Atlanta, Dec. 2, 2011
Thái Quốc Mưu
Toàn thể bài thơ trình bày một cuộc đón tiếp niềm nở của nhà trời với một người bạn thân thương. Vị thần mà tác giả gặp đầu tiên là Thái Thượng Lão Quân. Thái Thượng Lão Quân là tôn hiệu của một vị thần tiên trong Đạo giáo Trung Quốc. Trong thần thoại Đạo giáo, Thái Thượng Lão Quân có trước cả trời đất, chính là nguyên khí thời hỗn mang ngưng kết mà thành. Thái Thượng Lão Quân ở cung Đâu Suất, tại tầng trời thứ 33. TRong cung Đâu Suất có lò Bát Quái là nơi luyện các loại tiên đơn thánh thủy để trường sanh bất tử. Tiếp đó tác giả gặp Hằng Nga, Phật Tổ,  Quan Âm và tiên nữ vui mừng chào thưa vồn vã. Bài thơ cho ta thấy một không khí nhu hòa, tươi vui, thân thiện chứng tỏ người đến thăm là người được nhà trời yêu thương mến mộ. Trong bài thơ nầy tác giả chỉ bày tỏ một thân vị thần thánh của ông qua lời lẽ trong thơ và qua cách đón tiếp của nhà trời. Lời thơ trong “Viếng Trời” không chế riễu, không coi nhẹ người nước trời nữa mà cuối bài ông còn ca tụng “Nước trời trên dưới cùng tôn quý”. Điều nầy dễ hiểu vì bây giờ ông và họ cùng đẳng cấp như nhau, cùng mang chung thân vị thần tiên nên không có sự tị hiềm ganh ghét . TRong bài thơ nầy tác giả thẳng thừng chê bai hạ giới : “Khác với nhân gian lắm ngợm người”. Điều nầy không đáng trách, vì khi tác giả đóng vai thần chánh hiệu thì phải nhận xét con người với tất cả công tâm. Có như thế bài thơ mới thoát tục và mang hương vị ở chốn cao sang, thánh thoát.

  Thái quốc Mưu là một nhà thơ nhưng chính thơ ông sáng tác lại đóng vai diễn viên trên sân khấu. Khi điên thì cái điên cũng mượt mà, thanh nhã và chơn chất mà khi nghiêm chỉnh thì đường bệ, thanh cao. Dầu điên hay tỉnh Thái quốc Mưu luôn có nụ cười hóm hỉnh, ý vị và hài hòa như lan ra giữa cõi trời một niềm vui thú, làm cho cõi trời trở nên một sân khấu cho khán  giả trút đi ưu tư phiền muộn trong tiếng cười. Rất nhiều thi sĩ đã về trời trong cơn say chếnh choáng. Rát nhiều thi sĩ đã đứng trước bệ tiền miệt thị cõi bề trên. Thái quốc Mưu thì không như thế. Khi thì ông về trời trong thân vị nửa tục nửa tiên để hiểu thấu đáo niềm đau của loài người và nỗi khổ của đấng chí cao. Khi thì ông về trời trong thân vị một vị thần để thư giản cho chính mình và thư giản cho người thưởng thức thơ ông. Dầu về trời trong cương vị thế nào, thơ Thái quốc Mưu đều tiềm ẩn trong đó một triết lý sống vui, nhẹ nhàng và thoải mái, làm cho người đọc sau nụ cười thì chiêm nghiệm được phong cách sống ở đời cho đẹp thêm lên ./.
                                     Châu Thạch
KHUYNH HƯỚNG TÌM NHÀN
TRONG THƠ THÁI QUỐC MƯU

                                             Châu Thạch

Khuynh hướng thích sống nhàn đã có từ thời xa xưa trong văn thơ. Từ thời Đường bên Trung Quốc có bài thơ “Nhàn” của Bạch Cư Dị lưu truyền đến nay một thái độ sống bình an tự tại để hưởng niềm vui.

Ở Việt Nam ta, nhàn là cách muốn sống quen thuộc của nhà Nho xưa, thường là bởi một lý do nào đó như chán ngán con đường hoạn lộ, bất đắc chí vì thời cuộc đổi thay hay đã trả xong nợ sách đèn nên tìm thú hưởng nhàn bằng cách tránh xa thực tại, tìm vui trong thiên nhiên.

Thời Trần, nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm xa lánh bả vinh hoa, tìm nhàn trong vui thú điền viên như cày cuốc, đi câu, gần gủi với thuyết vô vi của đạo Lão. Nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng ký gởi tâm trạng mình trong các bài thơ Thu Ẩm, Thu Điếu, Thu Vịnh để tìm quên thế sự trong cảnh thanh nhàn giữa cảnh vật thiên nhiên. Nguyễn Công Trứ cầu nhàn hưởng lạc trong những thú tiêu khiển khi còn đang tại chức và ngao du sơn thuỷ tìm nhàn khi nợ kẻ sĩ trả xong.

Ngày nay giữa thế kỷ 21, nhà thơ Thái Quốc Mưu cũng có khuynh hướng nhàn được thổ lộ trong bài thơ “Tìm Nhàn”. Thử đi vào bài thơ “Tìm Nhàn” của ông để để suy nghiệm thêm về cái lý do và cái ý muốn nhàn của nhà thơ thời đương đại:

Tìm Nhàn
Cuộc sống suy ra khổ luỵ nhiều
Cái tình nồng ấm chẳng bao nhiêu
Chi bằng lên núi đùa mây gió
Hoặc giả ra sông ngắm nắng chiều
Nhật nhật trần gian thường tự tại
Thời thời cực lạc tất tiêu diêu
Thư nhàn vui với câu thơ phú
Gác gối… cùng ta lẩy, luận Kiều.

Như trên đã nói các nhà thơ thời xưa có khuynh hướng hưởng nhàn vì ảnh hưởng thuyết vô vi của Lão giáo, đồng thời trong cuộc đời gặp sự cố bất bình, từ đó sinh ra yếm thế.

Hai câu thơ nhập đề trong bài thơ “Tìm Nhàn’ của Thái Quốc Mưu chưa tìm thấy bị ảnh hưởng bởi đạo Lão nhưng tư tưởng yếm thế cũng đã bộc lộ rỏ ràng khi cho cuộc sống là khổ luỵ và tình người chẳng nồng ấm bao nhiêu!

Thật thế, ngày nay con người bị quay cuồng chạy theo vật chất vì đòi hỏi của sự sống cần quá nhiều nhu cầu bức thiết. Con người càng văn minh thì mức sống vật chất càng cao, từ đó tinh thần bị suy giảm làm cho tình người bị giá lạnh đi. Chữ “khổ luỵ’ mà nhà thơ Thái Quốc Mưu đã nói nó thiên về phần tinh thần hơn phần vật chất vì câu thơ kế tiếp bổ nghĩa cho câu thơ trên là “cái tình nồng ấm chẳng bao nhiêu”. Chủ nghĩa cá nhân của phương tây càng ngày càng phát triển đem lợi ích là quyền tự do cá nhân được tôn trọng nhưng nó càng khiến loài người trở nên ích kỷ, khô khan tình yêu thương đồng loại, tha nhân.

Khi Thái Quốc Mưu nói “Cái tình nồng ấm chẳng bao nhiêu” ông không đặt cá nhân mình vào sự bất mản vì bị thua thiệt ở đời mà ta thấy tác giả nhấn mạnh chữ “Cuộc sống” nghĩa là chỉ vào sự suy thoái đạo đức chung của con người trong xã hội ngày nay. Khác với một Thái Quốc Mưu thường lên trời hay xuống địa ngục, luôn luôn kiên cường, dè biểu, tố cáo cái xấu, mong muốn sửa chửa con người một cách tích cực thì ở bài thơ nầy ông tỏ ra tiêu cực, lánh xa sự náo nhiệt, tìm nơi ở đem sự bình lặng cho mình:

Chi bằng lên núi đùa mây gió
Hoặc giả ra sông ngắm nắng chiều

Hai chữ “chi bằng” và hai chữ “hoặc giả” cho ta thấy lên núi và ra sông không phải là điều ông thật sự mong muốn. “Đùa mây gió”, “ngắm nắng chiều” chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Ta thấy khác với các nhà thơ xưa, cái tinh thần vô vi của đạo lão không có sẵn trong Thái Quốc Mưu, mà ở đây, cái tinh thần dấn thân trong cuộc đời có sẳn trong ông bị ngưng trệ trong một vài phút giây xuống tinh thần sinh ra yếm thế. “Đùa mây gió”, “ngắm nắng chiều” với Thái Quốc Mưu không phải để tu thân, không phải để hoà nhập với đất trời như chính nó, mà chỉ là cách quay lưng lại, tạm quên cuộc đời nhọc nhằn khổ luỵ mà thôi. Tất nhiên các nhà nho xưa cũng chán đời mới tìm nhàn nhưng chữ “nhàn” đối với họ là con đường giải thoát còn chữ “nhàn” ngày nay của Thái Quốc mưu là con đường thư giản tìm quên, không phải là cứu cánh.

Qua hai câu luận của bài thơ “Nhật nhật trần gian thường tự tại / Thời thời cực lạc tất tiêu diêu” được giải nghĩa là “Ngày ngày trần gian mà ung dung tự tại thì khi chết sẽ tiêu diêu miền cực lạc” và hai câu kết “Thư nhàn vui với câu thơ phú /Gác gối…cùng ta lẩy, luận Kiều” cho thấy phong cách hưởng nhàn của nhà thơ ung dung và tự tại nhưng chung quy vẫn chưa thoát hẳn ra ngoài vòng tục luỵ. Chưa thoát hẳn ra vì sao? 

Đọc bài thơ “Nhàn” của Nguyễn bỉnh Khiêm ta thấy tác giả thoát hẳn vòng danh lợi, lui về ở ẩn và sống lao động, ăn uống giữa thiên nhiên và sự thật ông đã làm như thế:

Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ao vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
ợu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tợ chiêm bao.

Ngược lại đọc bài thơ “Tìm Nhàn” của Thái Quốc Mưu ta biết đó chỉ là ước mơ trong khi ông vẫn sống, làm việc trong “cuộc sống suy ra khổ luỵ nhiều” nầy. Ở một bài thơ “Tìm Nhàn” khác, khẳn định cái quan niệm hưởng nhàn của nhà thơ như là một nguồn vui mới thanh nhã hơn nhưng vẫn dấn thân và năng động:

Vinh nhục bao phen đã đủ rồi
Dại gì ta chẳng chịu vui chơi
Lên non đùa giỡn cùng hoa bướm
Tắm biển tung tăng với nắng trời
Vẩy gió đùa mây trêu ã nguyệt
Căng bườm lướt sóng vượt ngàn khơi
Lên đèn, vung bút làm thơ phú
Nghiêng gối chung chăn với bạn đời.

Tóm lại ta nhận thấy cái quan diểm hưởng nhàn của nhà thơ Thái quốc Mưu là sự chắc lọc tinh hoa của tư tưởng người xưa cọng thêm tư duy của mình trong hoàn cảnh thực tế ngày nay. Hoàn cảnh thực tế không cho nhà thơ hành đạo như các tiên ông xuất thế, quên đời, hoà mình trong cõi thiên nhiên. Vì vậy, thơ là sự thăng hoa ước muốn của tâm hồn mình.

Cái hay trong thơ “Tìm Nhàn” của Thái Quốc Mưu là nhà thơ không thánh hoá mình như tiên ông đạo cốt. Đọc thơ ta không thấy cái cao siêu giả tạo của hạng người lộng ngôn chỉ tu thân trên miệng lưởi của mình. Đọc thơ ta thấy con người thật của Thái Quốc Mưu vẫn còn lấm bụi trần nhưng lòng trần của ông luôn ao ước những điều cao đẹp .

Thơ “Tìm Nhàn” của Thái Quốc Mưu cũng thể hiện cho tâm tư của nhiều bậc trí giả ngày nay, ước mơ một vùng bình yên để nghỉ dưởng tâm hồn nhưng dễ đâu mà có được ./.

Châu Thạch
Đà Nẵng, ngày 1/9/2014

NỖI NHỚ QUÊ HƯƠNG TRONG
     THƠ THÁI QUỐC MƯU
                                           Châu Thạch

Hiếm có ai xa quê hương mà không nhớ đến quê hương. “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nỗi thành người” thơ của Đỗ Trung Quân hầu như đã trở thành câu thành ngữ ăn sâu vào lòng người dân Việt . Tuy thế, nỗi nhớ quê hương đó không phải ai cũng giống ai. Bởi mỗi người có sự gắn bó với quê hương khác nhau, có hoàn cảnh xa quê hương khác nhau và sự rung động của tâm hồn cũng khác nhau nữa, nên nỗi niềm thương nhớ quê hương cũng có sự khác biệt trong nội tâm mỗi người. Thơ diễn tả nỗi nhớ quê hương cũng thế, có bài da diết, có bài dằn vặt, có bài êm đềm sâu lắng, nhưng chung quy tác giả nào thật sự yêu quê hương thì tiếng lòng của họ làm cho ngôn ngữ của họ hồn nhiên đi vào tâm tư người đọc, mặc dầu thơ họ có thể tự nhiên như là lời nói mà thôi. Ba nhà thơ mà tôi có cơ hội biết đến bút pháp của họ như có hồn quê hương núp ở trong thơ, đó là Nguyệt Lãng, Trần Ngọc Hưởng và Thái Quốc Mưu, trong đó nhà thơ Thái Quốc Mưu là người thật sự xa quê hương biền biệt vì ông định cư ở xứ người bên kia bờ biển Thái Bình Dương.
 Cũng như bao người ly hương khác, mỗi độ xuân về thì nhà thơ Thái Quốc Mưu lại nhớ đến quê hương, nhất là khi mùa xuân đến ở xứ ta thì nơi xứ người thời tiết vẫn còn đông, khiến cho cõi lòng như cũng thành băng tuyết với không gian. Nỗi buồn của Thái Quốc Mưu không giống với cái buồn của nhưng người hoà nhập với vùng đất mới định cư, mà nỗi buồn của ông trĩu nặng bởi mặc cảm tấm thân mình bèo dạt mây trôi:

           Xuân đến xứ người đang tiết đông
           Hỏi, đời ly xứ có buồn không?
           Mả mồ tiên tổ nhờ chăm sóc
           Đền miếu ông bà cậy ngó trông
           Tất bật xứ người quên tết đến
           Mệt lừ thân xác hết Xuân mong
           Tấm thân lạc xứ con bèo dạt
           Mỗi độ xuân sang tím ngắt lòng.
                                  ( Chạnh Lòng)

Đáng khen là niềm băng khoăng đầu tiên trong lòng tác giả khi nhớ đên quê hương là “Mả mồ tiên tổ”, “Đền miếu ông bà”. Điều đó thể hiện bản chất hiếu kính luôn có trong con người Việt Nam chân chính cũng có trong lòng tác giả bài thơ.
 Nhà thơ Thái Quốc Mưu không nhớ quê hương một cách bất chợt trong giây phút nào đó như những người xa quê hương bận bịu với công việc
hay vui thú lao vào trong đời sống mới của đất nước thiên đàng hạ giới. Thái Quốc Mưu thương nhớ quê hương một cách triền miên theo bước đi của thời gian mà nhà thơ diễn tả là bước đi của “mùa” bằng chữ “dấu” hay chính ra là xao động của thời gian trong vạn vật:

                 Đêm nằm nghe dấu xuân gần đến
                 Chạnh nhớ quê hương ướt sượt lòng
                                         ( Than Thân)
“Dấu xuân” mà tác giả nghe trong đêm là gì?
Như tác giả đã viết ‘Xuân đến xứ người đang tiết đông”, cho nên dấu xuân đó không thể là tiếng tuyết rơi, tiếng gió lạnh. Vậy chỉ có thể tiếng “dấu xuân” ở ngay trong lòng tác giả suy nghĩ về xuân đang đến trên quê hương xa xôi của mình. Dấu xuân ở đây là hình ảnh  nhớ lại những kỷ niệm của mùa xuân quê hương khi tác giả đang trằn trọc trong đêm ở xứ người, nơi xa ngàn vạn dặm với quê hương yêu dấu của ông. “ Dấu xuân gần đến” là chỉ gần đến trên quê hương của tác giả nhưng còn rất xa với nơi chốn ông ở, với căn phòng lạnh lẽo ông đang nằm thao thức đêm đêm. Đọc hai câu thơ trên ta hình dung được Thái Quốc Mưu đang lọt thỏm vào khung trời cô liêu rộng lớn của chốn không gian ông đang ở và của chính tâm hồn ông đang cảm nhận.
 Thái Quốc Mưu thương nhớ quê hương biết bao nhiêu, và tất nhiên như bao nhiêu người khác ông thương nhớ non sông đất nước, thương nhớ phong cảnh nên thơ và hữu tình, thương nhớ những kỷ niệm ngọt ngào của thời còn trai trẻ, nhưng cái làm cho da diết lòng mình vẫn là những cái đại diện cho “chùm khế ngọt” của quê hương, mảnh vườn thân yếu thưở ấy:

            Nhớ thuở ra vườn để ngoạn du
            Cây cao vọng xuống tiếng cu gù
            Sáo diều réo rắc cho mây đọng
             Đàn dế êm đềm cất tiếng ru
                                    ( Nhớ Quê)

Nhà thơ nhớ nhiều đến quê hương một phần cũng vì mùa xuân trên xứ người chỉ là sự chua xót làm cho nhà thơ cảm thấy cuộc đời mình trở nên vô cùng vô vị:

                Xuân đến nghe lòng chua xót thay
                Làm thân lưu lạc có gì hay?
                                    (Nghiền ngẫm)
Chua xót bởi vì:

                  Quê người nhân nghĩa mờ sương khói
                   Đất mẹ nhân tình hoá bễ dâu
                                        (Thán)

Nhà thơ Thái Quốc Mưu thuộc hạng người cố cựu, ông thương nhớ cái nghèo trong khi đang sống trên đất người giàu sang và tiện nghi đầy đủ:

                Làm thân lạc xứ chao ôi nhớ!
                 Dưới cuộn khói lam bếp lửa hồng
                                     (Nỗi Niềm)

“Cuộn khói lam”, “bếp lửa hồng” tuy là cảnh đầm ấm nhưng rất nghèo đối với nếp sống ngày nay của tác giả. Cảnh nghèo đó của một thời xa xưa đối với nhà thơ thân thương, thú vị biết bao, canh cánh bên lòng không bao giờ phai mờ trong tâm trí và cảnh đó người đi muốn giữ lại muôn đời nên đã đem lòng lo xa cho thế hệ mai sau:

                  Muôn vạn chông gai khắp nẽo đường
                  Bụi đời pha mái tóc thêm sương
                  Tô son để tỏ tình non nước
                   Gát bút ngồi mơ chuyện cố hương
                   Nhớ mẩu cau trầu trong truyện cổ
                  Thương màu cam bưởi toả sau vườn
                   Mai đây, mốt nọ…rồi con cháu
                   Quên cả núi sông, cả cội nguồn/
                                       ( Nỗi buồn xa xứ)
Quê hương đau đáu trong lòng, niềm nhớ triền miên trong tâm trí đến nỗi nhà thơ đem vào trong giấc mơ quá khứ và hiện tại trộn lẫn vào nhau:

             Quay về nghe ngọn gió lao xao
             Khơi dậy trong ta nhớ thuở nào
             Vác cuốc đào bờ moi chú dế
             Tranh phần há miệng chưởi mầy tao
              Ở nơi chôn rún bên đồng nội
              Mang giỏ ra đìa dưới bóng cau
              Con cá bạc đầu ngoi mắt nước
               Giậc mình tóc trắng phủ bờ ao   .
                                   ( Về chốn xưa)

“Giậc mình tóc trắng phủ bờ ao” chẳng khác chi một giấc Nam Kha khi “Bừng con mắt dậy thấy mình tay không”. Đọc bài thơ ta thấy tâm trạng hụt hẫng vô cùng của tác giả khi giậc mình tỉnh ra thấy đời đã qua, tóc mình đã bạc.

 Lời thơ của Đỗ Trung Quân “Quê hưởng mỗi người chỉ một/ Như là chỉ một mà thôi” rất đúng,  cho nên nhà thơ Thái Quốc Mưu dầu nằm trên chăn ấm nệm êm vẫn nhớ đến nơi mà mình “vác cuốc đào bờ”, “mang giỏ ra đìa” thời gian khổ thuở xưa. Nhà thơ thì biến nỗi nhớ thành thơ là sự thường tình, nhưng lời thơ đơn sơ, ý thơ mộc mạc mà tình thơ thấm thía là điều rất khó khăn thay. Đất mẹ linh thiêng, cho nên ai yêu quê hương thì linh thiêng có ở trong lòng, lời nói ra hay thơ sáng tác ra đều có tiếng quê hương ẩn chứa trong đó khiến cho âm vọng làm rung động con tim biết bao người ./.
                                             Châu Thạch

“NGỢM NGƯỜI” TRONG THƠ
          THÁI QUỐC MƯU

                                                Châu Thạch

Nếu ai hỏi tôi nhà thơ Thái Quốc Mưu yêu gì và ghét gì nhất, chắc có lẽ tôi không trả lời được điều yêu nhất, nhưng điều ghét nhất của Thái Quốc Mưu thì qua thơ ông quá rõ ràng.

Trong bài thơ khóc Nguyệt Lãng, một trong những người bạn thơ thân nhất của Thái Quốc Mưu, nhà thơ đã khuyên người quá cố đừng trở lại trần gian chẳng phải vì trần gian là chốn sinh, lão, bệnh, tử hay điều gì khác mà chỉ vì trần gian là chốn có nhiều “ngợm người”:

Đừng nên trở lại nơi trần thế
Một cõi quanh anh lắm ngợm người
(Khóc Nguyệt Lãng)

Trong một lần “Viếng Trời” nhà thơ cũng so sánh sự khác biệt đáng kể nhất giữa cõi trời và cõi người mà cõi người có lắm “ngợm người”:

Nước trời trên dưới cùng tôn quý
Khác với nhân gian lắm ngợm người
(Viếng Trời)

Vậy “ngợm người”là gì?

Thật ra chữ “ngợm người” không tìm ra một định nghĩa chính xác. Tự điển Việt Nam có sách định nghĩa: “ngợm người” là người ngu dại”; có sách định nghĩa: “ngợm người” là người, với ý nghĩa xấu nói chung”. Lại có người cho chữ “ngợm” phát xuất từ chữ “ngựa” nên chữ “ngợm người” là, “nửa ngựa nửa người, nghĩa là người không ra người mà ngựa chẳng ra ngựa”. Cũng có giải thích “ngợm người” như sau: “Ngợm là gì? - Ngợm cũng đi bằng hai chân, mặc quần áo, mang hia, đội mão, có trí tuệ, có tiếng nói, ăn từ thượng vàng hạ cám đến cao lương mỹ vị xuống bắp luộc khoai nướng nhưng khác con người ở chỗ, con người có thể ăn được đủ thứ nhưng không bao giờ ăn thịt đồng loại, còn ngợm thì đến thịt đồng loại cũng sẵn sàng ăn sống nuốt tươi” (Tất nhiên người mà ăn thịt người chỉ nói theo nghĩa ngụ ý mà thôi).

Như thế chữ “ngợm người” cũng như chữ “chó má”. “Con chó có thể ăn bẩn nhưng dứt khoát không ăn thịt đồng loại, còn con má về hình thức giống y như con chó nhưng đến thịt đồng loại cũng không từ! Có người nghĩ rằng, “ngợm người” là lũ người “điên” cần phải đi học. Học gì? - Học làm người, học để biết thiên chức của con người”.

Xem như thế “ngợm người” hay “người ngợm” quả nhiên không phải người tốt.

Tóm lại, “ngợm người” để chỉ những kẻ có hình thể, vóc dáng của con người, nhưng cách sống với đồng loại, chưa đạt được cái bản chất đích thực của CON NGƯỜI, mà tôi đã đọc trong mục danh ngôn đâu đó câu: “Hãy sống sao cho người ra NGƯỜI” của Thái tiên sinh.

Ngoài ra, trong bài thơ Niềm Mơ Ước Vĩ Đại Của Tôi, Thái Quốc Mưu đã viết:

Mặc ai mơ nước Thiên Đàng
Mặc ai mơ cõi Niết Bàn xa xôi
Tôi sinh ra giữa Đất, Trời.
Chỉ mong làm được CON NGƯỜI – viết hoa.

Theo Thái Quốc Mưu thì giống động vật mang tên người, khi được “Viết hoa” thành CON NGƯỜI thì vô cùng khó khăn, lớn lao, vĩ đại, và cao quý hơn tất cả. Nó nằm trên tất cả những ước mơ – kể cả Thiên Đàng hoặc Niết Bàn. Bởi, khi tất cả giống người biết tu thân để trở thành CON NGƯỜI được viết hoa, thì xã hội lúc đó đa số chỉ có những CON NGƯỜI đích thực là NGƯỜI. Họ toàn là bậc chính nhân quân tử, lương thiện, gắn bó yêu thương,... thì Thiên Đàng hoặc Niết Bàn đã hiện hữu giữa trần đời, chẳng phải tìm đâu xa. Khi ấy, lũ “ngợm người” không còn đất dung thân, chẳng thể tồn tại. Sẽ tự diệt.

Bây giờ qua thơ Thái Quốc Mưu ta thử tìm xem những thành phần nào trong xã hội mà nhà thơ ghét nhất? Câu trả lời, chính xác nhất, đó là lũ “ngợm người”.

Trong bài thơ “Trên Chót Đỉnh” Thái Quốc Mưu đứng trên núi nhìn xuống “đời”, ông đã thấy “lắm lũ loài”. Ông dùng chữ ‘lũ loài” chứng tỏ ông rất ghét hạng người nầy, đó là hạng người tranh bả lợi danh, giựt dành lợi lộc làm mất cái nhân tính đích thực của CON NGƯỜI:

Ngó xuống. Ôi chao lắm lũ loài
Tranh chấp bả danh nhân tính mất
Giựt dành lợi lộc hận thù sôi
(Trên chót Đỉnh)

Cái bọn người mà bả danh vọng và lợi lộc đã làm cho họ sôi máu hận thù, mất đi nhân tính đó, đã được nhà thơ gọi đích danh trong bài thơ “Khác Biệt” của ông:

Quan tham đầu óc như “lì đỗn”
Chỉ biết thu gom với nhét vào
(Khác biệt)

Đọc ngược hai chữ đóng trong ngoặc kép ta thấy Thái Quốc Mưu khinh bọn quan tham đến cỡ nào.

Và với Thái Quốc Mưu bọn người ấy không những là phường phi đạo đức, bất tài, bất nhân, bất nghĩa, tham lam vô tận, lừa bịp, thất học, ngô nghê trước quần chúng; vậy mà hay lếu láo khoe khoang, vênh váo,... ăn trên, ngồi tróc để lèo lái mọi việc chẳng khác nào như bác tài vừa dỡ lại ba hoa:

Đạo đức trống không hay lếu láo
Chân tài rỗng toác cứ thày lay
(Có những bác tài)

Nhà thơ Thái Quốc Mưu không tiếc lời giận dữ điểm mặt bọn người xấu xa trên với lời lẽ vô cùng cay cú:

Hôm sớm đem đầu ra đội đít
Trưa chiều gục mặt để chờ khi
Cong lưng đổi miếng mồi danh lợi
Ngậm miệng ăn ba cái bã chì
(Vịnh ông Táo)

Và cuối cùng Thái Quốc Mưu không còn nể nang gì nữa và thẳng tay chỉ vào mặt bọn người mà ông ghét nhất trên trần gian nầy, công bố, vạch trần tội lỗi xấu xa nhơ nhuốt của họ, lũ “ngợm người” mà từ xưa đến nay thời nào cũng có:

Quan ôn xưa nay
Phẩm chất kém - cần sơn, phết, xi
Bằng cao. dốt rặt mới ly kỳ
Văn thư nguệch ngoạc run cầy sấy
Chữ ký loằng ngoằng méo miệng ghi
Quán nhậu nghênh ngang tuồng hổ, sói
Cửa quyền hống hách tựa tần, phi
Gặp thời chồn cáo vươn nanh vuốt
Sớm tối vênh vênh cái mặt chì.

Vậy qua thơ ta biết thứ mà nhà thơ ghét nhất trên đời là ai vậy?

Tất nhiên không phải là những người mang chữ “ngợm” với nghĩa xấu bình thường. Tất nhiên, đó không phải là người ngu dại; tất nhiên không phải người khuyết tật, người phạm tội hình sự, kẻ vô tình, vô tâm... Nói chung tất cả những bị cho là “người xấu” đó, đều không phải thứ “ngợm người” mà Thái Quốc Mưu muốn đề cập. Thái Quốc Mưu nói thẳng lũ ngợm người ấy chính là những kẻ ngồi ở ghế quan lại trên cao mà kém tài, thất đức, bám danh hưởng lợi,...

Qua thơ Thái Quốc Mưu, bọn “ngợm người” là bọn “Quan ôn” vô lại. Bọn đó làm cho nhà thơ Thái Quốc Mưu chán chê thế gian nầy đến nỗi ông đã nhắn với người bạn thơ tri âm của mình:

“Nhớ bút hãy đùa cùng trăng gió
Thèm thơ xin nhắn cái thằng tôi”

nhưng,

Đừng nên trở lại nơi trần thế
Một cõi quanh anh lắm ngợm người”.

Với bọn “ngợm người” nầy nhà thơ Thái Quốc Mưu cho rằng đã hết thuốc chửa rồi, cho nên ông chẳng cần nhắn nhủ khuyên lơn, dạy bảo gì họ cả, mà chỉ lắc đầu bỏ đi, buông ra cho chúng một câu để nhớ đời:

Chớ tưởng quyền uy thay trí óc
Đừng hòng sỏi đá hoá trân châu ./.
(Biển Đời)

Châu Thạch
Hình ảnh người quân tử trong bài thơ
 “Cây Sào” của Thái Quốc Mưu
                                          Châu Thạch
Cây Sào
                    Thái Quốc Mưu
Vóc thẳng lòng ngay đứng giữa trời
Nặng tình sông nước mãi không vơi
Vung lên ác điểu hồn chao đảo
Thọc xuống kình ngư vía rụng rời
Bốn cõi mênh mang vầng nguyệt chiếu
Một đời rực rở ánh dương soi
Gió mưa, mặc gió mưa vùi dập
Sông nước nặng tình mãi mãi thôi./.
                                      TQM
Lời bàn: Châu Thạch
Quân tử là mẫu người lý tưởng theo nhân sinh quan của Nho giáo. Người quân tử có năm đức tính, chín tiêu chuẩn làm người và tám bậc thang hàng động. Nói chung người quân tử là người tốt, có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đầy đủ, cương trực, nhân ái và trí tuệ. Từ xưa đến nay người ta thường dùng cây trúc, cây tùng là loài cây đứng giữa trời đất chịu đựng gió sương, bão táp để làm biểu tượng cho người quân tử. Nhà thơ Thái Quốc Mưu không theo thông lệ, ông dùng cây sào là một dụng cụ để chống thuyền đi trên sông nước làm hình ảnh để tôn vinh người quân tử, nhờ đó người quân tử dưới ngòi bút Thái Quốc Mưu có đầy đủ tính chất cao thượng của bậc hào kiệt nhưng lại rất gần gủi với chúng ta trong cuộc sống đời thường. Suốt bài thơ tác giả không dùng chữ “Quân Tử” nào nhưng “Cây Sào” được miêu tả mang đầy đủ tác phong của con người có tư cách đó.
Vào hai câu mở của bài Đường thi, Thái Quốc Mưu đã nhân cách hoá cây sào trở thành một nhân vật có đời sống, có cả nội tâm:

Vóc thẳng lòng ngay đứng giữa trời
Nặng tình sông nước mãi không vơi

“Vóc thẳng lòng ngay” là hình dáng của cây sào nhưng vóc thẳng và lòng ngay cũng nói lên tính cương trực của người quân tử luôn luôn không chịu luồn cúi và không nghiêng theo điều sai quấy trong xử thế giữa đời. “Đứng giữa trời” là hoàn cảnh công viềc hằng ngày của cây sào nhưng đứng giữa trời cũng là hình ảnh của người hiên ngang không sợ gian lao, không sờn nguy hiểm, kiên gan trước mọi thử thách đến với mình. “Nặng tình sông nước mãi không vơi” là sự tiếp xúc hằng ngày giữa cây sào và sông nước để đưa con thuyền đi nhưng ở đây, sông nước còn có nghĩa là nước nhà, là tổ quốc, là giang sơn nên nặng tình sông nước mãi mãi không vơi là tình yêu non sông đất nước canh cánh trong lòng.
Với hai câu thơ mở đầu, tác giả dựng lên một vật tầm thường nhưng cho ta nhìn thấy ở vật đó, hình ảnh tổng quát của một nhân vật mà ta quý trọng

Vào hai câu Trạng, ý chí và sự hào hùng của người quân tử được khoác lên mình cây sào, khiến cây sào vô tri trở nên vô cùng sống động:
  
Vung lên ác điểu hồn chao đảo
Thọc xuống kình ngư vía rụng rời

Thực tế khi cây sào chỉa lên trời hay chọc xuống nước thì các loài chim và loài cá phải tránh xa. Tác giả Thái Quốc Mưu cường điệu thêm hình ảnh đó, cho loài chim thành ác điểu, loài cá thành kình ngư, mục đích để ám chỉ bọn đầu sỏ  xấu xa phải kinh hồn tản vía trước uy phong của người quân tử. Cây sào l àm cho loài cầm thú hoảng sợ hay chính đó là uy lực của công lý khiến cho cường quyền né tránh. Đây là mẫu người xã hội cần, họ ở trong hình ảnh của cây sào chứ không phải hình ảnh của cây gươm, cây kiếm. Hình ảnh cây gươm, cây kiếm đại diện cho hiệp sĩ hay đại diện cho quan lại công minh. Hình ảnh cây sào trong bài thơ như đại diện cho anh hùng áo vãi, những con người bình dân trong đời sống bình thường nhưng nhân cách lớn, ý chí cao, có khả năng can thiệp, xoá bớt bất công hay ít ra cũng sống một đời cương trực làm khiếp sợ, đẩy lùi bóng đen tội lỗi. Những con người đó không chỉ họ
có tấm lòng nặng với non sông, với nhân quần xã hội, mà họ còn có đời sống, có tâm hồn bao la, trong sạch như tấm gương vằn vặt sáng trong hai câu luận của bài thơ:

Bốn cõi mênh mang vầng nguyệt chiếu
Một đời rực rở ánh dương soi

“ Vầng nguyệt chiếu”, ánh dương soi” ở đây chỉ tư cách cây sào như ánh trăng, như mặt trời vừa dịu dàng vừa sáng tỏ, chính đại quang minh. Nhà thơ diễn tả cây sào có sự sáng của chân lý chiếu rọi, có vẽ đẹp của trời đất vừa mênh mang vừa rực rở  trong tâm hồn. Đó hoàn toàn là tính chất của người quân tử hay nói đúng hơn nhà thơ đã cho cây sào mang nhân cách người quân tử.
Cuối cùng, trong hai câu kết của bài Đường thi, nhà thơ Thái Quốc Mưu hầu như khẳng định người quân tử ở giữa cuộc đời nầy luôn luôn bị đoán phạt, luôn luôn hứng chịu bao vùi dập của gió mưa, nhưng đã làm người chân chính thì mang nghiệp dĩ vào mình mãi mãi không thôi:

Gió mưa, mặc gió mưa vùi dập
Sông nước nặng tình mãi mãi thôi.

Như trên đã nói, chữ “sông nước” ở đây còn có thể hiểu xa là non sông, là tổ quốc cho nên bài thơ còn có ý nghĩa chỉ những con người nặng lòng vì quê hương, một đời hy sinh cho lý tưởng cao đẹp, trừ gian diệt bạo đem công bằng, an ninh cho con người, cho nhân quần xã hội. 

“ Cây Sào” là bài thơ ca tụng mẫu người chân chính ở thời đại nào cũng được tôn vinh, nhưng chủ yếu tác giả mượn cây sào để gởi tiêu chí sống của chính mình vào đó. Bài thơ trực tiếp tự nhủ lòng mình và gian tiếp nhắn nhủ với mọi người phải sống như cây sào để một đời có “vầng nguyệt chiếu”, có “ánh dương soi”. Sống như người quân tử không hổ thẹn bao giờ ./.
                                                    Châu Thạch



ĐỌC BÀI THỎ “VỊNH CÁI TRỐNG”
CỦA THÁI QUỐC MƯU
                                                   Châu Thạch
Vịnh cái trống
                Thái Quốc Mưu
Cái mặt căng căng vẻ lạnh lùng
Óc đâu chẳng có, ruột gan không!
Nên hư chẳng khỏi tay người khiến
Lớn, nhỏ không qua ý kẻ dùng
Có mặt không tròng nên nhục xác,
Vô hồn, lớn tiếng mới khòm lưng
Nghe qua vẫn tưởng vinh vang đó!
Tận mắt mới hay nỗi khốn cùng! ./.
                                     TQM
Lời bàn:

Cái trống là một nhạc cụ mà từ xưa đến nay thơ văn ca tụng đã nhiều. Nhà thơ Thái Quốc Mưu đã làm một điều ngược lại, chê trách cái trống.
Thật ra, nhà thơ muốn nhân cách cái trống để qua đó mượn trống khiển trách hạng người xấu xa, chứ không ai không yêu mến trống, kể cả tác giả của bài thơ vịnh trống.
Hai câu thơ vào đề tác giả đã giới thiệu cái trống bằng những lời nặng nề:

Cái mặt căng căng vẻ lạnh lùng
Óc đâu chẳng có, ruột gan không!

Trống thì trên mặt phải căng bằng da, chung quanh bằng gỗ và trong lòng thì rổng ruột để tiếng kêu to, tròn và ấm. Cái trống vô tội đã bị nhà thơ xỉ vả không hề kiên nể. Tuy thế, đọc thơ ai cũng biết nhà thơ không ác cảm với trống mà ác cảm với bọn người hợm hỉnh nhưng đức, tài trống rổng mà thôi. Mặt trống mà không căng thì tiếng trống đánh không thể vang xa, nhưng nếu mặt người mà “căng căng” như mặt trống thì trên đời chỉ có ở hai hạng người. Hạng thứ nhất ăn uống thừa mứa làm cho má phồng lên, mặt to ra, da láng mở khiến khi nhìn liền liên tưởng đến họ Trư. Hạng thứ hai là hạng “vác mặt lên trời” vì tưởng hơn thiên hạ, đi đâu cũng kênh kiệu, lên mình tự cao tự đại. Cả hai hạng nầy đều là thứ thiếu suy nghĩ, hèn nhác nên nhà thơ cho là thứ không ruột, không gan, không óc: “Óc đâu chẳng có, ruột gan không”
 Qua vế Trạng của bài thơ Thái Quốc Mưu cho biết, cái hạng tiểu nhân mà nhà thơ giới thiệu ở trên vì không óc, không lòng nên dương dương tự đắc. Sự thật họ chỉ như cái trống vô hồn bị chủ khỏ lên, phải làm theo ý muốn của chủ mình:

Nên hư chẳng khỏi tay người khiến
Lớn, nhỏ không qua ý kẻ dùng

Đây là hạng người có tài xu nịnh, thường dựa thế cậy quyền, làm nô lệ kẻ khác nhưng huênh hoang tự đắc và sẳn sàng bán linh hồn mình cho ma quỷ để mua lấy điều lợi cho mình. Bọn nầy ở địa vị cao thì làm tôi đòi cho thế lực đen, ở địa vị thấp thì khom mình trước người trên, hống hách với người dưới. Tất cả đều giống cái thùng trống rổng mà kêu to. Tác giả không dùng cái thùng để chỉ bọn người nầy vì cái thùng thì bề ngoài xấu, tiếng kêu không hay ai mà không biết, còn cái trống thì tiếng kêu hay, lại hình dáng bề ngoài cũng đẹp nên đem ví với bọn người lừa đời, tôn hót, nịnh bợ có lời nói ngọt ngào, cử chỉ cung kính với bề trên thì đúng vô cùng vì họ nguỵ trang được sự xấu xa của mình. 
  Bước qua hai câu luận nhà thơ chỉ ra phần thiếu hụt của trống hay đúng ra, nguyên nhân tính chất xấu xa của con người mang đặc tính vô tri của trống:

Có mắt không tròng nên nhục xác
Vô hồn, lớn tiếng mới khòm lưng

“Có mắt không tròng”, “ Vô hồn, lớn tiếng”: Điều đó đối với cái trống thật thì không tội lỗi gì nhưng đối với con người, nếu có mắt không tròng thì ở trong tối tăm, nếu vô hồn mà lớn tiếng thì chỉ rống lên như loài thú vật mà thôi. Cái trống thì chắc chắn không hồn và trên thùng trống có nhiều mắt cây nằm trên sớ gỗ, có khom lưng và nhục xác hằng ngày vì dùi trống đánh lên trên. Hình ảnh chịu đựng của cái trống là hình ảnh đau khổ của hạng người mất phẩm chất làm người, trở nên vô hồn như cái trống, bị xử dụng nhưng có biết đâu, vẫn khoe mình ồn ào cho tiếng được vang xa. Hạng người nầy họ tự bằng lòng với cuộc sống tôi đòi. Nghe lời khoe khoan của họ tưởng họ hơn đời nhưng nhìn kỷ thì họ là những kẻ khốn cùng trong xã hôi. Điều đó được tác giả tỏ bày trong vế kết luận của bài thơ:

Nghe qua những tưởng vinh vang đó!
Tận mắt mới hay nỗi khốn cùng!

Thực chất cái trống là vật vô tri vô giác, nó là thành quả của nền văn hoá loài người nên nó là phương tiện để con người vui chơi, giải trí và qua âm thanh thổ lộ tâm tư tình cảm của mình. Trống là nhạc cụ đáng yêu, đáng quý, đáng trọng, nhưng nếu con người mà có tính chất vô tri, vô giác như trống thì ngược lại họ vô cùng xấu xa đúng như bộ mặt xấu mà nhà thơ Thái Quốc Mưu đã dùng trống để ám chỉ họ. Bài thơ cho ta suy nghiệm: nếu trống mà có hồn người thì âm thanh bay bổng nhưng người mà không linh hồn như trống thì là người xấu trên đời./. 

THƠ NÓI HOANG CỦA THÁI QUỐC MƯU

                                              Châu Thạch

Tự điển VN định nghĩa chữ “ngộ nghĩnh” là “lạ và khác thường”.Vậy tôi xin dùng chữ nầy để nói về một số bài thơ của nhà thơ Thái Quốc Mưu.

Tất nghiên chữ ngộ nghĩnh không dùng như nói một đưa bé ngộ nghĩnh mà ở đây là những bài thơ ngộ nghĩnh tức là những bài thơ có sự tinh tế và độc đáo riêng của nó. Độc đáo vì những bài thơ nầy có một chút lập dị, một chút ngông, một chút hài hước nhưng ý có chứa ẩn dụ cho đời suy nghiệm.

Trước hết hãy đọc bài thơ “Bãi Biển chiều Buông”:

Bãi biển chiều buông sóng dập dồn
Cạn nguồn ta kết thử vần ôn
Từng bầy xuân nữ nằm phơi rốn
Mấy đám thanh niên đứng ngắm... ồn
Đồi núi cỏ cây chen chúc lá
Triền khe mạch suối luyến lưu hồn
Ông to, ông nhỏ, ông…dân giả
Nào kẻ chẳng mê thú vỗ... ồn.

Đọc hai câu thơ đầu ta tưởng nhà thơ Thái Quốc Mưu là người không biết làm thơ, vì bí thế không tìm ra từ ăn vận với chữ “dập dồn” ở câu thơ trên nên ghép đại chữ “vần ồn” vô nghĩa vào thơ. Thường thường đó là cách làm thơ “con cóc” của những người mù tịt về thơ. Thế nhưng đọc tiếp những vế thơ sau thì ta thấy chữ “vần ồn” mở ra một bầu trời rộn rịp, vui vẻ của bãi biển chiều buông. “Vần ồn” từ chỗ khô cứng trở thành cánh cửa linh hoạt cho ta bước qua một khung trời tươi vui, đã mắt.

Thế rồi hai câu thơ tiếp:

Từng bầy xuân nữ nằm phơi rốn
Mấy đám thanh niên đứng ngắm... ồn

Có thể nói rằng hai câu thơ nầy tác giả tả chân. Hình ảnh các cô gái thanh xuân nằm phơi nắng hiện ra gần như lỏa lồ trước mắt chúng ta. Hình ảnh mấy đám thanh niên với cái nhìn khả ố cũng hiện ra trước mắt chúng ta. “Ngắm... ồn” là ngắm gì? Ồn là tiếng động thì nghe bằng tai chứ làm sao ngắm bằng mắt được. Tất nhiên người đọc phải hiểu chữ “ngắm... ồn” theo nghĩa xấu hơn qua hình thức thêm chữ “Lờ” trước chữ “ồn”. Câu thơ đến đây trở thành tục và hình ảnh đến đây trở thành dục. Tuy thế cái tục và cái dục trong thơ không làm cho chướng mắt chướng tai mà hiển hiện ra trong trí ta một bức tranh sống động với những hình ảnh, những âm thanh vui tai, vui mắt.

Hai câu luận của bài thơ như sau:

Đồi núi cỏ cây chen chúc lá
Triền khe mạch suối luyến lưu hồn

Hai câu thơ nầy tác giả tả phong cảnh trên bãi biển nhưng cố ý làm cho người đọc liên nghĩ đến những bộ phận trên cơ thể các cô xuân nữ đang nằm “phơi rốn” kia. Cách chơi chữ trong hai câu thơ trên làm cho hình ảnh như một bức tranh phóng tác và làm cho hình ảnh tục mà ta liên tưởng tới không trắng trợn.

Đến hai câu kết của bài thơ tác giả dùng cái cười chế diễu theo kiểu Hồ Xuân Hương xưa kia để gom hết người đời vào trong cái sở thích “làm ở chỗ kín” kia:

Ông to, ông nhỏ, ông... dân giả
Nào kẻ chẳng mê thú vỗ... ồn

Lại chơi chữ “vỗ... ồn” nữa. Chắc chắn người đọc nào cũng nghĩ rằng phải thêm một chữ “Lờ’ trước chữ “…ồn” là đúng ý.

Thật ra tác giả chơi chữ thật là khéo léo, không dùng cách nói ngược như nhiều người đã thường dùng từ xưa đến nay. Chữ “ngắm... ồn” trong câu thơ trên thật ra là “ngắm cồn”. Có thể hiểu ngầm “ngắm cồn” là ngắm các phần nhô lên trên thân thể các cô nằm phơi nắng, còn nghĩa trắng là ngắm các đồi cát trên bãi biển chiều buông. Chữ “vỗ... ồn” trong câu thơ dưới thật ra là “Vỗ bồn” có nghĩa là mọi người đều thích vỗ bồm bộp trên mặt nước khi tắm trên biển hay khi ngồi tắm trong bồn. Ngoài ra, “vỗ bồn” còn là điệu nhịp, một thú chơi tao nhã của giới tao nhân mặc khách. Thầy Trang Tử từng “vỗ bồn vừa ca”.

Hai chữ “ngắm... ồn” và “vỗ... ồn” được tác giả giải thích cuối bài thơ sau khi để cho người đọc được cười tủm tỉm trong cái vui hiếu kỳ và cười vui vẻ khi hiểu ra các chữ đánh đố kia.

Bây giờ ta hãy đọc tiếp một bài thơ “ngộ nghĩnh” khác của Thái Quốc Mưu:

CỘI NGUỒN
Ta vốn sinh ra ở chốn nầy
Bởi dòng kinh, đất bị chia hai
Ven bờ chằng chéo dây leo phủ
Hạt giống gieo neo giữa luống cày
Mương rạch xẻ lằn như mắc cưởi
Ranh rìa đắp cạn chẳng kiêng ai
Soi bờ lỗ mội tuông ra rả
Hôm sớm cứ lo đóng cọc hoài.

Trong bài thơ “Cội Nguồn” tác giả tả nơi chốn mình sinh ra nhưng dòng thơ cũng khiến cho người đọc liên tưởng cái bộ phận mà mọi người đều chui ra từ đó.

Chữ “Cội Nguồn” mang hai ý nghĩa, một nghĩa trắng và một nghĩa đen. Nghĩa trắng chỉ gốc gác của người là một vùng đất hoang sơ, nghĩa đen chỉ “cái chỗ” nơi mà người sinh ra nó cũng rậm rạp như thế. Ta thấy dầu bài thơ nầy mang ý nào thì chốn “cội nguồn” rất phì nhiêu ấy cũng đem đến cho ta sự thanh tịnh, lắng đọng trong tâm hồn và một sự yêu mến trước hình ảnh dòng kinh, mương rạch kia. Khi hiểu theo nghĩa trắng của bài thơ thì “Cội Nguồn” là địa phương nơi tác giả sinh ra. Nhưng, khi hiểu theo nghĩa đen của bài thơ thì “Cội Nguồn” là nơi mọi người từ long mẹ chui ra. Tác giả cố ý tả cái phong cảnh còn hoang sơ như từ thuở hồng hoang để ám chỉ cái chỗ mà loài người lọt ra, làm cho bài thơ không dung tục mà chan chứa hình ảnh gắn bó thân yêu nữa.

Bây giờ xin mời bước qua cái “Sân Tennis cũ” của tác giả:

SÂN TENNIS CŨ
(Gởi Hoa Trong Hoa)

Cái sân Ten-Nít đã bao đời
Sạt lún lung tung chỗ lõm, lồi
Mấy vạch phân chia ba bốn mảnh
Đường viền đứt đoạn mấy lằn vôi
Chung quanh cỏ mọc lan tràn khắp
Một vũng nước dâng mấp mé rồi
Cây vợt nằm lỳ trên góc xó
Banh lông hai quả chẳng còn hơi.

Cái sân Tennis cũ thì chẳng có gì đặc biệt nhưng tác giả đã lồng vào nghĩa đen của bài thơ làm cho bài thơ trở nên có ý nghĩa và làm cho cái sân Tennis thật trở nên sinh động. Sự loan lỗ của cái sân Tennis cũ là một sự phí phạm nơi dùng để vui chơi của con người. Những hình ảnh miêu tả cái sân làm ta liên tưởng đến cái sự bỏ không phí phạm cái của giống cái và cái của giống đực.

Hai đồ vật phồn thực của giống cái và giống đực được tác giả đem phơi bày lộ thiên được mô tả đươi hình ảnh cái sân Tennis nên mất đi cái hình ảnh xấu khó nhìn. Cái sân Tennis là nơi con người chơi thể thao đã bị bỏ đi hư hao. Qua sự diễn tả khéo léo của tác giả khiến người đọc liên tưởng cái sân thành bộ phận của nữ và của nam bị “bỏ quên” không hoạt động lâu ngày và trở nên vô dụng.

Tác giả thái Quốc Mưu còn nhiều bài thơ như thế, những bài thơ mà tôi cho là “ngộ nghĩnh” vì nó luôn luôn mang hai hình ảnh và một ý nghĩa. Một hình ảnh thật là hình ảnh mô tả sự vật thật của nó. Một hình ảnh ảo được gợi lên từ hình ảnh thật khiến cho người đọc cười tươi vui vẻ thích thú! Cả hai hình ảnh đều hàm chứa một ý nghĩa trong lẽ sống ở đời. Đa số những bài thơ loại nầy tác giả không dùng từ ngữ nặng nề. không dùng hình ảnh thô tục trắng trợn nhưng vẫn đem đến cho người đọc nụ cười hóm hỉnh.

Tất nhiên các nhà thơ làm thơ theo kiểu “nói hoang” như thế ít nhiều gì cũng chịu ảnh hưởng của thơ Hồ xuân Hương. Tuy nhiên Thái Quốc Mưu không rập khuôn theo phong cách xưa cũ mà riêng ông tạo được cho mình một sắc thái mới.

Thơ “nói hoang” của Thái Quốc Mưu có hình ảnh không lộ liểu phản cảm, có nụ cười dí dỏm nhẹ nhàng, như cách nói đùa lý thú của các bậc túc nho uyên thâm thời xưa vậy.

Châu Thạch









                 








                                       














    
              

                 


                
               
                




            


















                                     












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét