Phạm Văn Nhàn
Về Nguyễn Bắc Sơn
Thủ bút Nguyễn Bắc Sơn
1.
Tôi
thường gọi anh bằng cái tên thân mật hồi còn nhỏ: Hải. Sau này Hải dùng bút
hiệu Nguyễn Bắc Sơn cho những bài thơ viết về chiến tranh đi trên tuần báo Khởi
Hành do anh Viên Linh làm Thư ký, một tuần báo văn học nghệ thuật của quân đội
rất nổi tiếng, không những trong giới “lính” chúng tôi, mà còn cả giới trí thức
dân sự như giáo sư và sinh viên nữa.....
Năm 1972, một tin vui đến cho
Sơn: khi tập thơChiến Tranh Việt
Hôm nay,
hơn 30 năm sau, tập thơ của Sơn được chúng tôi ( Thư Ấn Quán ) in lại và gởi
đến độc giả yêu mến thơ anh ( tháng 5/2005, theo phương pháp
Book-on-demand ). Nhìn tập thơ của người bạn cũ nằm trên bàn làm việc của tôi (
do tôi và anh Trần Hoài Thư trình bày bìa), rồi nhìn lại tấm hình của anh, tôi
thấy một niềm vui - bao - la - chi - lạ. Vâng, vui lắm! Khi tôi gọi điện về nhà
thăm anh Từ Thế Mộng, và nhờ anh nói lại với Hải tập thơ đã in lại bên này, Hải
vui, và vui cả trên hai con mắt của anh mở to, rất sáng. Tôi biết điều ấy! Tập
thơ cũ, hình ảnh cũ của Hải lại về...
Mới ngày
nào phải không Hải? Thoáng cái đã 18 năm, hình như vào khoảng năm 1987, 1988
thì phải khi tôi còn đi làm kiếm sống bằng nghề “ thợ hồ ” sau những năm
“ học tập cải tạo ” về trong thành phố của bọn mình lớn lên. Thỉnh thoảng, có
những buổi sáng anh đến chỗ tôi làm. Và, ngày nào cũng cái quần kaki bạc màu,
cái áo sơ mi màu nhạt ( thường là màu trắng hay màu mỡ gà ), đôi dép Nhật lẹt
xẹt, cứ thế mà anh đi tìm bạn bè. Nói như anh Từ Thế Mộng: “ Ưa la cà với bạn
bè, ai rủ cũng đi, không rủ cũng đi, đi bất cứ đâu, ở bất cứ nơi nào có
bạn....”. Và, mỗi lần anh đến, tôi với anh lại đèo nhau trên chiếc xe đạp cà
tàng của tôi, đến cái quán cà phê quốc doanh đặt trong vườn hoa gần nhà
ga thành phố. Một chỗ ngồi dành cho những người lao động bình thường như
kéo xe lôi, đạp xe ba gác...Những buổi sáng như thế thật yên tĩnh trong khuôn
viên vườn hoa, anh lại đọc cho tôi nghe những bài thơ anh mới làm tối hôm
trước.
Làm sao
nhớ hết những bài thơ anh đọc cho tôi nghe trong khuôn viên vườn hoa năm ấy,
khi mà bối cảnh xã hội lúc bấy giờ không cho phép tôi dám cầm bút trở lại, khi
mà đầu óc còn xơ cứng, nặng nề, khi mà cái bao tử của cả gia đình bắt tôi phải
thật sự kiếm sống bằng đủ nghề chân tay. Do đó, tôi cũng phải biết giữ mình với
một khoảng cách “ văn nghệ, văn gừng ” sau ngày tôi ra khỏi trại. Chính tôi,
không ai khác, phải giữ khung thành cho vững đừng để cho trái banh nào lọt
lưới. Khổ thân. Tuy nhiên khi gặp lại bạn cũ và nhất là ngồi nghe lại những bài
thơ của bạn mới làm, trong một khung cảnh im ắng.... là thấy vui rồi. Cho
dù cái máu văn nghệ văn gừng ngày nào ...nó đã thoát hơi bay mất.
Với thơ
của Nguyễn Bắc Sơn, không phải chờ đến năm 1972 mới thấy thơ anh hay qua nhận
xét của những cây viết “ cổ thụ ” của văn học miền Nam mà trước đó tôi đã
đọc thơ anh, và rất chịu... Vâng, tôi không ngờ một người bạn thuở nhỏ mà tôi
tưởng là “ chỉ giỏi võ ” lại “ hay cả thơ ” sau này nữa.
Những
năm còn quần quật trong quân ngũ, được nghĩ phép là về quê thăm gia đình, bạn
bè. Tôi nhớ, có lần anh đưa tôi xem bài thơ Mật khu Lê Hồng Phong.
Trong bài thơ có đoạn ...” Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát/ nghe súng
rừng xa nổ cắc cù..” Tôi không thích hai câu thơ này lắm. Nghe “ nó ” làm
sao ấy. Chỏi với câu 3, theo ý riêng của tôi lúc ấy: Chợt thấy lòng
mình bát ngát. Vì anh cũng lính. Tôi cũng lính có chút máu văn
nghệ trong người. Anh làm thơ, tôi không làm thơ, nhưng đã là nghe súng
rừng xa nổ cắc cù là tụi mình “ phải cảnh giới- mất ngủ ” chứ không
thể nào thấy lòng mình bát ngát được.Tôi có nói thẳng ý của tôi nhưng không có
ý nghĩa là chỉ một câu thơ đó làm cho bài thơ mất hay. Phải nói là tuyệt nữa.
Bởi vì bài thơ gây một ấn tượng thích thú trong tôi, không biết có phải
thơ của bạn mà tôi nhớ mãi trong khoảng thời gian đi lính của tôi không?
Vâng! Chỉ 4 câu thơ sau đó thôi: Mai ta đụng trân ta còn sống / Về ghé
Sông Mao phá phách chơi / Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm / Đốt tiền mua vội
một ngày vui.Đố anh lính trận nào khi đọc 4 câu thơ trên mà không nhớ? Thực
tế quá, phải không? Bốn câu thơ trong bài thơ Mật Khu Lê Hồng Phongnày
theo tôi trong suốt thời gian còn tiếp tục đời lính. Năm 1972, lên Kontum, rồi
Pleiku công tác, từ Non Nước xuống Hàm Rồng về thị xã vào ngày nghỉ cuối
tuần, không phải chỉ có một Sông Mao của Nguyễn Bắc Sơn để người lính chia
sớt nỗi buồn cùng gái điếm; mà nơi nào trên quê hương lại không có những
Sông Mao như vậy ? Một cái quận An Khê núi rừng nhỏ bé thôi cũng đủ cho ta thấy
cả một khu Sông Mao ở đó. Và, còn đâu nữa, Tháp Chàm tôi đến cũng vậy. Không
nói đâu xa, dưới chân đèo “ Ngoạn Mục ”, cái xã nhỏ tí ti người dân tộc nhiều
hơn người kinh, thế mà, cũng có Sông Mao . Đừng nói chi đến những thành phố lớn
có quân đội đồng minh trú đóng. Sông Mao trong thơ của Sơn còn “ nhẹ nhàng ”
quá đỗi. Trước mặt, thì chết chóc. Sau lưng thì có quá nhiều Sông Mao. Thử hỏi,
đời lính chúng tôi lúc ấy làm sao không thích những câu thơ của Sơn?
Chiến
tranh! Nói thật lòng, chẳng ai thích đâu. Dù chúng tôi là những người lính một
thời trực diện với cái chết ngoài chiến trường. Nhất là ở những thôn xóm
mà người lính đi qua. Điêu tàn. Xơ xác. Tôi nghiệp. Ai cũng mong có Hòa Bình.
Ngay cả tôi cũng vậy thôi. Có người đọc thơ anh, nói anh “ phản chiến ”. Tuy
nhiên, tôi biết, anh vẫn khoác áo lính cho mãi đến tháng 4/75. Nói lên ước mơ
hoà bình trên một quê hương có quá nhiều chết chóc do chiến tranh gây nên, là
phản chiến hay sao?
2.
Với chủ
đề về thơ Nguyễn Bắc Sơn cho Thư Quán bản Thảo 20, chưa phát hành, mà bạn bè
của Sơn ở hải ngoại gọi điện hay email tới hỏi tôi khi nào thì phát hành, nhớ
gởi báo đến. Tôi vui. Trong những người bạn của Sơn ở Pháp có Phạm Tam Nại,
trước 1975 Luật Sư, không biết có phải như trong bài thơ: Chúng Ta
Không Phải Sinh Ra Để Sống Như Thế Này, trích đoạn:
...
bạn ta
những thằng đang cởi trần kêu khổ
Trong
những căn nhà hộp
Bỗng
nhiên
Đứa trở
thành quan tòa
Đứa trở
thành thầy giáo
Đứa tài
xế
Đứa nhà
văn
Đứa quan
ba
Thật
quái gỡ
Trong
thơ của Sơn, anh thường nhắc đến những người bạn một thời với anh. Cho nên,
ngoài những bạn thuở còn nhỏ với Sơn, tôi còn biết có một người rất thân sau
này khi anh đã vào lính. Đó là nhà thơ Sương Biên Thùy ( Lê Văn Chính ) khi
anh Chính đổi về tiểu khu Bình Thuận. Vì thế, khi làm chủ đề về thơ của
Nguyễn Bắc Sơn, tôi gọi điện thoại nói rõ cho anh Chính hay. ( sau này
anh Chính lấy bút hiệu là Lê Mai Lĩnh ). Và, anh vui lắm, khi nhắc đến Nguyễn
Bắc Sơn. Tôi nghe anh Trần Hoài Thư nói lại khi lên thăm anh ở Connecticut, anh
lấy thơ của Sơn ra đọc và khóc. Do đó, với số chủ đề này, anh đã gởi đến tôi
hai bài viết về Nguyễn Bắc Sơn ( phóng bút ). Bài 1: Nguyễn Bắc Sơn
Chút Tình Mang Theo Xuống Mộ Chí dài khoảng 17 trang. Và bài 2: Binh
Nhì Nguyễn Văn Hải dài 12 trang. Bài thứ 2 là bài viết theo thể loại vui
khi anh đổi về Bình Thuận gặp Nguyễn Bắc Sơn. Nếu Thư Quán Bản Thảo đi hết một
loạt hai bài này, gởi về Phan Thiết cho NBS đọc thì rất là “ đầy ấp tình bạn”.
Tuy nhiên, sau khi tôi đánh máy ( đặc biệt chỉ dành riêng cho bạn tôi- Lê văn Chính
) tổng cộng 29 trang loại giấy 8 ½ x 11 rà soát lại và đưa vào trang Thư Quán
Bản Thảo thấy chiếm quá nhiều trang ( trên 60 trang cho bài viết cùa anh Lê Mai
Lĩnh) mà số trang của Thư Quán Bản Thảo lại có hạn ( 200 trang cho mỗi số ), do
đó, bài viết thứ hai của bạn tôi viết về Nguyễn Văn Hải buộc tôi phải gác lại
để có chỗ cho những bạn bè khác trong phần “ sáng tác văn học - thơ và truyện )
nữa. Một ý riêng nhắn bạn ta, lần sau gởi bài xuống cho tôi, bạn làm ơn
gởi cái floppy disk viết bằng font chữ Việt thì tiện cho tôi lắm lắm. Đi
làm về, tối ngồi gõ 29 trang bài viết của bạn ( gõ bằng hai ngón tay như “ gà
mổ thóc” ê cả người. Dù mệt, nhưng cũng phải gõ trên bàn phím, vì chữ nghĩa của
bạn dành cho Nguyễn Bắc Sơn quá chân tình. Còn nói như anh Từ Thế Mộng ( trong
nước ) khi viết về Nguyễn Bắc Sơn, anh ấy nói: Lê Văn Chính viết sao hay quá,
29 trang giấy chỉ trong 2 đêm là xong, còn anh viết có 4 trang thôi mà tới 20
ngày. Sáng nào cũng thức dậy khoảng 3 giờ sáng để viết .... Để rồi, từ trong
nước, ngoài nước số chủ đề về thơ của Nguyễn Bắc Sơn cũng hoàn thành.
Phạm Văn
Nhàn
Viết năm
2005 (Thư Quán Bản Thảo số 20)
Sửa chữa
bổ sung năm 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét