MÁI CHÙA
CHE
CHỞ HỒN DÂN TỘC
(ĐỌC BÀI THƠ “NHỚ CHÙA”
CỦA HUYỀN KHÔNG)
Tạp Bút
MANG
VIÊN LONG
Nhìn vào làng quê Việt Nam , tìm
hiểu các phong tục, tập quán; các sinh hoạt văn hóa - xã hội của dân tộc; chúng
ta nhận thấy sự hiện diện của đạo Phật - qua hình ảnh những ngôi chùa thân yêu,
là một điều không ai có thể phủ nhận. Trong nền văn chương truyền khẩu Việt Nam đã
còn lưu lại khá nhiều ghi nhận về ngôi chùa, như một biểu tượng không thể
thiếu, không thể tách rời khỏi đời sống chung của cộng đồng.
Hình ảnh ngôi chùa trong thơ văn thành văn cũng đã được
nhiều tác giả nhắc đến, hướng về, như hướng về cội nguồn quê hương, với bao
tình cảm, kỷ niệm sâu sắc khó quên trong đời. Tác giả Huyền Không là một tu sĩ,
là Hòa Thượng Thích Mãn Giác - vị cao tăng của Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ
(Ngài vừa viên tịch ngày 13.10.2006 tại chùa Việt Nam - Long An geles,
California - trụ thế 78 tuổi) đã viết bài thơ “Nhớ Chùa” (trong tập “Không Gian Thành Chiếc Áo”) khi đã trọn đời
gắn bó, trải qua bao thăng trầm, để kết tụ lại thành nỗi nhớ thương da diết,
tấm lòng thủy chung son sắc luôn hướng về “chùa xưa”, về quê hương, dân tộc…
Mở đầu bài thơ, Tác giả cho biết nhân duyên đã thôi thúc,
làm tràn đầy trong hồn mình nỗi “Nhớ Chùa” đã day rức bấy lâu:
“Từ
thuở ra đi vắng bóng chùa,
Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua!
Trong tôi bừng dậy niềm chua xót…
Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa.”
Hằng ngày được sống gần chùa, ở trong chùa - thì hình ảnh
ngôi chùa đã trở nên quen thuộc, bình thường; nhưng khi đã “ra đi” (mà đi rất
xa) - thì sự nhớ thương lại trỗi dậy, tăng lên theo chiều dài, cách biệt!. Còn
hơn thế nữa, khi “đường đời đã nhọc
chuyện hơn thua” - thì nỗi nhớ lại cộng thêm “niềm chua xót” để tác giả phải “xao
xuyến mơ về” (chứ không phải chỉ “mơ về”).
Nhớ Chùa trước hết là nhớ làng. Trong làng quê có chùa.
(Trong chùa lại có hồn của làng). Chùa và làng tuy hai mà một. Nhân đây, tác
giả đã rất khéo léo ngầm giới thiệu ngôi chùa mà hồn mình đang vọng về :
“Thấp
thoáng đâu đây cảnh tượng làng,
Có con
đường đỏ chạy lang thang;
Có
hàng tre gợi hồn sông núi…
Im
lặng chùa tôi ngập nắng vàng!”
Cảnh quê là cảnh làng quê tiêu biểu của Việt Nam
(lũy tre thấp thoáng, đường đất ngoằn ngoèo…); và ngôi chùa sáng lên, sừng
sững, trong cõi yên lặng của đất trời.
Đi vào chi tiết hơn, ngôi chùa hiện ra rõ nét hơn - những
chi tiết cũng lại là những chi tiết quen thuộc, bình thường của bao ngôi chùa
quê, nhưng sao lúc này chúng đã khiến tác giả quặn lòng thương nhớ đến vậy?
“Có những
cây mai sống trọn đời,
Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi…
Nhìn
lên phảng phất hương trầm tỏa,
Đức
Phật từ bi miệng mỉm cười!”
Dòng nhớ tưởng từng mạch nguồn âm ỉ chảy - thong thả mà réo
gọi; êm đềm mà cũng thật sâu lắng xoáy dần vào tâm hồn ta: Đây cũng là nét sinh
hoạt bình thường của một ngôi chùa, nhưng bây giờ nó hiện ra trong tâm trí tác
giả với niềm nhớ tiếc, bâng khuâng:
“Tôi nhớ
làm sao những buổi chiều
Lời
kinh giải thoát vọng cao siêu,
Đây
ngôi chùa cổ ngày hai buổi,
Cầu
nguyện dân làng sống mến yêu!”
Bên cạnh “lời kinh giải thoát”, ngôi
chùa cổ còn là nơi nương tựa tâm linh của làng quê - bởi vì với tấm lòng từ bi
cao cả - ngôi chùa đã đêm ngày “cầu
nguyện dân làng sống mến yêu”…
“Vì vậy làng tôi sống
thái bình,
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông kinh…
Sắn khoai gạo
bắp nuôi dân xóm,
Xây dựng tương
lai xứ sở mình!”
Lời nguyện cầu chí thành tha thiết của “ngôi chùa cổ” đã
được sự hộ trì của chư Phật, chư Bồ tát… Với cuộc sống yên vui, với “sắn khoai
gạo bắp” thôi - từng bước dân làng đã đồng tâm hiệp lực xây dựng cho một tương lai, ngày một tốt đẹp hơn. Đây cũng là
lòng ao ước của người tu Phật - luôn chuyển hóa cõi Ta bà là miền Tịnh độ.
“Mỗi tối
dân quê đón gió lành,
Khắp
chùa dào dạt ánh trăng thanh…
Tiếng
chuông thức tỉnh lan xa mãi,
An ủi
dân hiền, mọi mái tranh?”.
Ngôi chùa trở nên đẹp hơn, gần gũi tha thiết hơn với bao
cảnh đời quê nhọc nhằn - bởi vì luôn có tiếng chuông “thức tỉnh và an ủi”. Họ sống an vui với “gió lành và trăng thanh” đang dào dạt, rực rỡ khắp chùa và xóm
làng… Nghĩ nhớ về ngôi chùa tuy chỉ
được ghi lại trong 2 câu nhưng đã phác họa đầy đủ cả âm thanh và hình ảnh về
một ngôi chùa đẹp của bất kỳ một ngôi chùa nào ở làng quê Việt Nam .
“Trầm đốt
hương thơm bay ngạt ngào,
Thôn
trên xóm dưới dạ nao nao…
Dân làng
tắm gội lên chùa lễ,
Mười
bốn, ba mươi - mỗi tối nào”.
Như một cuộn phim quay chậm, tác giả dần nhớ lại, mọi sinh
hoạt của dân làng, của ngôi chùa - nhất là ngày rằm và mỗi cuối tháng, đã vừa
nói lên được tâm đạo của dân làng, vừa vẽ ra được một khung cảnh êm ấm, hạnh
phúc của làng quê…
“Biết đến
bao giờ trở lại quê?
Phân
vân lòng gửi nhớ nhung về…
Tang
thương dầu có bao nhiêu nữa,
Cũng
nguyện cho chùa khỏi tái tê!”
Càng đi sâu vào nỗi nhớ tưởng, tác giả càng cảm thấy xót
xa: “Biết đến bao giờ trở lại quê? “.
Lời thốt ra như một tiếng thở dài. Một tâm sự u uẩn, khó nguôi. Bởi vậy, tác
giả chỉ biết “phân vân lòng gởi nhớ nhung
về”. Gởi nỗi lòng, tâm sự, nhớ thương về quê xa - để có sự đồng cảm, sẻ
chia với nỗi cô đơn; và mong nhận nguồn an ủi …
Tấm chân tình của tác giả - một lần
nữa, thể hiện qua lời nguyện đêm ngày : “Tang
thương dầu có bao nhiêu nữa / Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê”. Nguyện cho chùa, mà cũng là để cầu
nguyện cho làng, cho dân tộc…
Trong cõi yên vắng mênh mang của sự nhớ tưởng - bỗng nhiên,
một tiếng chuông ngân lên, vẳng lại từ xa - có thể là tiếng chuông chùa Việt
Nam, hay có thể là tiếng chuông quê nhà vọng lại từ quá khứ của ngôi chùa cổ
làng quê mà đêm ngày tác giả luôn hoài vọng?
“Chuông
vẳng nơi nao nhớ lạ lùng,
Ra đi
ai chẳng nhớ chùa chung…
Mái
chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp
sống muôn đời của tổ tông”.
Đoạn kết bài thơ dài 9 đoạn thất ngôn tứ tuyệt đã được khép
lại khi tiếng chuông từ “nơi nao”
ngân lên - đưa nhà thơ trở về với thực tại: “Ra đi ai chẳng nhớ chùa
chung?”. Và tiếp ngay sau đó, tác giả đã nói lên cảm nhận sâu khuất từ đáy
lòng: “Mái chùa che chở hồn dân tộc”.
Đó là nếp sống ngàn đời của bao thế hệ, dầu trải qua bao dâu bể, thăng trầm…
NHỚ CHÙA tức là nhớ quê hương, nhớ dân tộc, nhớ Đạo pháp
vậy!
Lập Tâm
tịnh thất
Tháng 11.2006
MANG VIÊN LONG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét