JACK LONDON
Tài Hoa Mệnh Yểu
Bài Của Võ Thạnh Văn
Bài Của Võ Thạnh Văn
[ 1876 -- 1916 ]
I.
Cuộc Đời Niên Thiếu Gian Truân –
Jack London sinh ngày 12 tháng Giêng năm 1876 tại
San Francisco trong một khu lao động nghèo, với tên John Griffith Chaney. Thân
mẫu, Flora Wellman, một người đàn bà có gốc gác giàu có, gia phong thế phiệt…
nhưng không bình thường. Jack London là con ngoại hôn giữa mẹ chàng và một
người đàn ông có thân thế không rõ ràng: William Chaney, ký giả, luật sư, chiêm
tinh gia. Ông đã bỏ ra đi trước khi Jack được sinh ra. Sau nầy, khi Jack London
được 8 tháng, bà Flora Wellman kết hôn chính thức với John London, một cựu
chiến binh thời nội chiến của Mỹ. Mẹ chàng, Bà Flora Wellman, thường đau yếu và
nghèo túng nên Jack London được nuôi lớn bởi một người đàn bà phiếu mẫu có gốc
gác nô lệ, Virginia Prentiss, suốt thời gian thơ ấu --dường như không có tuổi
thơ.
Năm 14 tuồi, lúc chưa học hết lớp 8, Jack London bỏ
học. Tuy không được tới trường, nhưng Jack là người ham mê đọc sách. Chàng tự
học hỏi từ các thư viện công, thường xuyên lui tới Oakland Public Library. Sau khi bỏ học, Jack làm những công việc nặng
nhọc khác nhau trong các ngành hàng hải, công xưởng kỷ nghệ, đường xe lửa, kỷ
nghệ tìm vàng (Klondike, 1897-1898)… kể cả công việc bỏ báo lúc chưa được mười
tuổi… Nhưng, cuối cùng, những năm của thập niên 1890, Jack cũng tốt nghiệp được
Trung Học. Năm 19 tuổi, ông có ghi danh ở Đại Học Berkeley, nhưng lại bỏ học 6
tháng sau đó. Gia đình từng sống nhiều nơi trong Vùng Vịnh (Bay Area, Northern
California). Sau cùng, gia đình định cư tại Oakland, một thành phố Đông Vịnh.
Nơi đây, Jack sống vô cùng chật vật và bất hạnh một thời gian dài của tuổi trẻ.
Lớn lên, do hoàn cảnh, Jack ưu tư nghiền ngẫm và
tranh đấu cho xã hội. Từ đó, như là một ký giả, Jack tham gia đạo binh gọi là
Coxey’s Army trong một cuộc tranh đấu nổi tiếng ở Washngton DC, đã làm phóng sự
cuộc chiến tranh Nga-Nhật 1904 cho tờ báo Hearst Newspaper, rồi năm 1914, Jack
lại làm phóng sự cuộc cách mạng Mễ tây Cơ cho nhà Collier’s. Trong những năm
ngược xuôi, Jack càng thấm nhuần hơn tư tưởng xã hội chủ nghĩa và đã ứng cử
chức Thị Trưởng của thành phố Oakland nhiều lần, dưới danh nghĩa ứng cử viên
Đãng Xã Hội, nhưng đều thất cử.
Năm 1900, lúc 24 tuổi, Jack London kết hôn với người
vợ đầu, Bess Maddern. Bess Maddern là bạn và là cô giáo dạy kèm toán cho chàng.
Tuy nhiên, cuộc nhân nầy căn cứ trên nhu cầu xã hội chứ không phải do động cơ
tình yêu. Hai người sinh được 2 người con gái, Joan và Bess (Becky). Năm 1903, Jack London ly dị Bess Maddern. Sau
đó, ông cưới cô thư ký, Charmian Kittredge. Hai người sinh một đứa con duy
nhất, Joy, nhưng chỉ sống được 48 tiếng đồng hồ. Người vợ sau nầy, với Jack,
Charmian Kittredge là người tình, người vợ và là hồng nhan tri kỷ. Hai người cùng vui chơi, du lịch, viết lách… với nhau. Bà Charmian mất sau Jack 39 năm, vào năm 1955.
Hai người, Jack và Charmian, từng đi du lịch bằng
tàu thủy, suốt một thời gian dài 2 năm, 1907-1908, về vùng Đông Nam Á châu. Cùng
với nhau, họ lập trang trại rộng 1.400 mẫu, mang tên Beaty Ranch, ở thành phố
nhỏ Glen Ellen, gần và nằm giữa Petaluma
và Sonoma (bây giờ là Jack London State Histocical Park). Trong thư viện Jack
London (nằm ngay tại trang trại), ngay chính trong trang trại, và trong căn nhà
nhỏ nơi mà hai vợ chồng văn hào đã sống trên mười năm… người ta không thấy còn
sót lại một dấu tích gì của thuyền bè, biển cả… mặc dù Jack London là người yêu
đời sống hải hành… Ông sống và đi ngược xuôi nhiều năm trên biển, ông đã một
thời từng là Oyster Pirate… Chưa có nhà văn nào từng yêu sông hồ như ông.
Văn hào Jack London mất ngày 22 tháng Mười Một năm
1916, hưởng dương 40 tuổi. Hài cốt của ông (và sau nầy, 1955, tro cốt của bà
Charmian Kittredge) được chôn cùng mộ, dưới cùng một tảng đá lớn, trên một ngọn
đồi nhỏ thê lương, trong trang trại của chính bàn tay ông bà gầy dựng. Năm
1960, người cháu có tên là Irving Shepard đã nhượng trang trại của văn hào Jack
London (The Valley of The Moon) cho chính phủ Tiểu Bang California. Sau đó, nơi
nầy đã được biến thành State Historical Park. Mỗi năm có hàng triệu du khách
thăm viếng trang trại và mộ phần, mà một phần ba du khách nầy đến từ Âu Châu,
vì mến mộ tài năng một thiên tài yểu mệnh..
II.
Sự Nghiệp Văn Chương Lẫy Lừng ‑‑
Vào
cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, ngòi bút Jack London là một hiện tượng… Tên
tuổi của ông sáng rực trên văn đàn. Chỉ trong một thời gian ngằn ngủi của 2
thập niên (nói cho chính xác: 18 năm), ông đã hoàn thành trên 50 tác phẩm tiểu
thuyết (truyện dài, hầu hết đã được xuất bản) và gần 200 (nói cho chính xác:
197) truyện ngắn và hàng nghìn lá thư (letters) đặc sắc. Tất cả đều ngoại hạng.
Vào giai đoạn ấy, Jack London là một best-selling author, có tiền nhuận bút cao
nhất, sách bán chạy nhất, sách được dịch ra nhiều nhất (trên dưới 80) ngôn ngữ,
số người đọc nhiều nhất và khắp cả năm châu,
Những
tác phẩm của ông được dịch ra trên dưới khoảng 80 ngôn ngữ khác nhau. Tên tuổi
và tác phẩm của ông được biết nhiều ở Âu Châu và được ái mộ nhiều hơn nơi chính
quê hương mình. Đó cũng chính là lý do mà hàng năm, số du khách ngoại quốc
chiếm 1/3 con số một triệu du khách ghé viếng thăm mộ phần và trang trại của
ông. Cho đến giờ, các thế hệ nối tiếp sau khi ông qua đời, vẫn còn say mê các
tác phẩm của ông… Đó là những tác phẩm để đời, được yêu chuộng của nhiều thời
đại, và của nhiều nền văn hóa dị biệt.
Là
một văn hào nổi bật, với một bút lực sung mãn và cùng với một văn phong hào
phóng, tên tuổi của Jack London đã được xếp hạng đứng ngang hàng với những nhà
văn lớn thời bấy giờ, cũng như những cây bút lẫy lừng trên văn đàn trước và sau
ông, như: Harper Lee, Mark Twain, F. Scott Fitzgerald, JD. Salinger, John
Steinbeck, Robert Frost, Edgar Allan Poe, Nathaniel
Hawthorne, Ray Bradbury, Arthur Miller, Louisa May Alcott
, Ernest Hemingway, Edith Wharton, Emily Dickinson, Truman Capote, Dave Cullen,
Margaret Mitchell, L. Frank Baum, Walt
Whitman, William Faulkner, Kurt Vonnegut, Alice Walker, Tennessee Williams,
Henry David Thoreau, Joseph Heller,
Willa Cather, Sherwood Anderson, Atephen King, Flannery O’Connor, Theodoew Dreiser, Henry James, Henry
Wadsworhth Longfeller, John Irving…
Các
tác phẩm của ông đã được đóng thành phim ảnh, một trong những tác phẩm ấy là
Call of the Wild, The Sea Wolf, Martin Eden… Những tác phẩm nổi tiếng nhất của
Jack London được kể là: The Call of the
Wild (đầu tiên mang tên “The Sleeping Wolf”) phát hành năm 1903, The Iron Heel,
White Fang, The Sea-Wolf (klhởi thủy có tên “Mercy of the Sea”), The People of
the Abyss (a sociological treatise about the slums of London, England), John
Barleycorn, Martin Eden, and The Star Rover.… Truyện ngắn được đọc nhiều
nhất: To Build a Fire (II).
Là
một nhà văn hiện thực, với bản chất hiếu động, sôi nổi, nhiều mạo hiểm, lãng
mạn… Jack London đã từng là một thủy thủ (sailor) say mê thuyền và biển cả… Ông
từng đi nhiều nơi, như Nhật, Đại Hàn, Alaska, Tây Bá Lợi Á, Hawaii, Tahiti,
Australia, Ecuador, Pueblo, Cape Horn, Mexico… Ngoài ra, Jack còn là một nhà
mạo hiểm tìm vàng, một nhà nông (Rancher)… Tất cả đã đóng góp vào nội dung
phong phú và phẩm chất tuyệt vời trong các tác phẩm của ông. Sau đây, xin liệt
kê niên biểu và danh mục những tác phẩm của Jack London đã được ấn hành trong
thời gian Tiên Sinh còn tại thế:
A. Tiểu Thuyết
Liệt
kê theo thứ tự những năm mà tác phẩm đã được phát hành:
1900
The Son of
the Wolf
1903
The Call of
the Wild
1904
The Faith
of Men
1904
The
Sea-Wolf
1905
War of the
Classes
1905
The Game
1906
White Fang
1906
Scorn of
Women
1907
Before Adam
1907
The Road
1908
The Iron
Heel
1909
Martin Eden
1910
Lost Face
1910
Burning
Daylight
1910
Theft
1911
When God
Laughs
1911
Adventure
|
1911
South Sea
Tales
1912
The House
of Pride
1912
A Son of
the Sun
1912
Smoke
Bellew
1913
The
Night-Born
1913
The Abysmal
Brute
1913
John
Barleycorn
1915
The Scarlet
Plague
1915
The Star
Rover
Những tác phẩm được
ấn hành sau ngày Jack London mất:
1916
The Acorn
Planter
1917
The Human
Drift
1917
Jerry of
the Islands
1918
The Red One
1918
Hearts of
Three
1919
On the
Makaloa Mat
|
B. Truyện Ngắn
Danh mục 200 truyện
ngắn của văn hào Jack London, theo thứ tự alphbet:
3.
Aloha Oe
8.
Bald-Face
10.
Bâtard
13.
Brown Wolf
17.
Charley's Coup
19.
Chinago, The
21.
Chun Ah Chun
22.
Created He Them
25.
Day's Lodging, A
27.
Demetrios Contos
30.
Dream Image, A
32.
Dutch Courage
37.
Even unto Death
40.
Finis
41.
Flush of Gold
46.
Goboto Night, A
48.
Goliah
49.
Good-By, Jack
52.
Grit of Women
55.
Heathen, The
59.
Hussy, The
60.
Hyperborean Brew
61.
In a Far Country
64.
In Yeddo Bay
68.
"Just
Meat"
69.
Kanaka Surf, The
71.
King of Mazy May
74.
Koolau the Leper
75.
Law of Life, The
79.
Li-Wan, the Fair
82.
Little Man, The
83.
Local Color
84.
Lost Face
86.
Love of Life
89.
Make Westing
94.
Mauki
95.
Meat, The
97.
Mexican, The
100. Moon-Face
102. Negore, The Coward
103. Night Born, The
105. Northland Miracle,
A
106. Nose for the King,
A
107. O Haru
109. Old Baldy
111. On the Makaloa Mat
112. One More
Unfortunate
116. Piece of Steak, A
117. Plague Ship
118. Planchette
121. Princess, The
122. Prodigal Father,
The
123. Proper
"Girlie"
127. Red One, The
131. Samuel
132. Scorn of Women,
The
133. Sea Farmer, The
134. Seed of McCoy, The
135. Semper Idem
137. Sheriff of Kona,
The
138. Shin-Bones
139. Shorty Dreams
142. Siwash
143. Son of the Sun, A
144. Son of the Wolf, The
145. South of the Slot
149. Story of Keesh, The
152. Sun Dog Trail, The
153. Sunlanders, The
155. Tears of Ah Kim,
The
159. That Spot
160. Their Alcove
161. Thousand Deaths, A
162. To Build a Fire
(I)
163. To Build a Fire (II)
164. To Kill a Man
165. To Repel Boarders
166. To the Man on Trail
168. Too Much Gold
170. Trust
171. Two Gold Bricks
173. Unexpected, The
176. Up the Slide
177. War
178. Water Baby, The
179. Whale Tooth, The
181. When God Laughs
185. White and Yellow
186. White Man's Way, The
187. White Silence, The
190. Wicked Woman, A
191. Wife of a King, The
192. Winged Blackmail
193. Wisdom of the Trail
195. Wonder of Woman
196. "Yah! Yah!
Yah!"
197. Yellow
Handkerchief
Trong số nầy, có 5 truyện ngắn bị
thất lạc, chưa tìm ra tung tích:
-- Two Children of Israel
-- Delilah of the Foothills
-- Ethics of the Trail
-- Jason Aubrey
-- Native Wife
C. Thơ
Trong những ngày
bỏ học, lui tới thư viện công cộng Oakland, Jack London gặp Ina Coolbrith, sau nầy trở thành thi sĩ đầu tiên có tư cách hàn lâm Poet
Laureate của Tiểu Bnag California. Do cơ duyên nầy, Jack London làm thơ rất sớm.
Từ tháng 3/1897 cho đến hết tháng 8/1899, Jack Londa đã làm được 48 bài thơ.
Trong thời gian nầy chỉ có 2 bài thơ được phổ biến. Sau khi Jack London nổi
tiếng, 13 bài nữa được đăng tải. Tuy Jack London không nổi tiếng về thơ, nhưng
theo ông, thì đây là một bộ môn ông rất đam mê sáng tác (nhạc, thơ, triết và
sau cùng mới đến tiểu thuyết).
"Abalone Song", "The Lover's
Liturgy",
"And Some
Night", "My Gentle Nurse",
"Ballade of
the False Lover", "Republican Rallying
Song", "Cupid's
Deal", "In a Year",
"The Gift of
God", "Mammon Worshippers",
"Gold",
"If I Were God", "The Return
of Ulysses – a Modern Version", "Rich Morsels",
"He Never
Tried Again", "The
Socialist's Dream", "The Sea Sprite and the Shooting
Star", "His Trip to
Hades", The World of Jack London web site, (April 2006).
"Homeland"
"Of Man of the Future",
"Hors de
Saison", "Oh You Everybody's Girl,"
"Memory",
"On the Face of the Earth You Are the One," Rainbow's End,"
"Sonnet", "Still Hunt", "Thinket
Anger", "Moods",
"He Chortled With Glee"
"My
Confession", "Tick! Tick! Tick!,"
"Daybreak", "Too
Late", "The Way of War",
"Effusion", "Future
Wars", "When All the
World Shouted My Name", "When He Came In", "Your
Kiss".
Trong số những bài thơ thượng dẫn, có rất nhiều bài
(khoảng 1/3) chưa hề được phổ biến.
D. KỊCH NGHỆ - PLAYS
Về bộ môn kịch
nghệ, tuy Jack London sáng tác không nhiều, nhưng hầu hết đã được trình diễn
rất sớm, ngay những ngày Tiên Sinh còn sinh tiền. Người ta còn tìm thấy được
những kịch bản sau đây:
7.
The Assination
Bureau, Ltd
E. THƯ – LETTERS
Năm
1988, nhà xuất bản STANFORD UNIVERSITY PRESS đã xuất bản bộ sách “The Letters
of Jack London” gồm có 3 volumes, tổng cộng 1,768 trang với 1,554 lá thư của
tác giả, giá bán 185 Mỹ kim. Bộ sách “The Lettres of Jack London” được nhuận sắc
bởi ba nhà bỉnh bút: Earle Labor, Robert C. Leitz, III và I. Milo Shepard. Ba
volumes nầy được phân chia theo thời gian mà những lá thư đó được viết ra:
n Vol. I: 1896 – 1905
n Vol. II: 1906 – 1912
n Vol. III: 1913 – 1916
Cũng
theo lời nhà xuất bản Stanford University Press thì đây là những trang thư được
viết bởi một tâm hồn nhạy cảm, đầy tính cách nhân bản, cùng với một văn phong
sôi nổi cuồng nhiệt (đôi khi có giọng điệu quá khích), nhưng vô cùng cởi mở.
Với một văn tài nhiều cá biệt và cùng với bản chất sẳn có, Jack London đã viết
những trang thư đầy thi vị, nhiều nhạc tính, bay bướm, chải chuốt, sâu lắng
(đôi khi chua chát), dữ dội, mãnh liệt… rất lôi cuốn độc giả.
Rất nhiều những tác phẩm của Jack London được các nhà phê bình văn
học hiện đại xếp vào hạng kiệt tác trong văn chương Hoa Kỳ và của văn học sử
thế giới. Xin liệt kê những tác phẩm nổi tiếng ấy: White Fang, The Call of The
Wild, To Build a Fire, The Sea Wolf, The Iron Heel, The People of The Abyss… An Odyssey of the North, The Son of the Wolf, John Barleycorn, Before Adam, Martin Eden, The Other Woman, Hearts of Three…
III. Một Đời Tài Hoa Mệnh Yểu – Danh Vọng
& Cát Bụi:
Có
thể nói được, sau văn hào Mark Twain, thì Jack London là nhà văn có đời sống
phong lưu, lãng mạn và sôi nổi nhất, khi ông thành danh và có một địa vị lẫy
lừng trên văn đàn. Từ một đứa con ngoại hôn, lớn lên trong những hoàn cảnh vô
cùng nghiệt ngã, bỏ trường, ra đời sớm, tự học hỏi, tự lập thân… để thành đạt
và có danh vọng rực rỡ… rồi nằm xuống ở tuổi 40 trên một nấm gò cỏ dại hoang
sơ… bốn mùa chỉ có du khách mến mộ từ xa xôi tìm đến thăm viếng. Ông ra đi âm
thầm lặng lẽ như ông đã đến, không lựa chọn, trên cõi đời.
Tuy
nhiên, trong 40 năm tại thế, ông đã sống một cuộc đời xứng đáng, thật đầy đủ,
thật hào sảng. Do văn tài đặc biệt, ông nổi tiếng ngay từ những tác phẩm đầu.
Là một cây bút sáng tác đều tay, thường xuyên, nhiều thể loại (truyện dài, thơ,
thư, kịch bản, truyện ngắn…). Như đã liệt kê, chỉ trong vòng 2 thập niên, Jack
London đã viết 50 truyện dài, 200 truyện ngắn, gần mười kịch bản, hàng nghìn
trang thư và rất nhiều thơ phú (hầu hết chưa được xuất bản). Trong những vần
thơ sáng rực hào khí, có tính cách tiên tri về thân phận làm người của chính
mình, ông đã viết:
"I would rather be ashes than dust!
I would rather that my spark should burn out in a
brilliant blaze than it should be stifled by dry rot.
I would rather be a superb meteor, every atom of me
imagnificent glow, than a sleepy and permanent planet.
The proper function of man is to live, not to exist.
I shall not waste my days in trying to prolong them.
I shall use my time"
Không hẹn, Xuân Diệu,
một thi sĩ Tiền Chiến, đã diễn tả khá chính xác thân phận và tâm tư Jack London
trong vỏn vẹn 2 câu thơ thật hào sảng:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
“Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Giục Giã)
Trước đó, Ôn Như Hầu
Nguyễn Gia Thiều, một nhà Nho, với triết lý chấp sinh tuyệt vời cố hữu của cha
ông Việt tộc, cũng đã ngán ngẫm cảnh phù vân trần thế trong 4 câu song thất lục
bát:
“Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy
“Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
“Trăm năm còn có gì đâu
“Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì
(Cung Oán Ngâm Khúc)
Và sau nầy, thi hào Nguyễn Du, 4 câu lục bát mở
đầu thiên trường thi Đoạn Trường Tân Thanh, cũng than thở cho một kiếp nhân
sinh bi thảm đầy ắp bi lụy của thân phận bi thương hẩm hiu trong chủ thuyết tài
mệnh tương đố của mình:
“Trăm năm trong cõi người ta
“Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau
“Trải qua một cuộc bể dâu
“Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
(Đoạn Trường Tân
Thanh)
Mỗi buổi chiều vào
thu, đứng trước cảnh thê lương của mộ phần Jack London, một văn hào tài hoa
mệnh yểu, chung quanh cây cối đìu hiu, cỏ hoa xơ xác vàng vọt, một nắm tro tàn
được chận lên bởi một tảng đá lớn –chứng tích còn sót lại của Wolf House ngạo
nghễ một thời giàu có và danh vọng (“I am
building my dream-house on my dream-ranch.
My house will be standing, act of God permitting, for a thousand years…”
JL) kẻ hâu sinh nầy bùi ngùi thảo 4 câu lục bát tứ tuyệt và đốt trước mộ
phần để điếu linh hồn Tiên Sinh, người quá vãng hơn 100 năm trước, mà anh hoa
dường như còn phảng phất chung quanh:
“Hồn xưa đây. Người xưa đâu
“Đá trơ phế tích – Cỏ nhàu biển dâu
“Trăng chênh. Danh vọng. Sói lầu
“Tài hoa yểu mệnh – Khanh hầu bụi tro
(Bộ ảnh: Danh Vọng
& Cát Bụi, VTV)
Vô Thường! Tất cả đều
vô thường! Vô thường của vô thường! Cát bui! Tất cả đều cát bụi! Cát bụi của
cát bụi. Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh: “Sắc
bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc… Thị chư
pháp không tướng…” Kinh Thánh Cựu Ước: “Vanitas.
Vanitati. Omnia Vanitas.” Phù vân!
Tất cả đều phù vân! Phù vân của phù vân! Vanitas Vanitatum Mundi. Phù vân của
phù vân trần thế! Từ cát bụi đã trở về với cát bụi. Từ hư không đã trở về
với hư không.
VÕ THẠNH VĂN
Phù Hư am, Sept.
2012.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét