Bài 5 & 6
TÍNH
PHỔ QUÁT
TRONG KINH
PHÁP CÚ
Tiểu luận
MANG
VIÊN LONG
K
|
inh
Pháp cú (Dahammapada) là những câu kệ tụng được trích ra từ trong các lời Đức Phật
dạy. Hoặc các bài kệ ngắn trong các kinh, hoặc qua những lần nhân có lời thưa
hỏi trong các cảnh ngộ, tình huống khác nhau của chư Tỷ kheo, Phật tử, mà Đức
Đạo Sư thuyết giảng, chỉ dạy. Vì vậy, Pháp cú thường là những bài kệ, lời dạy
ngắn gọn, từ 4 đến 6 câu - được đệ tử Phật ghi chép, gom góp lại, tùy theo ý
nghĩa mà sắp xếp thành tác phẩm.
Kinh Pháp cú đã được chuyển dịch nguyên bản
Pali sang nhiều thứ tiếng ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ… Tại nhiều nước, Pháp cú
được xem là bộ “Kinh nhật tụng” – “sách nhập môn cho những người sơ
học, và là tạng thâm áo của người đã thâm nhập” (1)
. Ở Trung Quốc, bản dịch Pháp cú của Pháp sư Liễu Tham từ tiếng Pali được phổ
biến rộng rãi từ năm 1950 là bản dịch Pháp cú thứ 5 (Bản dịch lần thứ nhất
không còn bản lưu, bản dịch lần thứ 2 được lưu bố vào năm 224 TL). Ở Việt Nam,
Hòa Thượng Viên Giác, cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu đã dịch bản Pháp cú từ chữ
Hán của Pháp sư Liễu Tham vào năm 1959. Gần đây, có bản dịch của Hòa Thượng
Thích Minh Châu (từ bản Pali) - bổ sung thêm cho sự nghiên cứu, cầu học của mọi
người…
Bên cạnh yếu tố lời kinh ngắn gọn, dễ đọc
tụng, dễ nhớ; Kinh Pháp cú còn đề cập đến hầu hết các vấn đề vừa là cốt lõi của
Đạo, vừa có tính phổ quát, thực tế, gần gũi, liên quan hết sức mật thiết tới
cuộc sống thường nhật của tất cả mọi giới - xuất gia hay tại gia, Phật tử hay
không Phật tử…
Đặc tính siêu việt của kinh Pháp cú đã được
nhiều nhà Phật học ghi nhận là những tư tưởng nòng cốt trong Đạo, những lời dạy
thâm áo, sâu xa của Đức Phật đã được diễn đạt, giảng giải hết sức cụ thể, trong
sáng, dễ hiểu với mọi trình độ, căn cơ của con người - đi thẳng vào tâm trí
người đọc - và lưu lại âm vang lâu dài, có lực tác động rất mạnh mẽ.
Để dạy loài người mở rộng tâm từ, xóa bỏ
tận gốc sự thù hận, để đạt được an vui, hạnh phúc thật sự, chân chính - Đức Bổn
Sư đã khuyến cáo: “Ở thế gian này, chẳng phải hận thù trừ được hận thù. Đó
là định luật của ngàn thu” (PC 5 - Phẩm Song Yêu - Yamakavaggo).
Khuyến dạy những kẻ giải đãi, buông lung,
sa đọa vào các đường ác; hình ảnh “con ngựa gầy hèn” và “con tuấn mã”
là một so sánh mà ai ai cũng có thể tin hiểu: “Tinh tấn giữa đám người buông
lung, tỉnh táo giữa đám người mê ngủ; kẻ trí như con tuấn mã thẳng tiến, bỏ lại
sau con ngựa gầy hèn” (PC29 - Phẩm Không Buông Lung - Appamadavaggo).
Tâm tưởng phàm phu bình thường vì cứ mãi “xoay
vần theo ngũ dục” nên chẳng biết, chẳng lo. Nói theo kiểu “hiện đại”
là “chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ” hay “chưa đi trong mưa, chưa biết
lạnh”. Câu PC 34 (Phẩm Tâm - Cittavaggo) đã dạy : “Như cá bị quẳng lên
bờ, sợ sệt vùng vẫy thế nào, thì cũng như thế; các ngươi hãy đem tâm lo sợ phấn
đấu để mau thoát khỏi cảnh ác ma!”. Cá lìa xa nước, quẳng lên bờ vùng vẫy
cố thoát, để tìm sự sống… Đó là một cảnh tượng rất gần gũi với tất cả nhưng
cũng rất bi thiết trong suy nghĩ của chúng ta.
Giá trị đích thực của con người là ở Đức
Hạnh, ở Trí Tuệ, ở sự thực hành Phật pháp trong cuộc sống, chứ chẳng phải ở cái
bề ngoài, ở lời nói suông. Lấy đóa hoa làm ví dụ, PC 51 (Phẩm Hoa - Puphavaggo)
phô diễn: “Như thứ hoa đẹp chỉ phô trương màu sắc mà chẳng có hương thơm,
những người chỉ biết nói điều lành mà không làm điều lành, chẳng đem lại lợi
ích”.
Hai ví dụ “đêm rất dài”
và “đường rất xa” của “người mất ngủ” và “kẻ lữ hành”, cho
người đọc như thấy rõ “dòng luân hồi dai dẳng, khó nhọc, gian nan” của
con người: “Đêm rất dài với người mất ngủ, đường rất xa với kẻ lữ hành. Cũng
thế, dòng luân hồi sẽ tiếp nối mãi với kẻ ngu si không minh đạt chánh
pháp” (PC 60 - Phẩm Ngu - Balavaggo).
Pháp cú dẫn dắt người thọ trì thâm nhập vào
ý nghĩa sâu xa, thâm áo, bằng sự diễn giải cụ thể, bằng cách so sánh bình dị -
nhanh chóng, khiến cho người đọc tỉnh ngộ : “Người tưới nước lo dẫn nước,
thợ làm cung tên lo uốn cung tên, thợ mộc lo nảy mực đo cây; còn người Trí thì
tự lo điều phục lấy tâm mình” (PC 80 - Phẩm Hiền Trí - Panditavaggo).
Tính giáo dục phổ quát còn thể hiện rõ ở sự
diễn đạt từ cụ thể đến trừu tượng; đối chiếu, so sánh, tỷ dụ từ dễ đến khó -
như một câu tục ngữ, một câu ca dao bình dân; nhưng tư tưởng thì thật là thâm
thúy, sâu thẳm - tùy theo căn cơ, trình độ của mỗi người, đều lãnh nhận giác
ngộ, được lợi ích thiết thực: “Tụng đến ngàn câu kệ vô nghĩa, chẳng bằng một
câu kệ có nghĩa lý; nghe xong tâm liền tịch tịnh” (PC 101 - Phẩm Ngàn -Sahassavaggo).
|
Có thể nói, hầu như những
vấn nạn, những thắc mắc, ưu tư trong cuộc sống, những điều căn bản bước đầu
thâm nhập vào Đạo, đều đã được đề cập trong kinh Pháp cú. Những điều thiết yếu
ấy lại được trình bày dưới nhiều hình thức rất cụ thể, gợi hình, gợi cảm, tác
động một cách trực tiếp đến người thọ trì, đọc tụng. Kinh Pháp cú là bộ kinh “dẫn
đường” cho người sơ học, mà “mở lối” cho người đã thâm nhập: “Sống
lâu 100 tuổi mà không thấy pháp vô thường sanh diệt, chẳng bằng chỉ sống một
ngày mà thấy pháp sanh diệt vô thường” (PC 113 - Phẩm Ngàn - Sahassavaggo).
Trong đời sống thường nhật, ý tưởng khinh
thường “điều ác nhỏ” thật là phổ biến, nhưng đó chính là nguyên nhân dẫn
tới “điều ác lớn”, để con người thọ lãnh nghiệp báo khổ đau triền miên.
Lời dạy PC 121 (Phẩm Ác – Papavaggo) là một thức tỉnh, cảnh báo cho tất cả: “Chớ
khinh điều ác nhỏ cho rằng chẳng đem lại quả báo cho ta”. Phải biết giọt nước
nhiễu lâu ngày cũng đầy bình. Kẻ ngu phu sở dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từng khi
ít mà nên !”.
Tất cả những lời dạy trong
kinh Pháp cú như đã nói, đều đã đạt được yếu tính: Dễ đọc tụng, dễ hiểu, dễ nhớ
và dễ thọ trì. Vì dễ hiểu nên người đọc mới cảm thấy hứng thú - phấn khởi; có
niềm tin vui rồi mới có thể nhớ được lâu;
có ấn tượng sâu trong tâm khảm, mới có thể dẫn tới hành động - đem lại
lợi ích cho mình, cho người một cách thiết thực…
Kinh Pháp cú gồm 26 phẩm, 324 câu (theo bản
dịch của cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu), nhưng trong bài ghi nhận ngắn này,
chỉ đề cập tiêu biểu được rất ít để dẫn
chứng. Nhân đây, chúng tôi cũng xin có một đề nghị nhỏ với Giáo Hội PGVN - THPG Tp HCM, lịch bloc năm 2002
nên cho in thêm một tờ ngày có một lời kinh Pháp cú đã được chọn, để mỗi ngày
chúng ta có thể học thuộc một câu; mong phổ biến rộng rãi hơn - mọi người đều
nhận được pháp nhũ quý báu từ kinh Pháp cú.
Chúng tôi xin mượn lời cảm nhận của cố Hòa
Thượng Thích Thiện Siêu về kinh Pháp cú, để tạm kết thúc bài ghi nhận ngắn này:
“…Tôi tin rằng những lời dạy giản dị mà thâm thúy trong kinh Pháp cú có thể
làm cho chúng ta mỗi khi đọc đến thấy một niềm siêu thoát lâng lâng tràn ngập
tâm hồn; và những đức tính Từ Bi Hỷ Xả - bình tĩnh, lạc quan vươn lên tỏa rộng
giữa những ngang trái, hẹp hòi, khổ đau, điên đảo của cuộc thế vô thường…” (2)
(Vô Ưu số 11, tháng 01-2002)
HOA MAI ĐÂU DỄ NGÁT MÙI HƯƠNG
Đúng chu kỳ, mùa Xuân lại đến. Cách đây
mấy hôm, một người bạn văn - cũng là bạn đạo, có biếu cho tôi một cành hoàng
mai. Cành mai khá lớn, hoa lá chen lẫn trên cành khúc khuỷu tạo thành một sự
sắp xếp rất tinh tế, mỹ thuật của thiên nhiên.
T
|
ôi
trang trọng đặt cành hoa vào bình sứ lớn, chưng ngay phòng nhà giữa - là bàn
thờ Tổ. Hằng ngày, theo dõi từng chùm hoa vàng nở, nghe thấy một mùi hương
thoang thoảng dìu dặt, tôi thầm chiêm phục và biết ơn loài hoa cao quý ấy.
|
Cành hoa mai đã khiến tôi
chợt nhớ tới bài “Tụng” của ngài Hoàng Bá Hy Vân (1)
đã đọc trong một buổi thượng đường, chỉ
dạy đại chúng:
Trần
lao quýnh thoát sự phi thường
Hệ bã thằng đầu tổ nhất trường
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc hoa mai phốc tỷ hương.
Bài dịch (2)
:
Vượt cõi trần lao việc chẳng
thường
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường
Chẳng phải một phen xương lạnh
buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Quả thật, cây mai đã phải trải qua cái giá
lạnh, mưa bão của mùa Đông dài dặc đen tối, để chớm Xuân trổ lá, kết hoa… Hoa
mai là loài hoa tượng trưng rõ nét và đầy đủ nhất cho cái đẹp và ý nghĩa của
mùa Xuân. Những chùm hoa vàng tinh khiết, mầu nhiệm kia như được tích tụ từ nỗi
giá lạnh, giông bão vùi dập mà không hề nao núng; để mở sáng một mùa Xuân ấm
áp, hạnh phúc cho muôn loài.
“Chẳng phải một phen xương lạnh
buốt”.
Nếu cây mai không chịu được một mùa Đông
với bao vùi dập tan tác của cái lạnh, của gió, của mưa dầm, thì làm sao kết tụ được
những cánh hoa mới lạ tinh anh kia - và nhất là, làm thế nào mà ấp ủ một mùi
hương thanh quý riêng biệt như thế?
“Hoa mai đâu dễ ngửi mùi
hương”
Người học Phật cũng được ví như cây mai.
Như hoa mai. Như mùi hương thiêng liêng của hoa. Nghĩa là người tu cũng phải
trải qua kiên tâm vững bước trên tám con đường đạo Phật (Bát chánh đạo) “mùa
đông” của sự mài giũa Giới Định Tuệ; của lòng trì niệm không ngưng nghỉ bốn
câu kệ trong kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, dũng mãnh và tinh tấn để tự thắng
mọi chướng nghiệp - và luôn xả thân vì Đại Nguyện, thì “Hoa Tâm” mới
sanh, mới “ngửi” được mùi hương nhiệm mầu của đạo pháp.
Người học Phật không thể không có “một phen xương lạnh buốt” mà
có thể “ngửi thấy mùi hương” An Lạc, Giải thoát chơn chính của pháp Phật
được.
Sự nhiệm mầu vô tận “bất khả tư nghì”
của Hoa Đạo đến với Tâm người tu, để “Hoa Tâm” nở ra tỏa ngát hương,
càng phải cần có những “mùa- Đông- không - ngày-tháng” nhiều hơn thế
nữa…
Nhớ Tổ Huệ Khả xưa, suốt đêm dầm mình trong
mưa tuyết lạnh thấu xương, chờ mặt trời rạng lên, chặt đứt một cánh tay để được
Tổ Đạt Ma nhận làm đệ tử.
Và Lục Tổ Huệ Năng:
… Tám tháng
Đeo đá giã gạo nhà trù
Mười lăm năm
Trú ẩn rừng sâu
Ngày xuống núi tóc râu bạc
thếch (3)
…
Những tấm gương cầu học đạo, xả thân vì
đạo, vì đại nguyện của các bậc Tổ, của chư vị Pháp sư, Thiền sư, Giảng sư… luôn
là nguồn sáng soi dắt người học Phật chúng ta luyện tâm, bền chí…
Hoa Mai - Hoa Tâm - Hoa Đạo của mùa Xuân
trọng đại ấy có thể sẽ rất gần, và cũng có thể sẽ rất xa. Một sát na. Hay trọn
một đời. Nhiều đời. Chúng ta - những người học Phật, chỉ nên biết luôn giữ sáng
Tâm mình và tinh tấn mà tiến bước…
Hoa Tâm ắt sẽ nở hoa, đượm hương bất tuyệt
trong lòng mọi người.
(Báo Giác Ngộ Xuân Bính Tý-PL
2539-1996)
(1)
Bài tựa của pháp sư An Thụan viết cho bản kinh pháp cú Hán Văn.
(2)
Kinh pháp cú – HT Thích Thiện Siêu dịch viện NCPHVN- 1993
(1) Ngài Hoàng Bá là đệ tử của Bá
Trượng. Bá Trượng là đệ tử của Mã Tổ. Mã tổ là đệ tử Hoài Nhượng.là đệ tử của
Lục Tổ Huệ Năng.
(2)
“Luận Tối Thượng Thừa” của TT Thanh Từ – do Thiền học xuất bản, 1970.
(3)
Thơ của Huệ Thành
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét