BÀI SỐ
32 CVM
Ở
CHÙA
Tạp bút
MANG
VIÊN LONG
Vào
gần cuối đông năm 1993, tôi lại ra đi, vào Tuy Hòa, nhưng lần nầy tôi quyết
định tìm đến chùa Phi Lai để thăm Thầy Thích Thiện Đạo vì đã sau gần hai mươi
năm tôi chưa được gặp lại Thầy. Trước khi vào Tuy Hòa, tôi ghé thăm anh Huỳnh
Trung Khuê ở thôn Phong Thạnh, thị trấn Tuy Phước - người đồng nghiệp thàng
hậu, có tâm đạo; vì đã nhiều lần hẹn mà chưa thể ghé thăm.
Anh Khuê đã nghỉ
dạy, trồng hoa Sói, hoa Ngâu trong mảnh vườn rộng, chế biến trà gói, mang “bỏ
sỉ” hoa và trà cho các hàng quán ở chợ Tuy Phước và Binh Định. Anh tiếp tôi với
những ấm trà thơm ngát mùi hoa Sói, với chai rượu thuốc để dành, và bữa cơm
chiều tương rau cùng vợ chồng anh, rất chân tình. Buổi sáng, trước khi rời gia
đình anh, vợ anh đã “đãi” tôi một bữa bánh xèo tôm thịt, rất hấp dẫn! Chị còn
“bỏ túi” tôi hai chục ngàn đồng làm lộ phí nữa, tuy gia đình anh đang rất khó
khăn vì con cháu… Tôi cảm thấy mình đang “mắc nợ” gia đình anh nhiều lắm - nhất
là tấm chân tình mà cả hai vợ chồng anh đã dành cho tôi như một người thân ruột
thịt!
Tôi
ghé Tuy Hòa sau cơn bão và lụt lớn từ nhiều chục năm, chỉ vài ngày. Dường như
cơn bão lụt lớn vừa qua đã “thổi bay” tôi đến Tuy Hòa?
Thị
xã còn ướt sũng, đường sá nhiều nơi lởm chởm, trũng nước. Sự giá buốt và lạc
lõng sau cơn bão lụt còn hiện rõ trên các nẻo phố chợ và trên những gương mặt
lạnh lẽo, nhẫn nại. Tôi đến thăm gia đình anh Trần Huiền Ân trước tiên như mọi
lần vào Tuy Hòa, và đề nghị: “Sáng nay anh em mình lên Hòa Thịnh, đến chùa Phi
Lai thăm Thầy Thiện Đạo, được không anh?” Anh vui vẻ: “Lâu nay tôi cũng ít có
dịp gặp Thầy, anh muốn đi thì anh em mình đi!”.
Tôi
vội xuống nhà chị Lê Tăng Mính ở đường Hoàng Diệu mượn tạm chiếc xe Honda làm
phương tiện di chuyển. Chị cho tôi mượn chiếc Honda Dream mới tinh, còn chạy
rô-đa của cậu con trai út, mới mua về giáp tuần.
Chùa
Phi Lai ở mãi thôn Hòa Mỹ, xã Hòa Thịnh - cách Tuy Hòa hơn ba mươi cây số, về
phía dãy núi Tây - Nam thị xã.
Chúng
tôi lên đường ngay trong buổi sáng. Trời cuối Đông, tuy những cơn mưa lớn không
còn, nhưng cơn lụt lớn nhất trong vòng mấy mươi năm cũng chỉ vừa rút khỏi
khoảng một tuần lễ; nên con đường rẽ từ ngã ba Phú Lâm lên Hòa Thịnh bị xói lở,
lồi lõm, có đoạn bị nước chảy tràn xói lở, đứt quãng, rất khó đi. Cảnh vật làng
quê hai bên đường còn in rõ nét tiêu điều, rét mướt.
Con
đường từ phía bên kia cầu dẫn vào xã Hòa Thịnh mới thật là lầy lội, hiểm trở.
Vì là đường đất, lại bị lụt chảy xiết xói mòn, nên có vài nơi dòng nước cắt
ngang; chúng tôi phải xuống xe, cùng nhau đẩy qua trũng nước sâu khá dài. Vừa
ngập nước, vừa lầy lội.
Sau
vài lần xe bị trơn trợt suýt ngã xuống ruộng, anh Trần đề nghị để anh lội bộ
theo sau cho chắc ăn! Tôi lái xe đi rất chậm, cố vượt qua các vũng lầy, nhưng
xe luôn chao đảo. Lúc này, tôi mới thấy lội bộ như anh Trần (và nhiều người) là
khỏe hơn ngồi trên xe. Ngồi trên xe cố vượt qua chặng đường nhầy nhụa này,
không biết sẽ ngã lăn xuống ruộng lúc nào! Rất khổ.
Hơn
hai giờ lặn lội, chúng tôi đã tiến khá sâu vào xã, gần đến quãng chợ. Nhưng con
đường mỗi lúc một gay go hơn; có nhiều đoạn đường bị đứt. Nước chảy ào ào. Phải
khiêng xe qua.
Quá
mệt, tôi dừng lại bên một mô đất cao, tìm một điếu thuốc châm lửa hút, chờ anh
Trần đến gần. Tôi nhìn anh, áy náy hỏi:
-
Bây giờ anh liệu thế nào?
Anh
cười cười:
-
Tùy ông thôi! - Anh nói tiếp, tôi vừa hỏi thăm, chùa Phi Lai cũng
gần đến rồi..
-
Vậy thì chúng ta quyết định tiến lên nhé?
-
Dĩ nhiên là phải tiến lên, không thể lùi…
Sau
bao vất vả, khó khăn, chúng tôi cũng cho xe chạy vào cổng chùa Phi Lai vào lúc
gần 12 giờ trưa! Chùa vắng. Người sa di ni từ phía nhà bếp bước lên chào hỏi.
Được biết Thầy đã thọ trai, và đang nghỉ nơi phòng riêng bên chánh điện. Các cô
chú đều đi đắp đường cả rôi….
Thầy
rất đỗi ngạc nhiên và hoan hỉ khi thấy sự có mặt của hai chúng tôi - nhất là
tôi, đã xa gần 18 năm; sau cơn lụt lớn như vậy.
Hai
ly trà sâm có chút đường để gọi là “lấy lại sức” sau mấy giờ vật lộn với con
đường, với chiếc xe, của Thầy mời, quả thật đã làm dịu đi cơn mệt lã (và đói)
của tôi và anh Trần. Áo quần của hai chúng tôi dính đầy bùn.
Thầy
chỉ tay vào vách chùa:
-
Lụt vừa rồi nước dâng lên đến từng ấy - gần một phần ba vách – lo
di chuyển, thu dọn… rất là mệt!
Thầy
nói tiếp:
-
Tôi cũng vừa tham gia đoàn cứu trợ ở xã mới về…
Tôi
lo ngại hỏi:
-
Các đoàn cứu trợ có vào tận nơi này sao, thưa thầy?
Thầy
cười:
-
Toán nào chịu khó, quyết tâm thì vào, còn hầu hết chỉ đi dọc quốc
lộ…
Anh
Trần góp :
-
Vậy thì bà con ở vùng xa, sâu, có thể bị thiệt thòi…
-
Dĩ nhiên là như vậy rồi! Thầy cười
- Ở vùng sâu thì cái gì cũng thiệt thòi cả!
Chúng
tôi được một bữa ăn trưa thật ngon lành, dầu chỉ với món “canh mì ăn liền”
và một chén nước tương, dĩa rau lang luộc. Thầy ngồi ở bàn tiếp khách, vừa nhấm
chút trà nóng, vừa hỏi thăm tình hình sinh hoạt của tôi và gia đình. Tôi cũng
đã mang hết tâm sự u buồn, phiền lụy của mình kể lại với Thầy - như với người
thân yêu lâu ngày được gặp lại.
Thầy
an ủi:
-
Rồi tất cả cũng sẽ đi qua, anh nên giữ tâm thật yên tịnh! Đã nói
đời là khổ, thì có muôn vàn nỗi khổ, lo khác nhau; anh hơi đâu mà dính mắc vào
đó cho thêm mệt? Cứ an nhiên mà sống với hiện tại…
Sau
một giấc ngủ trưa nơi chiếc phảng kê gần cửa sổ nhà khách, chúng tôi nghĩ tới
chuyến trở về. Giấc ngủ êm ái, ngon lành giữa trưa cuối đông se lạnh, yên vắng,
đã làm cho tôi cảm thấy vô cùng khỏe khoắn, hưng phấn. Nhất là những lời khuyên
dạy của Thầy, đã xoa dịu bớt nổi ưu tư đang ngập tràn trong tôi từ bao năm
tháng.Tôi bắt đầu nghĩ đến ước mơ xưa cũ nơi một gian tịnh thất khuất vắng sau
lũy tre, những buổi tham cứu kinh sách, những tối ngồi thiền tự tại, an lạc…
Tôi nói ý định với Thầy:
-
Thầy cho phép tôi được nương tựa nơi Phi Lai một thời gian được
chăng?
Thầy
lại cười:
-
Sẵn sàng! Cửa chùa luôn mở rộng, chỉ ngại rằng anh chưa đủ duyên mà
thôi! Điều gì đến, nó sẽ đến anh à!
Lúc
chúng tôi chào Thầy, từ biệt Phi Lai trở lại thị xã, thì các cô chú lớn đi tham
gia sửa chữa đường ở thôn vừa trở về… Nhìn họ nói cười vui vẻ, hồn nhiên, tôi
thật thèm khát. Dường như ở đây không có bóng dáng của sự phiền muộn, khổ đau,
toan tính…
Từ
ấy, hình như năm nào tôi cũng đã “có dịp” tìm về Phi Lai đôi ba lần. Có năm tôi
ở lại cả hai ba tháng, coi Phi Lai là “chốn xưa” của mình. Được sống
trong niềm cảm thông bao dung của Thầy, trong sự chia sẻ thân thiết của các cô
chú, và nhất là trong cái không gian yên vắng, tươi mát, rạng rỡ của Phi Lai -
tôi luôn cảm thấy an lạc, tinh tấn trên bước đường tìm về với Đạo…
Tuy
được Thầy cho phép được sống tự do theo sinh hoạt riêng, nhưng tôi luôn hòa
đồng, gần gũi, chia xẻ mọi việc với các cô chú. Tôi tha hồ đọc kinh sách đọc
báo; tha hồ viết; tha hồ đi dạo quanh vùng để thăm viếng các đạo hữu… Khi công
việc đọc và viết có phần căng thẳng, tôi theo các cô chú đi làm cỏ đậu cả ngày;
đi tưới nước, thăm ruộng, bổ củi, phơi lúa, tưới cây, đắp đường, quét dọn quanh
chùa… Công việc đã làm cho cuộc sống có thêm ý nghĩa, có thêm hiểu biết, có
thêm niềm vui…
Tôi
rất sung sướng được tham gia vào các thời Kinh công phu 2 buổi sớm tối. Tôi
nhiệt tình dạy thêm Ngoại Ngữ và Việt Văn cho các cô chú đang chuẩn bị ôn thi
tốt nghiệp trung học phổ thông, trung học cơ sở. Để có thể góp phần nhỏ vào
sinh hoạt cần có của Phi Lai, tôi mở lớp dạy Anh Văn cho các con em quý đạo hữu
đang học ở trường phổ thông trong xã… Tôi ao ước có thêm việc để vừa làm, vừa
học, đem lại niềm vui cho người, cho mình. Có lúc Thầy phải xa chùa vì Phật sự
đôi ba ngày, hay mươi bữa, nửa tháng; Thầy đã nói vui: “Tôi giao chùa cho ông,
thay tôi “trụ trì” nhé!”
Thời
gian về sau, mỗi lần tôi trở về Phi Lai - dầu chỉ một ngày - bao giờ tâm tôi
cũng an lạc, hoan hỷ…Tôi nghĩ là tôi có duyên với Phi Lai từ nhiều kiếp trước;
do vậy, tôi cho Phi Lai là “quê nhà, chốn cũ” mà tôi luôn phải tìm về.
Thầy
Thiện Đạo đang là Trưởng Ban Hoằng Pháp của Giáo Hội Phật giáo Phú Yên, nên
sách báo Phật giáo rất nhiều; tôi đã rất hạnh phúc khi được tiếp nhận giáo lý
Phật giáo uyên thâm mầu nhiệm hằng ngày. Thầy cho phép tôi được tự do mở các tủ
sách ở chùa, tùy ý đọc. Một hôm, trao cho tôi tờ bán nguyệt san Giác Ngộ, Thầy
nói: “Ông đọc, rồi viết bàì cọng tác cho vui đi!”. Nhờ sự khích lệ của Thầy,
tôi đã bắt đầu viết đôi bài tạp bút, tiểu luận, và thơ - gởi cho báo Giác Ngộ.
Viết cho GN thuở ấy với tôi, là một cách để tự học, và tự tu tập, tự an ủi
mình! Các bài tôi đã nhờ đạo hữu gởi đi, không ngờ, đã được GN đăng tải - không
bỏ bài nào!
Thời
gian ở chùa, và sống nơi nầy chốn nọ ở Tuy Hòa, tôi đã có thời gian “tạm trú” ở
nhà chị Lê Tăng Mính - các con chị đã xem tôi như người chú ruột thịt, vì khi
còn dạy học ở trường Nguyễn Huệ, tôi đã ăn ở trong gia đình anh chị mấy năm;
các cháu cởi mở, thân thiết, sẵn sàng chia sẻ với tôi mọi điều! Có lúc, tôi ghé
lại, sống cả tháng ở căn nhà lầu rộng lớn bỏ trống của người bạn đồng nghiệp
thuở trước - anh Phan Tiên Hương, dọc quốc lộ vì gia đình anh vừa dời về căn
nhà mới ở bờ biển để kinh doanh. Anh dành cho tôi một căn phòng thoáng mát trên
lầu, cửa sổ mở ra con đường sắt phía sau, hằng ngày nghe tiếng còi tàu ra vào ga
Tuy Hòa; tha hồ đọc Kinh, tha hồ viết khi thích! Thời gian gần một tháng “trụ
trì” ở nhà anh Hương, hằng ngày tôi trì đọc hai quyển kinh mang theo là kinh
Kim Cang, rồi biên chép Bát Nhã Tâm Kinh thành nhiều bản. Để giúp tôi dễ dàng trong việc đi lại, anh
còn giao cho tôi chiếc xe đạp mới, ngày hai lần đạp xe xuống phố, ghé quán cơm
chay của chùa Bảo Tịnh, hay đi vòng vòng đâu đó trong thị xã, thăm bạn bè. Rồi
tà tà về nhà!
Một
hôm anh Hoàng Văn Trí - bạn đồng nghiệp lúc dạy ở Nguyễn Huệ, đang là Chánh thư
ký cho Giáo hội PG Phú Yên, tìm đến nhà anh Hương thăm tôi. Gần trưa, anh nói:
“Mời anh đi ăn bữa cơm chay với tôi” - “Ở chùa nào vậy anh?” - Anh cười hiền:
“Ở ngôi chùa nhỏ thôi!”. Tôi đạp xe theo anh, và “ngôi chùa nhỏ’ ấy, chính là
nhà của anh sâu trong con hẻm đường Lê Lợi. Ngôi nhà cấp bốn nhưng rộng rãi,
thoáng sạch, ngăn nắp, yên tịnh vô cùng. Giữa nhà, là bàn thờ Phật trang
nghiêm, sáng rực ánh đèn. Và hoa kiểng, và tủ kinh sách, và bàn làm việc, và
tấm lòng nhân hậu, quý khách của vợ chồng anh - đã khiến cho tôi vô cùng hạnh
phúc! Tôi đã có một bữa cơm chay, có thể nói, rất đầy đủ, thịnh soạn. Trước khi
tôi ra về, anh Trí đã tặng cho tôi tập sách mỏng, được xuất bản từ năm 1958; đó
là tập “Luận Tối Thương Thừa” của Ngũ
Tổ Hoằng Nhẫn, mà anh đã gìn giữ hằng mấy chục năm... Được cho ăn ngon, được
tặng sách quý - tôi cảm thấy đời tôi cũng đã có nhìều “duyên lành”, bên cạnh
những bất hạnh, khổ đau…
Về
sau, dầu ở đâu, đi đến nơi đâu, tôi vẫn thường gởi bài về cho GN, nhận được thư
động viên của Cư sĩ Tống Hồ Cầm (nhà thơ Tống Anh Nghị, Phó tổng biên tập GN
& Phó hiệu trưởng học viện PG tại Tp
HCM). Tôi trở thành cọng tác viên thường xuyên của GN trong nhiều năm, được quý
Thầy Thích Trí Quảng, Thích Giác Toàn (nhà thơ Trần Quê Hương), Thích Thiện
Bảo, Thích Tâm Hải (…) chia sẻ, góp ý chân tình! Khi GN quyết định chuyển bán
nguyệt san thành tuần báo, Cư sĩ Tống Hồ Cầm đã hai lần viết thư đề nghị tôi
vào làm việc ở tòa soạn, ông sẽ lo cho chỗ ăn ở tại một ngôi chùa gần, lo cho
các sinh hoạt thường nhật ở Saigon . Trước tấm
lòng ưu ái của Ông, tôi chỉ biết cám ơn, bởi tôi đã biết “duyên nghiệp” của tôi
đang còn rất nặng! Chưa có thể ở yên lành một chỗ nào, dầu tôi rất ao ước được
như vậy!
Tháng
giêng năm 1998, trở lại Phi Lai, tôi có viết được mấy đoạn thơ gởi tặng Thầy
Thiện Đạo và các cô chú ở Phi Lai như sau:
“Chốn
cũ ngàn năm vẫn nhớ hoài,
Ngàn
năm duyên bước đến Phi Lai…
Dấu
xưa in rõ phương trời ấy,
Muôn
dặm quan hà đâu dễ phai?
Xuân
ấy, phong trần mỏi cánh chim…
Còn
đâu tổ ấm - mãi bay tìm?
Còn
đâu mơ ước thêm dôi cánh,
Khuất
nẻo đường xa chỉ bóng đêm!
Từ
dạo êm đềm vui tiếng kinh,
Phi
Lai mở sáng ánh bình minh…
Chỉ
trong giây phút xua đêm tối,
“Pháp
Bảo Đàn Kinh” rõ bóng mình!
Ngày
ấy, xuân này - cách mấy xuân?
Cõi
riêng xuân ngát biết bao tình!
Phi
Lai chốn cũ bao duyên trước,
Giờ
vẫn còn nguyên vẹn bóng hình.”
Sau tuần báo Giác Ngộ, tôi được mời cọng
tác thường xuyên cho tập san Vô Ưu (GHPG Daklak), tập san Pháp Luân (Tp HCM),
Hương Từ Bi (GHPG Daknong), Hoa Từ (GHPG Bình Thuận), Văn Hóa Phật Gíao (…) với
ước mong được góp chút tâm thành, cho sự
nghiệp hoằng dương Chánh pháp mà đời mình đã được ân huệ, duyên lành đón
nhận…
Tháng 4 năm 2008
MANG VIÊN LONG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét