Lời giới thiệu:
Thái Quốc Mưu
Trước khi đi vào bài, chúng tôi trân trọng giới thiệu đến quý độc giả về Giảng sư, Học giả Minh Di.
Minh Di là bút hiệu, sanh tại Hà Nội, Cụ thân sinh của ông người Hà Tĩnh, từ thập niên 40, thế kỷ trước, làm công chức thời Pháp ở ngoài Bắc. Năm 1952, Pháp bắt thân phụ Minh Di vào Sĩ Quan Thủ Đức, do đó gia đình ông Minh Di phải từ Bắc vào Nam.
Minh Di tốt nghiệp Đại học Sư Phạm, Cao Học Sàigòn, ban Việt Hán, ngạch Giáo sư Trung Học Đệ Nhị cấp, ra trường dạy lớp Đệ Nhất, ở Tây Ninh, Đại Học Văn Khoa Sàigòn. Sau 30/4/75, Miền Nam mất, hết Hè năm 1975, bắt đầu năm học đầu tiên của chế độ mới, ông tự động bỏ dạy, không trở lại trường. Hiện định cư tại Úc Châu.
Ở nhà ông chuyên nghiên cứu và viết phê bình và biên khảo về Sử học, Văn học, Phật học, Cổ học, Kiến thức tổng quát... nhanh chóng được giới văn học thán phục và nhận định: “Minh Di, là một học giả uyên bác nhất, từ trước đến nay.”
Thư phòng của ông có trên 6 ngàn (sáu ngàn) đầu sách cổ, hiếm, quý. Có những bộ sách đến 60 cuốn. Tính ra thư phòng của Học giả Minh Dinh có khoảng trên 50 ngàn (năm mươi ngàn) cuốn sách.
Nhiều văn thi hữu của chúng tôi từ Mỹ sang Úc Châu du lịch, do ái mộ đã tìm đến thăm Học giả Minh Di, khi viếng thư phòng của ông đã phải thốt lên: “Đây chính là Thư Viện!”
Dưới đây là một đoạn thư ngắn, Học giả Minh Di gởi cho chúng tôi:
“Ngoài mấy chục đầu sách đã phát hành, sau đây là những cuốn sách tôi đã viết xong, chưa in, sẽ lần lượt gởi đến anh và anh Kha Tiệm Ly.
(1). Nam Biên.
Sách viết về dân tộc Chiêm Thành.
(2). Tử Nê Tân Phẩm.
Một cuốn sách nói về Trà, trong đó gồm những đề mục như lược sử về Trà, nghệ thuật uống Trà của người Trung Hoa, và nghệ thuật của loại bình trà gọi là Tử Sa hồ nổi tiếng của Trung Hoa, và một số vấn đề khác...
(3). Đường Thi Từ.
Một cuốn tuyển dịch và chú giải thi, từ thời Đường.
(4). Tam Bách Dư Niên Hậu.
Một cuốn gồm một số bài viết về "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, về những điểm từ trước chưa ai đề cập, ít nhất là căn cứ một số bản chú giải về Truyện Kiều đã xuất bản.
(5). Tiếng Hán Việt.
Một cuốn nghiên cứu về tiếng Hán Việt.
(6). Thiên Địa Tâm.
Bản dịch và chú thích bài "Bình Ngô Đại Cáo" của Nguyễn Trãi.
(7). Đại Đường Tây Vực Ký.
Bản dịch và chú thích về cuộc hành trình của Trần Huyền Trang đời Đường qua Ấn Độ cầu Pháp, thỉnh Kinh và những gì thấy nghe ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 7.
(8). Vãng Tân Nhật Ký.
Bản dịch và chú thích cuốn "Vãng Tân Nhật Ký" (Nhật Ký đi Thiên Tân) của Phó sứ Nguyễn Thuật thời vua Tự Đức qua Thiên Tân, vào cuối năm 1883 đến đầu năm 1884, cầu cứu Trung Hoa giúp Việt Nam để chống Pháp.
(9). Dịch Kinh Tân Giải.
Một tác phẩm nghiên cứu Kinh Dịch đưa ra những kiến giải của riêng tôi, đưa ra những điểm mà các học giả chú thích Kinh Dịch của Trung Hoa từ trước đến nay chưa hề nói tới. Có thể nói đây là một cuốn sách tôi rất ưng ý. Cuốn này tôi đã tự dịch qua Anh văn với Tựa đề là "Enigma".
(10). Chu Dịch Vương Hàn Chú.
Bản dịch bản chú thích Kinh Dịch nổi tiếng của Vương Bật.
(11). Đỗ Phủ. Nghèo. Bệnh. Cô độc, một đời.
Như anh đã biết đây là cuốn sách mới nhất của tôi.
Tôi còn một cuốn đang dở dang là bản dịch cuốn “Binh Pháp của Tôn Tử.”
Chúng tôi được Học giả Minh Di xem là chỗ thân tình. Khi viết xong cuốn sách, ông liền gởi qua Mail đến tôi và Kha Tiệm Ly - em tôi, cùng xem trước (nhưng, chưa xem xong, ông gởi lại bản bổ túc - Xin xem thư).
“Anh Thái Quốc Mưu kính,
Lại làm phiền anh lần nữa nhé.
Tôi ngồi không yên, lại bổ túc cuốn sách về Đỗ Phủ. Tính tôi như vậy, và cũng tập cho mình cái thói quen là không bao giờ tự mãn với những gì mình viết ra, lúc nào cũng “cầu toàn”, dù rằng, biết rằng cái học thì như biển, sức người thì hữu hạn, nhưng gắng tới đâu hay tới đó. Anh LTT thì rất rõ cái tính của tôi, bài nào tôi gởi đăng, anh ấy chưa kịp đăng thì sau đó tôi lại gởi bài bổ túc. Cũng xin anh chuyển cho anh Kha Tiệm Ly lần bổ túc mới nhất này, của bản thảo cuốn sách này.
Cuốn sách này tôi chỉ gởi cho bạn bè và một vài người quen, chưa tới 10 người. Tôi chưa gởi anh LTT.
Chúc anh và gia đình mọi sự vui vẻ và bình yên, tự tại ngay cả trong sự phiền não.
Thân kính
Minh Di”
Xin quý bạn đọc nên hiểu, những lời trong lá thư trên là Gs. Học giả Minh Di muốn thể hiện lòng ái mộ của ông dành cho tôi và Kha Tiệm Ly – em tôi, mà thôi.
Thái Quốc Mưu
***
Với sự đồng ý Học giả Minh Di, chúng tôi kính mời quý độc giả đi vào bài viết của ông, về:
CHIẾN SỰ NĂM BÍNH THÌN, GIỮA LÝ TRIỀU VÀ TỐNG TRIỀU
01-32 (35).
Bài 1
Dẫn nhập:
- Tháng 11 năm Ất Mão (năm 1075), Việt Nam đưa quân vượt Biên cảnh Việt - Trung tiến đánh Khâm Châu (Châu trị cũ hiện ở huyện Linh Sơn, Quảng Tây), và Liêm Châu (Châu trị cũ hiện ở huyện Hợp Phố, Quảng Tây).
Trị sở của Khâm châu nói trên đây là Trị sở thời Bắc Tống (960 - 1127).
Thời Nam Tống (1127 - 1279), Châu trị cũ của Khâm Châu đã từ huyện Linh Sơn nằm sâu trong đất liền, dời xuống huyện An Viễn, ở ngay Cửa sông Khâm giang đổ ra Biển, tức ngày nay gọi là vịnh Khâm Châu. Trị sở sau này cách Trị sở cũ 84 cây số về phía Tây nam.
+ Qua tháng Giêng năm sau, năm Bính Thìn (1076), Việt Nam lại đưa quân qua vây hãm thành Ung Châu (Châu trị cũ hiện ở huyện Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây).
Liền sau đó Trung Quốc tiến hành kế hoạch tấn công báo phục, và sau một vài lủng củng nội bộ giữa nhân sự chỉ huy, Tống triều sai Quách Đạt dẫn quân binh xuống phương Nam.
Sau đó, 2 bên cứ giằng co, để đến tháng Chạp cùng năm, Quách Đạt vẫn không sao tiến sâu vào nội địa Giao Chỉ, cũng như không đạt được thắng lợi nào, Tống triều đành ra lệnh triệt thoái.
Hai cuộc tiến công của Việt Nam, cũng như cuộc chiến tranh ngắn ngủi nói trên với Tống triều, đã xảy ra dưới triều Lý Nhân tông (1066 - 1127; tại vị: 1072 - 1127), còn bên Tống triều bấy giờ là Tống Thần tông (1048 - 1085; tại vị: 1067 - 1085).
***
Nhận định về kết quả trận Chiến kể trên hầu hết những Sách sử Trung Quốc trước đây cũng như hiện nay, Sách in tại Lục địa cũng như tại Đài Loan và Hương Cảng, đã cùng 1 giọng chép rằng tháng Chạp năm Bính Thìn Quách Đạt đại phá quân An Nam ở Phú Lương giang, và tiếp sau đó Lý triều phải xin hàng.
Phú Lương giang là tên cổ của sông Hồng Hà, hoặc cũng được gọi là sông Nhị Hà.
Phú Lương giang phát nguyên từ mạn Nam tỉnh Vân Nam (Trung Hoa), và có 2 nguồn: Nguồn phía Đông là Bạch Nhai giang (có sách chép là Bạch Nham), xuất từ núi Lương Vương ở huyện Vân Nam, nguồn phía Tây là Dương giang, xuất từ núi Hoa Phán huyện Mông Hóa.
Hai con sông này nhập lưu tại địa giới huyện Mông Hóa để thành sông Lễ Xã, tiếp đó Sông Lễ Xã theo hướng Đông nam chảy đến huyện Nguyên Giang thì được gọi là sông Nguyên Giang - Sông này cũng theo hướng Đông nam đổ vào Việt Nam để từ đây có tên là Phú Lương giang.
Sách 'Đông Tây Dương Khảo’ của Trương Tiệp (1574 - 1640) đời Minh chép:
- “Phú Lương giang tại Giao Châu phủ Đông Quan huyện, nhất danh Lô giang, thượng tiếp tam đái châu Bạch Hạc giang, kinh thành Đông, hạ thông Lợi Nhân huyện Đại Hoàng giang dĩ đạt ư hải. Tống Quách Quì phá Man, quyết lí ải, thứ Phú Lương giang”.
Dịch: “Phú Lương giang ở huyện Đông Quan, phủ Giao Châu, có 1 tên khác nữa là Lô giang, ở mạn thượng du nối với ngã ba sông Bạch Hạc, chảy ngang mé Đông thành, ở vùng hạ du, thông sông Đại Hoàng ở huyện Lợi Nhân và đổ vào biển. Thời Tống, Quách Quì thắng dân Man, khai thông những điểm yếu hại (của địch), tới đóng quân ở Phú Lương giang”.
(Tham khảo: Đông Tây Dương Khảo. Qu. I. Tây dương liệt quốc khảo. Giao chỉ. Hình thắng danh tích)
Phú Lương giang chảy ngang mé đông Đông đô (Thăng Long) nên thời cổ người Trung Hoa còn gọi sông này là Đông Kinh hà. Phú Lương giang là sông lớn nhất miền Bắc Việt Nam.
Mở đầu bài Văn tế 'Trận Vong Tướng Sĩ’, Nguyễn Văn Thành (1758-1817) viết:
- “Than ôi trời Đông Phố vận ra sóc cảnh, trải bao phen gian hiểm mới có ngày nay, nước Lô hà chảy xuống Lương giang, nghĩ mấy kẻ điêu linh những từ thuở nọ...”
*
Sau đây tôi sẽ duyệt qua một số Sử thư Trung Quốc thời cổ liên quan cuộc Chiến năm Bính Thìn để từ đó đưa ra 1 nhận định khách quan về vấn đề.
Bộ 'Tống Sử’ của Đoạt Đoạt (1314 - 1355), Thừa tướng Nguyên triều (1279 - 1368), đã chép rõ là năm thứ 8 Niên hiệu Hi Ninh (1068 - 1077), năm 1075, thời Tống Thần tông, xứ Giao Chỉ đưa 80,000 quân, chia ra nhiều cánh tấn công đánh hạ các thành Khâm Châu, Liêm Châu, cũng như 4 doanh trại của Ung Châu. Tiếp đó, tiến quân công thành Ung Châu! Quan trấn thủ Ung Châu là Tô Hàm (? - 1076) một mặt tử thủ, một mặt sai người qua Quế châu xin viện binh.
Lưu Di (1017 - 1086), Tri châu Quế Châu, lập tức điều động Trương Thủ Tiết (? - ?) đem quân đi cứu thành Ung châu. Trương Thủ Tiết nhận lệnh nhưng cứ chần chờ không xuất quân.
Cấp bách quá, Tô Hàm lại cho người đi cầu cứu quan Đề điểm Hình ngục Tống Cầu (? - ?).
Nghe tin cấp báo Thành Ung Châu bị vây rất ngặt, Tống Cầu kinh hoảng, khóc lóc, tức tốc thúc Trương Thủ Tiết xuất quân! Khiếp sợ quá, Trương Thủ Tiết vội di chuyển quân binh trú đóng, từ Đại Giáp Lãnh về giữ ải Côn Luân, nhưng giữa đường bất ngờ đụng đầu quân Việt, và, chưa kịp giao chiến gì cả toàn quân đã bị quân Lý triều bắt sống gọn, không sót người nào.
Viện binh không tới, Tô Hàm đành tận lực tử thủ ròng rã 42 ngày trời... cho đến khi trong thành hết lương thực, hết nước uống. Cuối cùng quân Lý triều dồn đất cát vào bao chồng lên nhau, làm những nấc thang mà tràn vào thành.
Thành thất thủ, Tô Hàm chạy về Châu trị, giết hết gia đình là 36 người, giấu xác dưới 1 cái hầm rồi tự thiêu. Cảm nghĩa khí của Tô Hàm, quân, dân trong thành không một ai chịu hàng.
Quân Việt tàn sát quân, dân thành Ung Châu tính ra hơn 50,000 người - cứ 100 thây người đem chất lại 1 đống, tổng cộng có hơn 580 đống như vậy.
(Tham khảo: Đoạt Đoạt (cũng đọc Thoát Thoát), Tống Sử. Qu. CDXLVI. Tô Hàm truyện).
Về tướng chỉ huy quân đội Tống triều tiến đánh Việt Nam, cũng bộ 'Tống Sử’ chép như sau:
- “Giao Chỉ bạn, Chiếu vi 'An Nam Hành doanh Kinh lược Chiêu thảo Sư, tổng cửu tướng quân thảo chi, dĩ trung quan Lý Hiến vi nhị. Tiết dữ nghị bất hợp, thỉnh bãi Hiến.
Thần tông vấn khả đại giả, Tiết dĩ Quách Quì lão biên sự nguyện vi tì tán. Ư thị dĩ Quách Quì vi Tuyên Phủ Sứ, Tiết phó chí.
(Tham khảo: Tống Sử. Qu. CCCXXXII. Triệu Tiết truyện)
- “Giao Chỉ làm phản, (Thần tông) hạ Chiếu chỉ, phong (Triệu Tiết) chức “An Nam Hành doanh Kinh lược Chiêu thảo Sư”, thống lãnh 9 Tướng dẫn quân đi đánh, lại chỉ định hoạn quan Lý Hiến phụ tá. Triệu Tiết và Lý Hiến hợp tác mà chẳng hợp ý nhau, cho nên Triệu Tiết đã xin bãi nhiệm Lý Hiến.
Thần tông hỏi ai là người có thể thay Lý Hiến, Triệu Tiết nói, “Quách Quì vốn người từng trải việc biên thùy, nếu như Quách Quì chỉ huy thì mình tình nguyện làm phụ tá.”
Do đó (Tống Thần tông) lệnh cho Quách Quì làm Tuyên Phủ Sứ, Triệu Tiết làm phó.
Trong phần chép Tiểu sử (Truyện) Quách Quì, 'Tống Sứ đã ghi rõ hơn Chức vụ của Tướng này khi nhận lệnh dẫn quân xuống phương Nam:
- “Giao Chỉ Lí Càn Đức hãm Ung Quản, triệu vi An Nam Hành doanh Kinh Lược Chiêu thảo Sứ kiêm Kinh Hồ, Quảng Nam Tuyên Phủ Sự”
(Tống Sử. Qu. CCXC. Quách Quì truyện)
(Nghĩa: Lý Càn Đức ở Giao Chỉ đưa quân công hãm quản hạt Ung châu, triều đình triệu (Quách Quì) về giao cho chức An Nam Hành doanh Kinh lược Chiêu thảo Sứ, kiêm lãnh Tuyên Phủ sứ các Lộ Kinh Hồ, Quảng Nam.)
***
Về nguyên do Lý triều đánh 3 Châu Khâm, Liêm, Ung thì Tất Nguyên (1730 - 1797) triều Thanh cho biết trong bộ “Tục Tư Trị Thông Giám” như sau:
- “Hi Ninh bát niên... Thập nhất nguyệt... Tri Quế châu Thẩm Khởi khuy thủ Giao Chỉ, vọng ngôn thụ mật chỉ, khiển quan nhập khê động điểm tập sĩ đinh vi bảo ngũ, thụ dĩ trận đồ, sử tuế thời tứ tập, kế mệnh nhân nhân đốc vận diêm chi hải tân, tập chu sư, ngụ giáo thủy chiến. Cố thời Giao nhân dữ Châu, Huyện mậu dịch, nhất thiết cấm chỉ! Tri Ung Châu Tô Hàm di Khởi thư thỉnh chỉ bảo giáp, bãi thủy vận, thông hỗ thị. Khởi bất thính, hặc Hàm thư nghị.
Triều đình dĩ Khởi sinh sự, nãi bãi Khởi, mệnh Lưu Di đại chi. Di chí, bất cải Khởi chi sở vi, tấu bãi Quảng Tây sở đồn Bắc binh nhi dụng thương trượng thủ phân thú, đại trị qua thuyền, át tuyệt hỗ thị. Giao nhân nghi cụ, chí thị phân tam đạo nhập khấu.
Mậu Dần hãm Khâm Châu....
Giáp Thân, Giao Chỉ hãm Liêm Châu....
Cửu niên, Xuân chính nguyệt.....
Mậu Thìn, Giao Chỉ vi Ung Châụ....
(Tham khảo: Tục Tư Trị Thông Giám. Qu. LXXI. Tống kỉ. Thần tông)
- 'Năm thứ 8 Niên hiệu Hi Ninh...
Tháng 11... Tri châu Quế Châu là Thẩm Khởi vốn có ý đánh Giao Chỉ, nói càn là nhận được lệnh mật, sai quan tới các vùng Khê, Động tập họp trai tráng lập thành đội ngũ, dạy cho trận đồ theo thời mà luyện tập, rồi lại lệnh cho những người chuyển vận muối tại các hải cảng luyện tập về thủy quân và lưu tại chỗ để tập cho việc thủy chiến! Việc giao thương giữa người Giao Chỉ và các Châu, Huyện, trước đây mọi việc đều cấm hết! Tri châu Ung châu là Tô Hàm đã gởi thư cho Thẩm Khởi yêu cầu bãi bỏ các việc tổ chức đội ngũ, bãi bỏ việc chuyển vận đường thủy để thông giao thương. Thẩm Khởi (chẳng những) đã không nghe, mà còn kết tội Tô Hàm tại triều đình, là có những nghị luận cản trở việc làm của mình.
Cho rằng Thẩm Khởi sinh sự, triều đình bãi nhiệm Thẩm Khởi, điều Lưu Di về thay. Lưu Di đến trấn nhậm đã không thay đổi những gì Thẩm Khởi đã làm, lại còn tâu xin bãi những quân binh ở phương Bắc trú đóng tại Quảng Tây để dùng những quân binh sở trường sử dụng thương chia ra trấn giữ vùng biên, cho đúc quân khí, tu tạo thuyền bè ở tầm mức rộng lớn và cấm tuyệt các việc giao thương buôn bán (với người Giao Chỉ). (Tất cả những Sự việc này), cho tới đây, đã làm cho Giao Chỉ nghi ngờ, sợ sệt, do đó chia ra 3 ngả nhập cảnh cướp phá.
Ngày Mậu Dần công hãm Khâm Châu...
Ngày Giáp Thân công hãm Liêm Châu...
Năm thứ 9, mùa Xuân, tháng Giêng...
Ngày Mậu Thìn, Giao Chỉ vây thành Ung Châu...'.
- Thẩm Khởi trấn nhiệm Quế Châu từ tháng Giêng năm 1073 cho đến tháng 3 năm 1074.
- Sau đó Lưu Di về thay, và đến tháng 12 năm 1075 thì Lưu Di cũng bị bãi nhiệm.
- Những quân binh sở trường sử dụng thương Lưu Di xin triều đình để trấn giữ vùng biên đề cập trong đoạn văn trên chỉ những quân binh tại Quảng Nam Đông Lộ (tỉnh Phúc Kiến) - quân binh vùng này sử dụng thương giỏi hơn các vùng! Quân binh này, nguyên văn là 'Thương trượng thú hay còn gọi Thương thủ (thủ = tay); đây là những “Hương binh” - tức như Địa phương quân hay Nghĩa quân ngày nay, không thuộc đội quân chính qui như những quân binh ở phương Bắc được điều tới đồn trú tại Quảng Tây.
(Tham khảo:Tống Sử. Qu. CXCI. Binh chí 144. Binh 5. Hương binh 2).
Ngoài ra, các ngày Khâm Châu, Liêm Châu thất thủ, và ngày Ung Châu bị vây Tất Nguyên chép có khác với Lý Đạo thời Nam Tống (1127 - 1279) (sẽ nói ở 1 đoạn sau).
Những biện pháp chuẩn bị nhằm đối phó với Giao Chỉ của Thẩm Khởi và Lưu Di dẫn trên, chép trong Bộ Tục Tư Trị Thông Giám, trước đó Sử học gia Lý Đạo (1115 - 1184) thời Nam Tống đã chép rõ hơn, và chính xác hơn.
- “Hi Ninh bát niên.
Thập nhị nguyệt Kỉ Sửu...
Đinh Dậu. Giao Chỉ vi Ung Châu...
Sơ, Thẩm Khởi Kinh Lược Quảng Tây, vọng ngôn bị chỉ, mưu thảo Giao Chỉ, hựu thiện phủ nạp Ân, Tĩnh Châu Nùng Thiện Mĩ cập ư Dung, Nghi Châu cương trí thành trại, sát nhân dĩ thiên số. Giao nhân chấn nhiễu!
Chiếu dĩ Lưu Di đại Khởi, ký sử chiêu tập chi - nhi Di nãi canh vọng ý Triều đình, hữu công thủ mưu, dục dĩ câu kỳ lập dị vi công! Thủy khiển quan nhập khê động, điểm tập thổ đinh vi bảo ngũ thụ dĩ trận đồ, sử tuế thời tứ tập! Kế mệnh chỉ sử nhân đốc diêm vận chi hải tân, tập Chu sư, ngụ giáo thủy chiến. Cố thời Giao nhân dữ Châu, huyện mậu dịch, nhất thiết cấm chỉ chi.
Ư thị, Giao Chỉ ích nhị, đại tập binh đinh, mưu nhập khấu. Tri Ung Châu Tô Hàm tư tri kỳ thực dĩ thư để Di thỉnh bãi sở hành tam sự như cố, vô sử Giao nhân hưng sư hữu danh.
Di bất thính, phản di văn hặc Hàm thư nghị, hựu trách lệnh bất đắc triếp ngôn Biên sự.
Ư thị Giao nhân quả đại cử chúng hiệu bát vạn. Thập nhất nguyệt để hải ngạn, vị tuần nhật hãm Khâm, Liêm nhi. Châu, phá Ung chi Thái Bình, Vĩnh Bình, Thiên Lục, Cổ Vạn tứ Trạí.
(Tham khảo: Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên. Qu. CCLXXI. Thần tông)
(Dịch: 'Năm thứ 8 Niên hiệu Hi Ninh.
Tháng Chạp, mồng 1 ngày Kỉ Sửu...
Ngày Đinh Dậu. Giao Chỉ vây Ung Châu...
Lúc đầu, Thẩm Khởi là Kinh Lược Quảng Tây, vọng ngôn là nhận được Chiếu chỉ mưu tính việc đánh Giao Chỉ, bên cạnh đó lại tự ý chiêu nạp phủ du. Nùng Thiện Mĩ ở Ân Châu, Tĩnh Châu, và cho lập thành, trại ở ven các Châu Dung, Châu Nghi, giết người cả ngàn. Người Giao Chỉ do đó kinh hoàng chấn động!
Triều đình xuống chiếu chỉ cho Lưu Di về thay (Thẩm) Khởi, hi vọng (Lưu Di) sẽ chiêu tập được dân (Giao Chỉ) - nhưng rồi (Lưu) Di còn giải thích sai lạc ý Triều đình hơn nữa, qua ý định gây chiến tranh, nhằm lập được công trạng kỳ lạ. Trước hết (Lưu Di) sai quan tới các vùng khê động kiểm tra, tập họp trai tráng trong vùng tổ chức thành đội ngũ để dạy cho trận đồ, bắt họ học tập quanh năm. Kế đến, sai người đốc thúc dân chở muối tại các bến cảng, tụ tập thủy quân dạy cho thủy chiến. Tất cả mọi việc giao dịch buôn bán giữa người Giao Chỉ và các châu huyện trước đó đều cấm chỉ.
Do đó người Giao Chỉ càng thêm nghi ngờ, điều động đông đảo quân binh, trai tráng, mưu tính vào cướp phá! Tri châu Ung Châu là Tô Hàm dò la biết được sự tình xác thực do đó gởi thư cho Lưu Di xin bãi trừ 3 biện pháp nói trên, tái lập tình trạng cũ, đừng cho người Giao Chỉ có cớ mà động binh.
(Lưu) Di không nghe, trái lại gởi văn thư kết tội (Tô) Hàm có những nghị luận cản trở công việc đồng thời khiển trách, lệnh cho (Tô Hàm) không được nói về sự vụ. Biên thùy.
Quả nhiên sau đó người Giao Chỉ điều động đại quân, quân số là 80,000 người! Tháng 11, quân Giao Chỉ cập bờ biển, (để) chưa đầy 10 ngày thì vây hãm 2 Châu Khâm, Châu Liêm, và đánh hạ 4 Trại là Thái Bình, Vĩnh Bình, Thiên Lục, Cổ Vạn thuộc Ung Châu.
+ Để có 1 khái niệm tổng quát về vị trí Không gian của 1 số Trại ở vùng biên địa Trung Quốc.
Bộ “Vũ Kinh Tổng Yếú của Đinh Độ (990 - 1053) và Tăng Công Lượng (998 - 1078) dưới triều Bắc Tống (960 - 1127) viết:
- “ Thái Bình Trại.
Tại Tả giang Nam ngạn, Nam khống Tư Lam man động, Hữu giang địa phận.
Đông chí Châu thập nhật trình.
Tây Quảng Nguyên Châu nhị nhật trình, Tây nam Môn Châu thủy khẩu.
Nam Tôn động nhất nhật trình.
Tây bắc Tây Bình Châu Bắc Trại Tây Châu giới.
- Thiên Long Trại.
Khống Vũ Doanh Động nhất đái Man giới.
Đông chí Châu tứ nhật trình.
Tây Tư Minh Bắc Giang Châu.
Nam chí Tư Châu, tiếp Khâm Châu Để Trác Phố, nhập Giao Chỉ Tô Châu giới nhất nhật trình.
- Vĩnh Bình Trại.
Đông chí Châu.
Tây nam Giao Chỉ Giáp động Đơn Ba giới, Môn Châu giới, tịnh nhất nhật trình.
(Tham khảo: Vũ Kinh Tổng Yếu. Tiền Tập. Qu. XXI. Quảng Nam Tây Lộ. Ung Châu)”
Dịch:
- “Thái Bình Trại.
Ở Nam ngạn Tả giang, ở mặt Nam khống chế Tư Lam động của dân Man ở địa phận Hữu giang.
Phía Đông tới (Ung) Châu là 10 ngày đường.
Phía Tây đến Quảng Nguyên Châu 2 ngày đường, phía Tây nam là cửa sông Môn Châu.
Phía Nam đến Tôn động 1 ngày đường.
Phía Tây bắc là Bắc Trại của Tây Bình Châu, ranh giới Tây Châu.
- Thiên Long Trại.
Khống chế cả 1 dải Vũ Doanh Động, là ranh giới vùng dân Man.
Phía Đông đến (Ung) Châu 4 ngày đường.
Phía Tây là Bắc Giang Châu, phủ Tư Minh.
Đi về phía Nam tới Tư Châu, tiếp giáp Để Trác Phố, thuộc Khâm Châu, nhập biên giới Tô Châu xứ Giao Chỉ 1 ngày đường.
- Vĩnh Bình Trại.
Phía Đông là (Ung) Châu.
Phía Tây nam là địa giới Đơn Ba, Môn Châu ở vùng Giáp động xứ Giao Chỉ, tới 2 vùng này đều mất 1 ngày đường.
Trên Bản đồ.
+ Vĩnh Bình Trại. Kinh độ 106o 50'. Vĩ độ 21o 40'.
+ Thái Bình Trại. Kinh độ 107o 20'. Vĩ độ 22o 27'.
+ Cổ Vạn Trại. Kinh độ 107o 53'. Vĩ độ 22o 44'.
+ Ung Châu. Kinh độ 108o 19'. Vĩ độ 22o 49'.
Từ Vĩnh Bình Trại ở phía Đông Lạng Sơn (Giao Chỉ) theo hướng Bắc thì Thái Bình Trại ở về mé Đông bắc, đi lên nữa theo hướng Đông bắc là Cổ Vạn Trại, và từ Cổ Vạn Trại đi qua phía Đông hơi lệch lên mặt Bắc là Ung Châu.
+ Còn về Thiên Lục Trại thì trên Bản đồ đời Bắc Tống không thấy. Không rõ có phải thời này là Thiên Long Trại ở phía Đông bắc Vĩnh Bình Trại không? - vị trí ở Kinh độ 107o 37'. Vĩ độ 22o 7'.
Ngoài ra, tập Bút ký “Tộc Thủy Ký Văn” của Tư Mã Quang (1019 - 1086) có bài viết như sau:
- “Hi Ninh trung, triều đình khiển Thẩm Khởi, Lưu Di tương kế Tri Quế Châu dĩ đồ Giao Chỉ.
Khởi, Di tác chiến thuyền, đoàn kết động đinh dĩ vi bảo giáp - cấp Trận đồ, sử y thử giáo chiến. Chư động tao nhiên. Sĩ nhân chấp Giao Chỉ đồ ngôn công thủ chi sách giả bất khả thắng số.
Lãnh Nam tiến sĩ Từ Bách Tường lũ cử bất trúng đệ, âm di Giao Chỉ thư viết:
“Đại Vương tiên thế bản Mân nhân, văn kim Giao Chỉ công khanh, quí nhân, đa Mân nhân dã! Bách Tường tài, lược bất tại nhân hậu - nhi bất dụng ư Trung Quốc - nguyện đắc tá Đại vương hạ phong.
Kim Trung Quốc dục đại cử dĩ diệt Giao Chỉ, Binh pháp:
- Tiên nhân hữu đoạt nhân chi tâm, bất nhược tiên cử binh nhập khấu, Bách Tường thỉnh vi nội ứng.
Ư thị, Giao Chỉ đại phát binh nhập khấu, hãm Khâm, Liêm, Ung tam Châu, Bách Tường vị đắc nhàn vãng qui chi...
- Hội Thạch Giám dữ Bách Tường hữu thân, tấu xưng Bách Tường hữu chiến công, trừ Thị cấm, sung Khâm, Liêm, Bạch Châu Tuần kiểm.
Triều đình mệnh Tuyên Huy Sứ Quách Quỳ thảo Giao Chỉ, Giao Chỉ thỉnh hàng, viết:
< Ngã bản bất nhập khấu, Trung Quốc nhân hô ngã nhĩ >.
Nhân dĩ Bách Tường thư dữ Quỳ.
Quỳ hịch Quảng Tây Chuyển Vận Ty án cục! Bách Tường đào khứ, tự kinh tử! - Quách súy vân'.
(Tham khảo: Tộc Thủy Ký Văn. Qu. XIII).
Dịch:
- 'Trong khoảng niên hiệu Hi Ninh triều đình điều Thẩm Khởi, Lưu Di lần lượt, nối tiếp nhau về trấn nhiệm Quế Lâm để mưu đánh Giao Chỉ.
Thẩm Khởi, Lưu Di đóng chiến thuyền, gom trai tráng tại các vùng (Khê) động lại tổ chức thành đội ngũ - cấp cho Trận đồ, rồi theo đó mà dạy việc chiến trận! (Vì việc này mà) dân ở các vùng (khê) động rồi náo loạn cả lên! Trong giới học thức số người dựa theo Bản đồ Giao Chỉ mà luận bàn Kế sách Chiến tranh nhiều vô kể.
Tiến sĩ đất Lãnh Nam Từ Bách Tường mấy lần đưa kế sách mà không được chọn, nên lén gởi thư cho Giao Chỉ nói:
- Tổ tiên của Đại vương vốn người Phúc Kiến, nghe nói hiện nay các bậc công khanh, quí tộc ở Giao Chỉ đa số là người Phúc Kiến! Bách Tường tôi tài lược không kém người - mà không được dùng ở Trung Quốc - xin được phụ tá dưới quyền của Đại vương.
Hiện nay Trung Quốc muốn điều động đại quân tiêu diệt Giao Chỉ, Binh pháp có nói: “Ra tay trước người thì cướp được tinh thần của người”, (vậy nên) chẳng có gì hơn xuất quân trước, vào cướp phá, Bách Tường tôi xin làm nội ứng.
Vì thế Giao Chỉ điều động đại quân vào cướp phá, hạ 3 Châu Khâm, Liêm, Ung, (thời điểm này) Bách Tường chưa rảnh về theo Giao Chỉ. - Và gặp lúc Thạch Giám có thân tình với Bách Tường nên tâu lên là Bách Tường có công trận, ban cho chức Thị Cấm, sung vào chức Tuần kiểm ở các Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Bạch.
Triều đình sai Tuyên Huy Sứ Quách Quỳ đi đánh Giao Chỉ, Giao Chỉ xin hàng, nói rằng:
- Chúng tôi vốn không muốn vào cướp phá, người Trung Quốc xúi dục chúng tôi đó!
Nhân đó họ đưa cho Quách Quỳ coi lá thư của Bách Tường gởi.
(Quách) Quỳ gởi văn thư cho Ty Chuyển Vận Quảng Tây để điều tra! Bách Tường bỏ trốn, (sau) treo cổ chết! - Theo lời của tướng Quách Quý.
Minh Di án.
Đương nhiên, bị xúi dục nói ở đây chỉ là cái cớ mặt ngoài, và đương nhiên Giao Chỉ phải biết rõ Từ Bách Tường chẳng có thế lực để làm nội ứng.
Ngoài ra, cũng không thiếu những Sử thư, những Bút kí, Văn tập... của các danh nhân, học giả Trung Hoa thời trước đã ghi chép 1 vài chi tiết Tống Sử còn thiếu sót, hoặc chép còn chưa rõ về Chiến sự năm Bính Thìn trên đây giữa Việt Nam và Trung Hoa.
Chẳng hạn về Chức vụ của Triệu Tiết và Lý Hiến khi được lệnh điều động quân binh xuống đánh Việt Nam thì “Tống Sứ”còn thiếu nhiều chi tiết. Cứ đọc đoạn văn sau đây thì rõ:
- “... Trí thiên chi thảo, sư tắc hữu danh. Dĩ sai Lại bộ Viên ngoại lang sung Thiên Chương các Đãi chế Triệu Tiết sung An Nam đạo hành doanh Mã bộ quân Đô Tổng quản Kinh Lược An phu? Chiêu thảo sứ kiêm Quảng Nam An Phủ sứ; Chiêu Tuyên sứ, Gia Châu Phòng Ngự Sứ, Nhập nội Nội thị Sảnh Đô giáp ban Lý Hiến sung Phó sứ... thuận thời hưng sư, thủy lục kiêm tiến'.
Dịch: “... Việc chinh phạt của thiên triều, (về nhân sự chỉ huy), lý do hành quân, danh phận đâu đó phải rõ ràng. (Do đó, triều đình) đã điều động Lại Bộ Viên Ngoại lang Triệu Tiết, hiện đang giữ chức đãi chế tại Thiên Chương các, đảm nhiệm các chức An Nam đạo hành doanh Đô tổng quản Mã bộ quân Kinh Lược An phủ Chiêu Thảo Sứ, kiêm An phu? Sứ Lộ Quảng Nam; Chiêu Tuyên sứ Phòng Ngự Sứ hạt Gia Châu, hiện tòng sự tại Đô Giáp Ban, trực thuộc Nhập nội Nội thị Sảnh là Lý Hiến vào chức Phó sứ... thuận thời khởi binh, thủy, lục cùng tiến”.
(Tham khảo: Vương Lâm Xuyên Toàn Tập. Qu. XLVII. Nội chế 3. Chiếu thư. Sắc bảng Giao Chỉ).
Trên đây là một đoạn trong tờ chiếu thư của Tống triều do chính Vương An Thạch (1021 - 1086) soạn thảo. Vương An Thạch lúc đó là Tể tướng đương nhiệm, cho nên, không cần nói cũng đủ rõ tính cách xác thực tuyệt đối của những chi tiết về nhân sự nêu trong Chiếu thư dẫn trên.
Chú thích tờ Chiếu thư này, học giả Thẩm Khâm Hàn (1775 - 1831) thời Thanh (1644 -1911) đã căn cứ “Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên” của Sử học gia Lý Đạo triều Nam Tống đã chép là, “vào ngày 20 tháng 11, năm thứ 8 Niên hiệu Hi Ninh, quân Giao Chỉ vây hãm Khâm Châu, và 3 ngày sau đó lại hạ thành Liêm châu. Tháng Chạp, ngày Đinh Dậu, Giao Chỉ vây Ung châu... Đến ngày Quí Sửu tháng Chạp triều đình xuống Chiếu chỉ lệnh cho Triệu Tiết, Lí Hiến đem binh đánh dẹp”.
(Tham khảo: Vương Kinh Công Thi Văn Thẩm Thị Chú. Văn tập chú. Qu. III).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét