Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2015

Ảnh Mai Lĩnh

TÔI ĐẾN VỚI PHẬT ( 15 & 16)


       
   KHÓ NHẤT LÀ TU TẠI GIA?

                         Tạp Bút
               MANG VIÊN LONG





          Sống giữa chốn “chín người, mười ý” - đủ tất cả các hạng người, nhất là hạng hung ác, mà tránh được va chạm, lìa được “ngã” để không sân hận; không nghĩ “thiện, ác - phải, quấy”; luôn luôn được an nhiên tự tại, thì không có gì khó hơn!

         
Đ
ặc tính chung về giá trị nghệ thuật của ca dao là sự diễn đạt tình cảm hết sức hồn nhiên, chân phác, dễ truyền cảm và đi thẳng vào tâm hồn, trí nhớ người đọc. Bên cạnh các giá trị về nghệ thuật, kho tàng ca dao Việt Nam vẫn được bền vững với thời gian, trải qua nhiều thế kỷ, phần lớn là nhờ ở giá trị tư tưởng, tình cảm, kinh nghiệm sống, truyền thống đạo lý, phản ánh rõ nét nhịp sống của dân tộc; tất cả đều được thể hiện qua những lời ca, gịong hò ấy…
     Ca dao thường đi vào rất sớm trong tâm hồn mỗi người, gắn liền với hình ảnh của người mẹ, của làng quê, của cuộc sống. Một trong những câu ca dao đã khiến tôi quan tâm suy nghĩ rất nhiều, đó là :
               Khó nhất là tu tại gia,
               Khó nhì tu chợ, thứ ba tu chùa!”
     Nhận xét về sự tu hành theo ý nghĩa của câu dân ca trên có thật chân xác, đúng đắn chưa ?
     Trước hết, tôi cho rằng hai câu nêu trên chắc là do người tu tại gia nói ra. Chính vì là người “ở ngoài chùa”, đang dấn thân trong cuộc sống với bao khổ đau, phiền não, oan trái; đang mong ước nhiếp tâm tu hành mà vẫn còn nhiều chướng nghịch; mới cảm hết mọi nỗi khó khăn trên con đường tu học, nên đã thốt lên:
               “Khó nhất là  tu tại gia”
     Tu với người ngoài - thỉnh thoảng mới gặp, lại chẳng có quan hệ thân thiết, ruột rà gì, thì có vẻ là dễ. Còn tu với ông bà, cha mẹ, anh chị em (…) - nhất là vợ (hay chồng) và các con; những người luôn sống gần gũi, có ràng buộc tình cảm thắm thiết, luôn chia sẻ cùng ta mọi cảnh ngộ trong cuộc sống, thì quả thật là khó thật. Hơn thế, người tu còn có bổn phận (hay trách nhiệm) trực tiếp với mọi biến động, mọi thành quả của những thành viên trong gia đình nữa, thì sự thọ trì lời Phật dạy, giữ tâm thanh tịnh, trước các phiền não, chướng duyên từ nhiều phía, thật sự đòi hỏi người tu phải có công năng tu tập thâm hậu và tinh tấn; mới mong không vấp ngã, thất vọng. Tục ngữ Việt Nam cũng  có câu “Thương nhau lắm, cắn nhau đau”: thương yêu nhiều, ái thủ lắm, thì sân hận và si mê cũng theo đó mà tăng cao.
               “Khó nhì tu chợ…
     Ngồi giữa phố chợ huyên náo, nơi tranh mua cướp bán, nơi “tham sân” có nhiều dịp trổi dậy, lớn mạnh trong mỗi con người, mà giữ tâm lìa khỏi tam độc, hành trì theo lời Phật dạy không sai; luôn hàng phục và an giữ tâm mình thanh tịnh trong sáng, luôn luôn “từ, bi, hỷ, xả” - quả không phải là chuyện dễ. Hơn thế nữa, sống giữa chốn “chín người, mười ý - đủ tất cả các hạng người, nhất là hạng hung ác, ngang ngược, mà tránh được va chạm, lìa được “ngã” để không sân hận; không nghĩ “thiện , ác - phải , quấy”, luôn luôn được an nhiên tự tại, thì không có gì khó hơn!
               …thứ ba tu chùa”
     Tu chùa là người đã xuất gia, đã từ biệt người thân yêu đi xuất gia, biết rõ tâm, biết được gốc, hiểu được pháp “Vô vi” - thế gọi là Sa môn. Vị Sa môn thường giữ 250 giới, (Tỳ Kheo Ni trên 300 giới) làm các điều thiện , ngăn các điều ác, để được “tâm trong sạch như tuyết sương” (kinh Bốn Mươi Hai Chương). Phật đã thuyết kinh “Bốn Mươi Hai Chương” để khai ngộ, chỉ dạy cho các Tỳ khưu. Chỉ thọ trì đúng đắn chơn thật một tạng kinh ngắn này thôi, là một điều không phải ai cũng có thể làm được. Dạy về đạo hạnh cho những người xuất gia, đức Phật lại tóm tắt các pháp cốt yếu trong kinh “Di Giáo”. Khi đã đến dưới gốc cây Sa La sắp vào cõi Niết bàn - dù là đã nửa đêm, đức Phật cũng luôn thương nghĩ đến các đệ tử còn tại thế, ân cần thuyết dạy “kinh Di Giáo”, để một lần cuối khai sáng con đường vào Đạo cho những người xuất gia. Chỉ dạy các đệ tử “nên bỏ tính kiêu ngạo” - đức Phật đã nói : “Người bạch y thế tục còn không nên có tính kiêu ngạo, nữa là người xuất gia, người cầu đạo giải thoát, người tự giáng thân làm người hành khất”. Đức Phật đã nghiêm khắc dạy tiếp: “…Người bạch y tại gia (…) có tính giận bẳn, thì còn có thể tha thứ được. Người xuất gia là người phải bỏ ham muốn, mà còn có tính giận bẳn thì không thể tha thứ được” (kinh Di Giáo). Người đã xuất gia (tu chùa) phải thực hành cho được đại nguyện “tự giác, giác tha - tự độ, độ tha” thì mới thật gọi là viên mãn công đức; xứng đáng với danh hiệu Sa môn, Trưởng tử của Phật, thay thế Phật cứu độ chúng sanh…
     Nói tóm tắt lại, việc tu hành ở “nhà, chợ, chùa” không có thể sắp theo thứ tự như ý nghĩa câu ca dao đã giải bày. Cũng không thể cho rằng việc tu hành ở chốn nào là quan trọng hơn chốn nào. Nơi chốn không phải là Đạo; mà Đạo chính ở trong tâm mỗi người. Đức Phật đã dạy rõ: “Người hành đạo đừng như con trâu kéo mía, thân tuy hành đạo mà tâm không hành đạo. Nếu tâm thực hành đạo thì thân không hành đạo cũng không sao” (kinh Bốn Mươi Hai Chương). Bởi vậy, cho dù ở nhà, ngoài chợ, trong chùa, hay nơi núi rừng cô tịch, mà tâm hành đạo - tri hành trọn vẹn với lời Phật dạy trong mỗi niệm, nhất tâm hoan hỷ từ bi theo hạnh chư Phật; thì đó mới chính là điều khó nhất.
Tôi xin tạmviết lại như thế này :
               “Tu nhà, tu chợ, tu chùa…
                Hỏi “ba tu” ấy, tu nào khó hơn ?
               Tu chùa, tu chợ, tu nhà…
             “Khó - không” là tự tâm ta tác thành!”  *
( Báo Giác Ngộ số 126 th 3/2006 )





                            TÂM “KIÊU MẠN

              TRONG SINH HOẠT VHNT

                                   Tạp Bút
                        MANG VIÊN LONG





              Điều cần khẳng định trước tiên là sinh hoạt Văn học Nghệ thuật (VHNT) cũng là một sinh hoạt trong nhiều sinh hoạt cần thiết của đời sống. Mỗi hoạt động có một mục đích, vai trò riêng, để cùng góp phần bảo vệ, nâng cao đời sống ngày một hoàn thiện hơn, hạnh phúc hơn - trong quá trình tiến bộ chung của nhân loại. Bởi vậy, chúng ta không thể hời hợt, phiến diện, khi coi trọng vật chất hay tinh thần. Sinh hoạt vật chất (thân) và sinh hoạt tinh thần (tâm) nên có sự gắn bó hổ tương để cùng phục vụ cho con người đạt đến cứu cánh hạnh phúc lâu dài…
          Những người hoạt động trong lãnh vực VHNT (cũng như các lãnh vực khác: Y học, giáo dục, kinh tế, xã hội, thương mại, kỹ thuật, đến  lao động bình thường…) có nên quá “coi trọng” sinh hoạt của ngành mình, để nảy sinh tâm “kiêu mạn” lạc hậu, thấp kém, và phản tiến bộ không ?
          Trong bài ghi nhận tản mạn này, chúng tôi chỉ xin được nêu lên đôi điều về tâm “kiêu mạn” trong sinh hoạt VHNT - chú ý đến sinh hoạt Văn học.
          Theo Hán Việt tự điển (Đào Duy Anh - Trường Thi XB - Sài Gòn 1958) thì từ “kiêu” có nghĩa là “ngạo mạn, không chịu phục tùng”. Từ “kiêu ngạo” là khoe khoang, ngạo mạn. Từ “mạn” là phóng túng, khoan chậm, kiêu ngạo. Từ điển VN Tân Tự Điển (Thanh Nghị - Khai Trí XB - Sài Gòn 1960); từ “kiêu” được giải thích là “tự cho mình là hơn cả mọi người”. Trong cả hai từ điển đáng tin cậy ấy, đa số các từ đứng đầu bằng từ “kiêu” đều có ý nghĩa không tốt (kiêu binh, kiêu căng, kiêu kỳ, kiêu phong (phong  tục xấu, đồi bại) - kiêu túng (phóng túng, dâm dật) - kiêu xa (kiêu kỳ, xa xỉ), … ). Vậy tính “kiêu mạn” (ngạo mạn, tự cho mình là hơn cả mọi người, khinh thường người khác…) xem ra chẳng thích hợp cho bất kỳ một sinh hoạt nào của đời sống - nhất là lãnh vực văn học!
          Ấy thế mà gần đây, chúng tôi được thư của một người bạn văn ở tỉnh X. than phiền, tâm sự, về một “ông bạn nhà thơ” - khép kín cánh cửa lầu và  cửa lòng (theo lời người bạn) vì không có ai xứng đáng để cho ông ta gặp cả (!). Quá khứ, ông ta có hai ba tập thơ được bỏ tiền ra in. Hiện tại có thơ đăng rải rác ở vài tờ báo. Tương lai thì không có gì sáng sủa để ngạo nghễ. Tuy vậy, ông vẫn nhìn đời bằng “nửa con mắt”- và đối với bạn văn, vẫn luôn khinh bạc. Đã không có cuộc sống gắn bó, thiết tha, kết thân với đời - thì thơ sẽ như thế nào? Thơ viết ra cho ai? Để làm gì nhỉ?
          Tại Tp. Y có một “ông nhà thơ”, hễ “đụng ai” cũng “chửi” (chữ của người bạn kể chuyện) - ông không hề “chịu” thơ ai, dĩ nhiên là ngoài thơ của mình! Ông ấy (tuy chỉ ngoài tuổi 40) học cái “ngông” của Tản Đà, và cái “điên” của Bùi Giáng. Ông ấy đâu có hiểu được rằng, cái “ngông” của Tản Đà thì rất tự nhiên, dễ thương - có chất thơ của người sống giản dị, tự tại, hào phóng. Và cái “điên” của Bùi Giáng thì đầy chất trí tuệ; có đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… Còn ông ấy thì sao? - Học đòi, sống lang bạt, rượu thịt, huênh hoang, ngạo mạn; bất chấp là ai, ở đâu… Sự “bắt chước” (hay sao chép) cách sống của người khác, ngụy tạo cho mình một hào quang ảo, chỉ đem lại kết quả thãm hại cho thơ, cho chính mình mà thôi !
          Trước khi có tham vọng muốn mình là “cái gì” thì trước đó phải là một con Người (viết hoa) cái đã. Sống bình thường nhưng việc làm phi thường - mới là mẫu Người đáng trân trọng. Có một nhà văn nào đó đã tâm sự “muốn cho người khóc mình, thì mình phải khóc trước đã”. Tác phẩm của nhà thơ - nhà văn, là để dâng hiến cho đời, kết thân với đời, cùng sẻ chia niềm hạnh phúc, hay nỗi khổ đau - để cùng tìm đến cứu cánh hạnh phúc vĩnh hằng; chứ không phải “đóng cửa lầu” làm thơ, hay vừa ngông cuồng bạt mạng vừa làm thơ - để thách đố, hay làm hoen ố đời sống (!)
          Trong giáo lý của Đạo Phật - Tâm kiêu mạn là một cái tâm cầu uế, tiêu cực, cần phải được loại trừ, gột sạch, trước khi bước vào cửa Đạo. Bởi vì, “những người phóng túng, ngạo mạn thì lậu tập mãi tăng thêm” (kinh Pháp cú - 59). Và hãy “lấy tính chất phác, chính trực làm gốc; giữ tâm luôn đoan chính” (Kinh Di Giáo). Trước giờ phút nhập Niết Bàn - Đức Phật đã còn ân cần khuyến dạy :  “… Các con nên tự sờ lên đầu để bỏ tính làm dáng, nếu có tính kiêu ngạo phải nên bỏ ngay đi (…) xiểm khúc chỉ có mục đích là lừa dối…”.
          Xem vậy, tâm “kiêu mạn” trong sinh hoạt VHNT là một cái tâm không thể có, không ai có thể chấp nhận; bởi chính nó ngăn trở sự tiến bộ, không có tính văn hóa - mà còn phản lại cứu cánh một một nền văn học luôn hướng đến “chân - thiện - mỹ”.

          Tháng 12. 2006
    MANG VIÊN LONG







*Ý kinh Hoa Nghiêm:“Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét