Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015

Ảnh Võ Thạnh Văn

Bài số 28 Tôi Đến Với Phật


                  GẶP “KINH PHÁP BẢO ĐÀN”

                     CỦA LỤC TỔ HUỆ NĂNG

                           Tạp bút
                        MANG VIÊN LONG




Sau hơn một tuần sống ở Phi Lai, một buổi sáng, sau bữa cơm chung vui vẻ với các cô chú; tôi xin phép Thầy Thiện Đạo xuống Tuy Hòa thăm chơi vài hôm. Tôi muốn đi loanh quanh trong cái thị xã đầy ắp kỷ niêm một thời ấy, để ghé thăm vài ngưởi bạn đồng nghiệp, bạn văn, nhân tiện mua ít sách báo để về lại Phi Lai có cái đọc cho vui, sau những giờ mải mê kinh sách!

Về Tuy Hòa, tôi thường ghé lại nhà anh chị Trần Huiền Ân, có lần ăn ngủ ở đó - cũng có khi về “tạm trú” nhà chị Lê Tăng Mính. Nhà chị Mính khá rộng, đó là một biệt thự có nhiều phòng, giữa khu vườn nhiều cây xanh, rất thoáng mát. Chị dành cho tôi ở ngay căn phòng mà lúc xưa khi còn dạy học ở Nguyễn Huệ, tôi đã ở. Căn phòng có cửa sổ rộng nhìn ra vườn, có giường nằm cá nhân, có bàn làm việc, có tủ chứa áo quần, rất thuận tiện. Hai nơi nầy là “địa chỉ thường trú” của tôi khi “có dịp” vào Tuy Hòa…
Tôi ngồi uống trà cùng Thầy ở chiếc bàn thấp kê sát cửa sổ ở nhà khách như mọi buổi sáng, tôi nói: “Thưa Thầy, hôm nay tôi định đi Tuy Hòa vài hôm…” Thầy cười: “Ờ, ông nên đi thư giãn một chút, nếu muốn!” Nói xong, Thầy quay vào phòng riêng, phía sau nhà Tổ, trở ra - Thầy đưa cho tôi tập sách dày, giấy hẩm: “Này, cầm quyển nầy về dưới đọc di!”. Cầm tập sách trên tay, tôi thoáng đọc tựa sách: “Kinh Pháp Bảo Đàn” của Lục Tổ Huệ Năng, do Thiền Sư Thích Thanh Từ dịch, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành nội bộ. Tôi nhìn Thầy, cười: “Thầy cho tôi mượn hay sao?” - “Tôi đã đưa cho ông, là của ông rồi!”- Thầy Thiện Đạo trả lời rất gọn. Tôi cảm thấy rất vui vì có thêm tập Kinh mới…
Không thể chờ đợi các chuyến xe Lam, bởi từ chợ Hòa Thịnh đến bến xe Lam Tuy Hòa, có thể mất hẳn một buổi; tôi đi bộ ra chợ, đón xe thồ đi ngay. Tôi đến Tuy hòa khoảng 9 giờ, ghé lại nhà chị Mính. Tôi tìm đến phòng ở dành cho tôi như ở nhà mình. Chồng kinh sách trước đây tôi đọc, vẫn được xếp nằm ngay ngắn trên bàn, phòng ốc sạch sẽ; tôi đẩy mở rộng hai cánh cửa sổ cho nắng tràn vào.
Ngồi ngay vào bàn, tôi mở vội “Kinh Pháp Bảo Đàn” ra đọc, với sự nao nức, hưng phấn, như mỗi lần có được tập Kinh sách mới. Tôi say sưa đọc, cẩn trọng từng câu, cảm thấy lời Kinh đã có một sức hấp dẫn lạ lùng, nhất là cảm thấy rất gần gũi, thân thiết. Đọc được mười mấy trang, đến đoạn kinh sau đây, tôi bổng cảm thấy không còn có ham muốn đọc thêm nũa: “(…) Huệ Năng sau đến Tào Khê lại bị bọn người ác tìm đuổi mới ở nơi Tứ Hội tị nạn trong đám thợ săn, trải qua mười lăm năm, khi đó cùng những người thợ săn tùy nghi nói pháp. Những người thợ săn thường bảo giữ giềng lưới, khi Huệ Năng thấy những con vật mắc lưới đều thả. Mỗi khi đến bữa ăn, hái rau gởi luộc trong nồi thịt, hoặc có người hỏi thì đáp: “Chỉ ăn rau ở bên thịt”. Một hôm, mới suy nghĩ: “Thời hoằng pháp đã đến, không nên trọn trốn lánh.” Huệ Năng liền đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn. Khi ấy có gió thổi, lá phướn động, một vị tăng nói gió động, một vị tăng nói phướn động, hai người cãi nhau không thôi. Huệ Năng tiến tới nói: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động (….)”
Chỉ một lời nói của Lục tổ Huệ Năng với mấy vị sư đang tranh cãi về chuyện “phướn động hay gió động” đã như dòng thác lũ, bất ngờ tuôn chảy vào trong tâm thức tôi: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động (….)”, tôi lạnh người, nghe âm vang cứ lớn dần, như chính tai tôi được nghe lời Huệ Năng vừa nói - và hình ảnh lá phướn trên cột cờ cao trước sân chùa Pháp Tánh bay trong gió lộng cứ ám ảnh trong tôi; với nỗi bàng hoàng khôn xiết! Tôi ngồi bất động, ngơ ngẩn giây lâu. Đôi mắt tôi dường như được tiếp nhận một thứ ánh sáng mới, nhìn ở đâu tôi cũng thấy mới lạ; tôi quay nhìn ra vườn thấy tàng cây màu xanh im sững một nỗi lặng thầm ngàn năm; nhìn lên chồng kinh sách đang nằm yên lặng trên mặt bàn, như trơ cứng, lạnh lùng, không còn quyến rũ, réo gọi tôi như trước đây  nữa. Bất giác, tôi thoáng nghĩ, sao mình lại có thể giữ lại những quyển sách này đến bây giờ? Tôi ngồi im lặng đắm chìm trong giây phút bị xáo trộn chóng vánh ấy, với quyển Kinh đang mở rộng trước mắt. Tôi quyết định gấp quyển kinh lại, nhớ là “trang 18”, không đọc tiếp nữa…
Ngay phút ấy, tiếng chị Mính từ phòng nhà sau vọng vào: “Anh Long ơi! Thầy Thiện Đạo goi…”. Tôi ra khỏi phòng, đến nhận ống nghe từ tay chị Mính: “Chào Thầy…” - “Ờ, đã đọc quyển “Kinh Pháp Bảo Đàn” chưa?” - “Thưa Thầy, đã đọc, nhưng đến đoạn kinh nầy, tôi quyết định không đọc nữa!” - “Đoạn nào vậy?” -  Tôi đọc thuộc lòng: “Không phải gió động, không phải phướn động, tâm nhân giả động (….)”. Sau tiếng cười, Thầy khuyên: “Cứ đọc tiếp đi nhé!” - Tôi do dự: “Thưa Thầy, tôi sẽ đọc tiếp, nhưng không phải lúc nầy!”
Tôi trở về phòng, nằm yên, không muốn làm gì, để tận hưởng giây phút hiếm hoi quý báu khi nhận được nguồn pháp hỷ vô bờ từ “Kinh Pháp Bảo Đàn”. Tôi lại nhìn ra bầu trời, lá cây bên ngoài cửa sổ, vẫn cảm thấy chúng là sự hiện hữu lạ lẫm, nhiệm mầu. Tôi có suy nghĩ: “Dù “Pháp Bảo Đàn kinh”, đúng quy định, được xếp là “Luận” - nhưng, chính đó là một quyển Kinh rất mầu nhiệm, vì đã làm cho những cái tâm vô minh, được bước dần vào Đạo!”. Tôi nghĩ tiếp: “Bất kỳ lời nói nào có năng lực làm cho chúng sanh được tĩnh tâm, an lạc và đạt đến “bất thối chuyển”, đều là Kinh!”
Tôi rất vui, khi tự đặt cho mình một “Đạo Hiệu” là “Huệ Thành” (Pháp danh được bổn sư đặt cho khi quy y là Sơn Thành), ngay buổi sáng hôm ấy!
Về sau, nhớ tới giấc mơ năm xưa đã được bổn sư ở chùa Ngọc Lộ giải thích, cho là “Con sẽ nhận được một quyển sách quý” - tôi tin, quyển sách quý mà tôi luôn mong chờ từ bao năm nay, chính là “Kinh Pháp Bảo Đàn” của Lục Tổ Huệ Năng đã đến với tôi hơn chục năm sau!
Tôi rất biết ơn Thầy Thiện Đạo - vị “Ân Sư” của tôi; tri ân nhiều bậc thiện trí thức mà tôi đã có “duyên lành” gặp gỡ trong gần bốn chục năm qua trên bước đường lưu lạc đó đây, và ngay cả trong quãng đời còn lại, hôm nay…

MANG VIÊN LONG



          



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét