BÊN
TÁCH TRÀ KHUYA
Truyện
Ngắn
MANG
VIÊN LONG
Nghe tiếng ông Cổn từ đầu ngỏ, nhìn thấy dáng ông lừng lững bước vào sân – ông Thạch rất ngạc nhiên. Cảm
thấy lạ. Đã chạng vạng rồi, ông ấy còn tìm đến làm gì nhỉ? Bấy lâu nay gặp nhau,
hẹn hoài. Rồi trôi đi như bao việc khác
đã lạnh lùng trôi đi, nhưng ông Thạch không hề trách bạn. Ông hiểu ông Cổn –
coi nhau như ruột thịt, ngay từ lúc ông ta từ miền Bắc trôi dạt về quê…Ông
Thạch vẫn nghĩ, cứ để ông ấy muốn đến lúc nào thì tùy, bởi cuộc sống của ông
cũng đang bấp bênh, chật vật – đâu có êm ả gì mà giữ đúng hẹn?
Ông Thạch không
còn ở nhà cũ của hai đúa con nữa. Ông đã quyết định không về ở với đứa con nào
trong hai đứa con của ông từ hơn một năm nay rồi. Ông dành dụm được chút tiền
đến mua một mảnh đất nhỏ gần tám mươi mét vuông, rồi dựng tạm mái nhà tranh
trong khu vườn của người bạn học cũ năm xưa đã trở lại quê chuyên nghiệp trồng
trọt, chăn nnôi từ sau ngày đổi thay 30 tháng Tư năm ấy bán lại…
Trong gần 5 năm sau
khi bán đi ngôi nhà ở phố san sẻ đều cho hai con – Ông đã luôn di chuyễn từ nhà
đúa con gái đầu, đến nhà người con trai út – nhưng nơi ông “ trụ “ lại tương
đối lâu hơn, vẫn là nhà của cậu An. Ì ạch chuyện thi vào đại học mấy năm vì cái
lý lịch – cuối cùng, An cũng xin cắt được hộ khẩu vào học ngành Thủy sản ở Nha
trang. Chuyện nuôi trồng chế biến các loại hải sản thì chắc là không ăn nhập gì
đến cái lý lịch “ không rõ ràng “ của An về
chuyện hai hoa mai vừa nở trên ve áo ông Thạch thì đã sớm héo tàn từ năm
xưa rồi! Cá- tôm, mực, cua, v v v đâu có biết gì. dính líu gì đến ý thức, quan
điểm, lập trường nhỉ? Chúng chỉ là những
con vật dùng để phục vụ cho cái miệng thôi mà. Về quê, An xin làm cho trại nuôi
trồng thủy sản của huyện. Lương tuy rất thấp, nhưng cũng đủ nuôi cái miệng qua
ngày…
Đám
con ông Phúc - nhà kế bên, cũng ì ạch
chuyện lý lịch tư sản, đã liều mạng lần lượt vượt biển hết rồi. Ở trại về, gánh
nặng gia đình của người vợ đã mất từ sau ngày ông lên trại 2 năm, khiến ông vừa
trả hết nợ này, lại đến trả nợ khác. Lo cho hai đứa con nhỏ ăn đi học cũng đã
mệt nhoài rồi, lấy “ cây “ đâu mà giao cho bọn chủ tàu như ông Phúc chủ hiệu
vàng Thành Tín một thời lộng lẫy? Phận
nghèo, thời nào, cũng phải nhận sự khổ!
Người chị của An
chẳng may “ lọt “ vào cái thời của ý đồ quay trở lại thời kỳ cải cách năm 56
theo kiểu Tàu, nên đã sớm biết phận lo tìm cho mình một cái nghề để kiếm ăn cho
dầu ba năm liền cấp ba, đều là học sinh giỏi. Đạt học sinh giỏi văn cấp tỉnh.
Không bước vào được ngưỡng cửa đại học, cô con gái ông không ngớt phiền trách
cha từ nhiều năm sau đó. Mỗi lần nghe con hậm hực than trách, ông liền bỏ đi
chơi đâu đó cả buổi không thiết làm gì nữa! Ông biết nói gì với con về cái quá
khứ dài dặt và bất hạnh mà ông ( và bạn bè ông ) đã phải trải qua? Tuổi trẻ chỉ
biết oán trách cái trước mắt. Chưa hề biết chia sẻ cái sau lưng. Nghĩ mà buồn…
Còn ông Cổn – từ
miền Bắc hối hả xin về quê, không có chức danh gì mang theo ngoài quá trình 15
năm lao dộng giỏi ở công trường cũng vì cái “ gốc “ địa chủ đã khai từ thời còn
đi học – nên mâm cổ ở huyện và thị trấn không có chỗ nào dành cho ông cả, ngoài
chân thủ kho hợp tác xã mua bán nhờ mấy năm sau cùng trước ngày 30 tháng 4 bị
đau bệnh nên điều về sở thương nghiệp Hà Tây làm thủ kho ở dó. Về đến quê – ông
biết dược chính xác người vợ cũ đã chết trong dịp tết Mậu Thân khi theo đoàn
biểu tình lên phố. Đứa con trai duy nhất của ông lúc xuống tàu còn nằm im trong bụng mẹ, đã đi lính
thủy quân lục chiến, rồi lưu lạc vào nam cưới vợ, lập nghiệp - cũng không tìm
ra tông tích. Ông trở về. Gọn gàng với
cái ba lô, chiếc xe đạp Phượng Hoàng, và mấy chục đồng tiền tiết kiệm. Nhưng
viễn cảnh cuộc sống thì đang bề bộn ngổn ngang…
Tình cờ gặp lại ông
Thạch sau hơn 21 năm ở giữa đường phố – ông Cổn không nhận ra, nếu ông Thạch
không quá vui mừng dạn dĩ lên tiếng hỏi trước. Từ ngày ấy – cả hai đã coi nhau
như hai anh em giống thuở còn đi học chung lớp 7 ở trường Hòa Bình. Sau ngày người cha bị “ đấu tố “, ông Cổn
cũng hết đường đến trường. Gia đình ông Thạch, tuy bị xếp loại “ tiểu tư sản “
nhưng sau đó – xin chỉnh sửa lại là “ tiểu thương” nên học hết năm lớp 8 mới
nghỉ hẳn khi mẹ ông chết đi vì bệnh lao.
Họ thường lui tới thăm nhau bên tách trà ly rượu, khề khà trò chuyện mà
không chút dấu diếm, sợ hãi.
Người vợ sau của
ông Cồn ở Hà Tây nhất định không vào nam với ông khi biết rõ “ chức vụ “ thủ
kho của ông, và hiện dang tạm trú trong một góc nhà kho chật hẹp. Hơn 20 năm
phấn đấu, nhưng bản tính lờ đờ, chất phát – lại vướng vào cái “ gốc “ địa chủ
từ thời ông cố - ông Cổn cũng không có được tấm thẻ đỏ như bao người ở Bắc về…Không
có bằng cấp gì, không có thẻ đỏ, lại chẳng có người “ đõ đầu “ nữa – nên ông Cổn như bóng cây khô trơ trụi ở
quê. Ông thường nói với ông Thạch.: “ Mình giữ được chân thủ kho là may mắn lắm
rồi còn gì? Mình phải lo giữ, dể cho thiên hạ ăn mà… “. Về lại quê sau 21 năm -
ông Cổn không có chút tài sản riêng nào khác như lúc ra đi năm 54. Ra đi với
chiếc ba lô, trở về cũng với chiếc ba lô – nhẹ tênh…
Biết được ý định của ông Cổn sẽ ở lại chơi qua đêm, ông Thạch rất
vui – vội xuống bếp loay hoay nấu mì sợi với trứng gà ( trứng gà của người bạn
bên cạnh có thể lấy dùng rồi trả tiền sau cũng không sao). Hai tô mì sợi to súc
hai quả trứng được ông Thạch dọn ra trên chiếc bàn nhỏ kê giữa sân cho thoáng
mát, thay thế bữa cơm chiều muộn màng.
Ông Cổn nhìn tô
mì bốc khói – cười thoải mái: “ Trời khiến tụi mình càng lớn, ăn uống càng ít
lại – chứ nếu ăn như thời trai trẻ, thì có nước…ngủ đói! Tôi đã bao năm ngủ đói rồi…”
-
Anh
cứ việc ăn no – Ông Thạch liếc nhìn bạn – sâm thì không có, chứ còn mì sợi thì nhiều lắm đấy!
-
Anh
khỏi lo – ông Cổn vừa múc muỗng mì lên – tôi có mang theo mấy gói mì tôm tiêu
chuẩn nữa đây mà! – đêm nay đói lúc nào, mình ăn lúc dó…Hà hà, vậy là nhất xứ
nẫu rồi còn ai hơn?
Dường như bao
giờ ông Cổn đến thăm ( hay gặp nhau ở đâu đó ) cũng mở đầu bằng một hay hai bài
thơ có sẵn trong túi áo đọc cho ông Thạch nghe. Ông Cổn đâm ra có “ tật “ làm
thơ, mê thơ từ ngày được về lại quê nhà. Hình như ở vào tuổi xế chiều, và sự cô
độc – dễ làm cho người ta gần gũi, gắn bó với “ nàng thơ “ hơn? Gặp nhau chỗ
vắng, nghe ông đọc thơ còn được. Giữa phố đông người – lại mang thơ ra đọc,
thiên hạ dòm ngó với đôi mắt lạ lùng, đôi lúc khiến ông Thạch rất bỡ ngỡ mà
không dám nói. Đêm nay – ông đem theo cả quyển vở 100 trang ghi chép đầy thơ
trao cho ông Thạch : “ Trong đây là tâm tình của tôi suốt bao nhiêu năm dã dược
ghi lại, anh đọc thử thế nào? “. Ông Thạch cầm tập thơ, lật vào trong vài tờ -
lặng lẽ đọc…
Ông Cổn vừa ăn,
vừa phân trần:
-
Anh
đọc rồi góp ý thử xem thơ tôi có …ra thơ không nhé?
-
Thơ
là nỗi lòng, là chuyện riêng của anh – tôi làm sao biết hết mà góp ý đây? – Ông
Thạch dè dặt.
-
Tôi
biết anh lúc còn đi học đã làm thơ hay, nổi tiếng cả trường, hai mươi mốt năm
vẫn làm thơ – sao lại từ chối khéo vậy?
-
Tôi
chưa hề nghĩ mình là “ nhà thơ”, mà chỉ làm thơ cho mình…Còn ai “ gán cho “
danh từ gì, tùy họ thôi mà!
Ông Cổn đặt muỗng và đũa xuống chiếc
khay nhỏ - ngẩng lên, đọc thuộc lòng một bài thơ trong tập :
“ Ngày đi có vợ, có con…
Ngày về vợ đã chẳng còn bên ta?
Con thì phiêu bạt phương xa,
Đời ta còn lại bóng tà cuối
thôn !
Nhớ thương da diết mỏi mòn,
Tìm đâu ngày cũ? Nước non dặm
dài..”
-
Buồn
! Ông Thạch buông thỏng..
-
Hỏi
anh, đời tôi còn lại gì để vui nữa mà không buồn?
-
Chứ
đời tôi có hơn gì anh đâu?
-
Nhưng
anh đáng sống hơn tôi…
Ông Thạch không
cải lại – cắm cúi ăn. Ông nghĩ, sự im lặng lúc này là nỗi chia sẻ chân tình và
lớn nhất dành cho bạn. Hai tô mì đã hết.
Ông Cổn tự lo dọn bàn, còn ông Thạch vào nhà trong mang ra khay trà và gói Basto đỏ còn nguyên.
Đêm đang lan dần
ngoài ngỏ vắng. Bóng tối làm cho không gian im vắng đến lạ lùng. Sự vắng lặng
lạnh lẽo cuối thu nơi góc vườn nhà thôn dã có lúc tưởng như trên mặt đất này chỉ
trơ trụi hai bóng người còn thức - ngồi bên nhau. Gió thu dìu dặt. Nhẹ. và se
lạnh. Đêm dần vào khuy. Đất trời mỏng manh, mờ mịt…
Hai người vô tình
cùng nâng tách trà lên một lượt – nhin nhau, uống từng ngụm nhỏ. Ông Cổn chợt
nói : “ Anh lật vào bài “ Nhớ Em Ngày Ấy “ xem đi! “
Ông Thạch chìu ý
bạn – lật tìm bài thơ. Cất giọng đọc lớn :
“ Em đến đời anh như bóng trăng,
Giữa đêm trừ tịch – buốt
lòng anh..
Ánh trăng soi sáng đời anh
mãi.
Một thoáng nhưng sao đẹp
vĩnh hằng?
Anh tưởng đời anh đã bò đi,
Ngờ đâu em đến – tuổi xuân
thì…
Duyên trao phận gởi, không
hề tiéc
Che chở đời anh – buổi hàn
vi! “
Ông Cổn uống cạn tách trà, châm nước thêm cho mình và
ông Thạch – giọng sang sảng; “ Anh nhớ ngày đó gia dình tôi bị cả xóm lánh xa,
như lánh xa một nguồn bệnh nguy hiểm, nhưng cô ấy đã tự nhiên đến với tôi –
chẳng hề để ý gì đến mọi lời đàm tiếu, kết án của đoàn thể – tự nguyên yêu
thương, và sẵn lòng về làm vợ tôi bất cứ lúc nào…thì đúng là “ ánh trăng “ mầu nhiệm rồi – còn gì? “
-
Vậy
là đời anh cũng đã có một “ ánh trăng”,
một mối tình quá đẹp rồi! – Ông Thạch hít một hơi thuốc, thả khói – một đời, đôi khi có dược một gặp gỡ tuyệt vời
như vậy, cũng đủ rồi – anh à!
-
Nhờ vậy tôi mới sống nổi ở ngoài đó hơn 18 năm
lao động ngoài công trường quần quật đêm ngày để chờ đợi mỏi mòn ngày về được
chứ anh?
-
Còn
cô ở Hà Tây thì sao?
-
Năm
73 – tôi bị bệnh nặng nên được chuyễn về điều trị ở bệnh viện Hà Tây. Cô ấy là
điều dưỡng…Cũng tình cờ gặp nhau rồi chung sống được mấy năm thôi!
-
Có
con cái gì không?
-
Cô ấy
đã lớn, khó có con – chỉ “ nương tựa “ nhau mà sống cho hết đời thôi…Ngặt nỗi,
cô ta cũng rất xinh – nhưng thuộc thành phần tiểu tư sản nên chẳng có cán bộ
cốt cán nào dám mó đến cả!
-
Vậy
mới còn lại cho anh chứ? – Ông Thạch chợt cười, anh đã được… nhà nước “ chiếu
cố “ lắm rồi, còn gì?
-
Đôi
lúc quá buồn, tôi cũng nghĩ như anh!
Hai bóng người
ngồi bên nhau lặng lẽ.
Những tách trà đã cạn. Rồi đầy. Bao lần. Sự im
lặng trôi qua - theo dòng, như đã chảy qua đời nhau hơn 21 năm gập ghềnh thác
lũ. Họ đã còn lại, như những nhánh cây khô trôi dạt vào hốc đá – chỉ chờ ngày rã mục.
Tiếng ông Cổn
chợt vang lên: “À! mà anh cưới vợ vào năm nào? “.
-
Năm
sáu bảy!
-
Muộn
vậy?
-
Tôi
nhỏ thua anh 4 tuổi mà! Cũng lao đao lắm phen …rồi mới nhảy vào trường võ bị Đà
lạc…
-
Vợ
của nhà thơ mà hào hoa như anh chắc là phải đẹp ?
-
Không
đẹp lắm đâu – Ông Thạch ngập ngừng – nhưng cũng là “ cái duyên “ tình cờ đến
với đời mình…Còn duyên thì ở, hết duyên thì đi – vậy thôi!
-
Tôi
cũng tin vậy – ông Cổn đặt tách trà xuống – chẳng hạn như cuộc đời tôi…
Đêm lặng lẽ trôi . Mặt trăng thu 21
chênh chếch lơ lửng góc trời phía đông trông lạnh lẽo. Tiếng gà bâng quơ chợt
gáy đơn độc từ góc vườn nhà người bạn như tiếng thở dài. Tắt lịm.
-
À!
Tiếng ông Cổn bổng thốt lên – anh còn nhớ thằng Can-lùn làm lớp trưởng năm tụi
mình học lớp 6 không? “
-
Nhớ!
Can “ cốt cán “ mê con gái bà chủ nhà đó chứ gì?
-
Đúng
rồi!
-
Mà
sao?
-
Ra
ngoài đó, gốc gác bần cố, được đi học – làm lớn lắm, có lần giáp mặt mình ở Hà nội mà nó làm lơ – đã chết rồi…
-
Chết
ở đâu?
-
Ngoài
Bắc…
Ông Thạch xé bao
thuốc ra, còn lại 2 diếu – chia cho ông Cổn một diếu – nhếch cười : “ Ngày xưa, có người thắp đuốc chơi đêm, vì nghĩ
đời quá ngắn cũng phải. Cuộc đời ngắn ngủi thật. Hai mươi năm, rồi gần hai mươi
lăm năm – nghoảnh lại, có là gì đâu? “
-
Không
biết anh nghĩ thế nào, chứ tôi đêm nằm
một mình nhớ lại – đúng là một giấc mộng anh à!
-
Vậy
mà có lắm kẻ không bao giờ nghĩ được như vậy…
-
Họ là
đám người đang say mà anh? Đã sỉn rồi, thì còn biết trời trăng gì nữa đâu?
-
Một
cơn say dài dặt cả đời - Ông thờ dài.
Đêm sâu hút. Sương lạnh. Gió thu dạt dào, se
thắt hơn.
-
Anh
còn nhớ cô Thảo-tây-lai không?
-
Biệt
danh ấy làm khổ cô ta một thòi rồi – anh nhắc lại làm gì?
-
Ai
cũng biết Thảo đẹp, có gương mặt thanh tú , mũi, mắt giống Phương tây – và làn da luôn trắng hồng, nhưng đâu phải là
Tây-lai anh?
-
Đành
vậy! – Thạch cười mơ hồ - anh có biết là lúc ra đi Thảo đã ở lại nhà tôi, khóc
ròng một ngày không?
-
Có
vậy sao?
-
Nói
giỡn với anh làm gì?
-
Vậy
là anh hạnh phúc quá rôi!
-
Nàng
đi biệt ngay ngày hôm sau – năm 80 có về thăm quê…
-
Có
thăm anh không?
-
Dĩ
nhiên là có!
-
Rồi
sao?
-
Nhìn
nhau một lát, rồi…đường ai nấy đi thôi!
-
Chông
Thảo là Thứ Trưởng đó , ông à!
-
Tôi
biết – Thạch cười bâng quơ – Thảo có
nói…
-
Sau
khi được đi du học ở Nga về, Thảo làm ở Bộ Văn Hóa Thông Tin – và là…vợ ông thứ
trưởng!
-
Đó
cũng là một giấc mộng …
Ông Cồn búng mẫu tàn
thuôc bay lên cao – vệt sáng vạch một đường cong phiền muộn…
-
Anh
vào trong ngã lưng một lát đi, khuya quá rồi! – Ông Thạch nói.
-
Còn
anh?
-
Tôi
ngồi đợi sáng…
MANG VIÊN LONG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét