NGƯỜI CHỒNG BẰNG
MÂY ĐAN
Nguyên tác : The
Wicker Husband
Truyện ngắn của
Ursula Wills-Jones
Nguyễn Khắc Phước
chuyển ngữ
Ngày
xưa có một cô gái xấu xí, vừa mập vừa lùn, chân đi khập khiễng, hai lông mày
dính liền nhau. Cô gái xấu xí sống bằng nghề làm ruột cá. Căn nhà xiêu vẹo của
cô nằm ở ngoài làng. Cô không bao giờ than thở chuyện gì.
Trai
gái trong làng lần lượt kết hôn với nhau. Họ tung tăng dẫn nhau đến nhà thờ làm
lễ cưới. Cô gái xấu xí cũng đến dự nhưng chỉ đứng sau lưng nhà thờ khóc thầm.
Phụ nữ trong làng thường ngồi lê đôi mách đủ chuyện về cô gái ấy. Rằng họ không
biết cô tiều tiền vào việc gì. Rằng cô ta không bao giờ mua váy mới, không hề sửa
nhà và không bao giờ đến quán ăn gì.
Vào
thời gian ấy có một ông lão sống bên đầm lầy rất giỏi nghề đan rổ rá. Một hôm
ông lão nghe có tiếng gõ cửa, liền mở, và trông thấy cô gái xấu xí đứng ngoài cửa.
Trong tay cô có sáu đồng xu bằng vàng.
"
Cháu muốn ông đan cho cháu một anh chồng," cô gái nói.
"Một
tháng nữa trở lại," lão đáp.
Lão
thợ đan hết sức cảm động vì cô gái xấu xí tin lão và giao cho lão một việc quan
trọng. Lão quyết định đan một anh chồng đẹp nhất cho cô gái. Anh chồng do ông
đan phải có đôi vai rộng, đôi chân dài, cánh tay khỏe, cổ dẻo dai, đôi lông mày
đậm và cân đối, mái tóc nâu đen và đôi mắt xanh nâu. Và nhiều thứ khác mà đàn
bà thích.
Đúng
hẹn, cô gái đến. "Anh ấy nói hôm nay chưa được. Ngày mai anh ấy sẽ đến nhà
thờ lúc mười giờ," lão thợ đan nói. Cô gái xấu xí ra về, suốt ngày ngồi gỡ
vẩy cá dính trên áo.
Tối
hôm đó anh thợ may trong làng nghe tiếng gõ cửa, liền mở, và thấy anh chồng bằng
mấy đan đứng bên ngoài.
"Cho
tôi mượn một bộ đồ," anh ta nói. "Sáng mai tôi cưới vợ và không thể
trần truồng đến nhà thờ".
"Á
á á á á!" anh thợ may sợ hãi kêu thét và bỏ chạy ra cửa sau. Chị vợ bước
ra, nắm chặt hai bàn tay cho khỏi run, hỏi,"Chuyện gì vậy?".
"Cho tôi mượn một bộ đồ," anh chồng đan nói. "Ngày mai tôi cưới
vợ và không thể trần truồng đến nhà thờ." Chị vợ ném cho anh ta một bộ đồ
và đóng sầm cửa.
Sau
đó anh thợ giày trong làng nghe tiếng gõ cửa, liền mở, và trông thấy anh chồng
đan đang đứng đó. "Cho tôi mượn một đôi giày," anh chồng đan nói.
"Ngày mai tôi cưới vợ và không thể đi chân trần đến nhà thờ."
"Ua trời ơi!" anh thợ giày hét lên và bỏ chạy ra cửa sau. Vợ anh thợ
giày run rẩy hỏi,"Anh muốn gì?". " Cho tôi mượn một đôi
giày," anh chồng mây đan nói. "Ngày mai tôi cưới vợ và không thể đi
chân trần đến đám cưới." Chị vợ cho anh ta một đôi giày và đóng sầm cửa lại.
Anh
chồng đan đi đến quán làng. "Cho tôi ít đồ uống. Ngày mai tôi cưới vợ và
muốn có thứ gì đó để đãi khách," anh chồng đan nói. "Ối làng ơi!"
chủ quán hét lên và tất cả khách hàng bỏ chạy. Anh chồng đan vào trong quán và
lấy đồ uống.
Sáng
hôm sau, khi đến nhà thờ, cô gái xấu xí vô cùng sung sướng vì thấy chồng mình
quá đẹp trai và bảnh bao.
Sau
đêm tân hôn thứ nhất, anh chồng đan bảo vợ, "Cái giường gảy rồi, kiếm cái
đục để anh chữa lại." Như bao anh chồng tốt trên đời, anh chồng đan bắt đầu
chữa giường. Chị vợ xấu xí đi làm ruột cá. Chiều cô về đến nhà, anh chồng đan
nhìn chị nói, "Anh được tạo ra để sống với em."
Sau
đêm trăng mật thứ hai, anh chồng đan nói, "Mái nhà bị dột, kiếm cái thang
để anh chữa." Thế là anh chồng tốt trèo lên và bắt đầu chữa mái tranh. Chị
vợ xấu xí đi làm ruột cá. Chiều đến, chị về nhà . Anh chồng đan nói, "Nếu
không có em, anh đã không bao giờ được thấy ánh sáng mặt trời chiếu lên mặt nước
và mây bay trên trời."
Sau
đêm trăng mật thứ ba, trước khi đi làm, chị vợ xấu xí nói, "Cần phải làm sạch
ống khói để đốt lửa." Chị vừa dứt lời, anh chồng tỏ vẻ sợ hãi. Từ đó, chị
vợ xấu xí hiểu rằng không thể bắt một người đàn ông làm bất cứ chuyện gì, cho
dù người ấy là một anh chồng tốt.
Vài
tuần sau, dân làng bắt đầu chú ý sự thay đổi của chị vợ xấu xí. Dù chân vẫn cà
thọt, nhưng mông chị bắt đầu lắc lắc làm họ khó chịu. Dù áo quần vẫn bốc mùi
tanh, nhưng chị vừa làm cá vừa hát. Chị diện váy mới và cài hoa trên tóc. Cặp
lông mày không còn dính nhau nhờ anh chồng nhổ bằng những ngón tay khỏe và dẻo.
Họ để ý thấy nhà chị sơn mới, các cửa sổ sạch bóng, cửa lớn không còn xiêu vẹo.
Đừng tưởng rằng những thay đổi này làm dân làng vui, không đâu. Trái lại, các
chị vợ bắt đầu ra lệnh các anh chồng sửa chữa cửa nẻo và phàn nàn chồng sao
không tự kiếm việc mà làm. Các anh chồng cãi : nếu các chị vợ diện váy mới và
cài hoa lên tóc, thử hỏi họ có thích chữa nhà hay không. Mọi người cằn nhằn và
nguyền rũa lẫn nhau, nhưng trong thâm tâm, họ đổ tội cho chị vợ xấu xí và anh
chồng đan của chị ta.
Chị
vợ xấu xí không hề biết người ta đang ganh ghét mình. Chị đang bận làm quen với
cuộc sống hôn nhân, và thấy rằng anh chồng mây đan của mình có nhiều bất cập.
Anh không ăn, không bao giờ phàn nàn vì cơm tối trể. Anh chỉ uống nước, càng đục
càng tốt. Chị hơi buồn vì không có cơ hội nấu nướng và nhìn chồng ăn như bao người
vợ khác. Vào những đêm giá lạnh, họ không ngồi cạnh nhau bên bếp lửa vì anh chồng
sợ lửa, chỉ thích ngồi trong bóng tối. Khi mùa xuân đến, trời mưa nhiều, anh chồng
đan bị ẩm mốc, chị phải dùng bàn chải và giấm để làm sạch mốc. Vào mùa hè, đặc
biệt vào tháng sáu nóng nực, các khớp xương của anh trở nên khô cứng, và suốt
ngày anh cứ nằm bên mương nước. Chị phải bưng cá ra mương làm, để ngồi với anh
cho vui.
Càng
ngày, thói tò mò thôi thúc dân làng đến nổi họ không còn chịu đựng được nữa.
Nhân có một đám cưới trong làng, cặp vợ chồng ấy được mời đến dự. Đám cưới có
dàn nhạc, nhảy múa, thức ăn và rượu. Khi nhạc trổi lên, chị vợ xấu xí và anh chồng
đan ra sàn nhảy. Dân làng ngạc nhiên thấy anh chồng đan nhảy quá đẹp. Anh ta nhắc
bổng chị vợ mập ú và quay nhiều vòng nhẹ nhàng tựa như một nhấc một chiếc lông
chim. Anh chồng mây đan tỏ vẻ hết sức lịch lãm và duyên dáng. Chị vợ xấu xí tưởng
mình như đang trên thiên đường.
Cánh
phụ nữ che miệng nói thầm với nhau. Vợ anh thợ rèn là người bạo dạn nhất. Chị
ta quyết định mời anh chồng đan cùng nhảy. Khi nhạc vừa ngừng, chị ta đi về
phía cặp vợ chồng ấy. Chị vợ xấu xí đang ngồi trên đùi anh chồng đan làm anh
này phát ra tiếng cót két. Vợ anh thợ rèn định đập vào vai anh chồng đan nhưng
hai tay anh này đang ôm choàng lấy chị vợ.
"Em
là lý do duy nhất để anh sống và thở", anh chồng đan nói. Vợ anh thợ rèn
nghe được câu ấy liền bỏ đi, chẳng nói chẳng rằng.
Hôm
sau, không khí giận dỗi căng thẳng lan ra khắp làng.
"
Ông chỉ có hai chân biết đi mà thôi," chị vợ anh thợ giày mắng chồng.
"
Ông không bao giờ nói với tôi điều gì hay ho," chị vợ anh thợ rèn hét vào
mặt chồng.
"
Ông chỉ biết mỗi một việc là nhìn xoáy vào đám đàn bà con gái mà thôi," vợ
anh chủ lò bánh nhiếc chồng.
Mặc
dù chính chị ta cũng không làm gì khác hơn là nhìn anh chồng đan chết mê chết mệt
suốt buổi đám cưới.
Sau
đám cưới, cánh đàn ông tụ tập tại quán rượu.
"Bậy
quá, bậy quá."
"Thằng
chả làm mất mặt bọn ta."
"Bày
đặt sơn cửa."
"Sửa
mái tranh nữa chứ."
"Thì
thầm với vợ những câu lãng xẹt."
"Bày
đặt khiêu vũ nữa chứ."
"Hắn
có phải là người đâu. Đồ tởm lợm."
"Hắn
không ăn."
"Không
cằn nhằn."
"Đánh
rắm cũng không," anh thợ may buồn bực nói.
Đám
đàn ông lắc đầu và đều đồng ý rằng chuyện này không thể tiếp diễn được nữa.
Trong
khi đó, cánh đàn bàn tập trung trong nhà bếp.
"
Có gì đó bậy bạ trong chuyện này," họ thì thầm với nhau.
"Con
vợ làm sao mà xứng với thằng chồng ấy."
"Chắc
con này bỏ bùa nó thôi."
"Rồi
nó sẽ bỏ bùa chồng của bọn ta . Coi chừng đấy," vợ anh chủ lò bánh nói.
"Phải
làm cho nó hết vênh váo."
"Nó
mà hơn bạn ta, hả?"
"Còn
bày đặt cài hoa lên tóc nữa chứ."
"Thấy
nó nhảy mà phát ghét."
Và
họ dứt khoát chuyện này không thể tiếp diễn được nữa.
Một
hôm, sau khi kiểm tra mấy cái bẩy cá, anh chồng đan mây đang đi về nhà thì tay
chủ lò bánh xuất hiện và đi theo.
"Tối
hôm đó anh tạo ấn tượng khá đấy."
"Thế
hả?" anh chồng đan nói.
"Bọn
phụ nữ bị kích động . Anh có bao giờ nghĩ...e hèm..."
"Cái
gì?" anh chồng đan bối rối hỏi.
"Đàn
ông như anh...có nhiều cơ hội lắm đấy". Anh ta nghiêng người về phía anh
chồng đan khiến anh này phải lùi lại, né tránh. Hơi thở tay chủ lò bánh bốc mùi
bột chua khiến anh chồng đan khó chịu.
"Vợ
thằng hàng thịt rất hấp dẫn. Tôi biết chắc thằng chả không có ở nhà. Lên thăm
thằng em ở thành phố rồi. Tới đó thử xem."
"Không
được đâu," anh chồng đan nói. "Vợ tôi đang chờ tôi ở nhà". Anh
chồng đan quay người và bước nhanh. Tay chủ lò bánh bực tức quay về nhà.
Anh
chồng đan có tính cả tin, lại chẳng để bụng chuyện gì nên vợ anh ta không hề
hay biết có chuyện rắc rối đang nhen nhúm. Chừng một tuần sau, khi chị vợ xấu
xí đang hái quả dâu trên hàng rào thì vợ anh thợ may rón rén bước tới.
"Này
em yêu quý ơi!" vợ anh thợ may vừa kêu vừa vẫy tay.
"Chuyện
gì thế?" chị vợ xấu xí nói.
Vợ
anh thợ may giả đò lau nước mắt, nhìn trước nhìn sau, rồi thì thầm, "Em
yêu quý ơi, chị đến đây để báo cho em biết chuyện này: chồng em đang đi lại với
mấy người đàn bà, em biết chưa?"
"Đàn
bà nào?" chị vợ xấu xí hỏi.
Vợ
anh thợ may khoát tay. Hình như chị ta không có ý định nói thế.
"Em
yêu quý ơi! Đừng tin bọn đàn ông. Họ đều một giuộc như nhau. Chẳng tốt lành gì
đâu - đàn ông như chồng em, đàn bà như em- thật đấy."
Chị
vợ xấu xí quá tức giận, lấy cái rổ đập chị vợ anh thợ may và chạy đi. Chị vợ xấu
xí về nhà, mặc dù biết nhiều chuyện chẳng lành hơn chồng mình và nghĩ mãi về
chuyện ấy nhưng vì sợ phật ý chồng nên chị làm thinh.
Vợ
anh thợ may giận dữ quay về nhà, trên mặt có nhiều vết xước. Tối hôm đó, tất cả
những cặp vợ chồng trong làng nhất trí phải có hành động quyết liệt.
Vài
ngày sau, lão thợ đan nghe tiếng gõ cửa, liền mở, và thấy nhiều dân làng đứng
ngoài. Ngay lúc đó, vợ anh thợ may bắt đầu khóc nức nở.
"Chuyện
gì thế?" lão thợ đan hỏi.
"Chị
ấy không có con," vợ anh chủ lò bánh sụt sùi.
"Trai
không, gái cũng không," tay thợ may buồn bã nói.
"Chẳng
ai chăm sóc họ lúc tuổi xế chiều," tay lò mổ thêm.
"Họ
buồn ghê lắm," chủ lò bánh tiếp.
"Thế
nên chúng tôi đến yêu cầu..."
"...nhờ
lão đan cho chúng tôi một đứa bé. Bằng dây mây."
Và
họ cầm một túi vàng đưa ra.
"Được,"
lão thợ đan nói. "Một tháng sau đến đây."
Vào
một ngày thu trời xám xịt, chị vợ xấu xí đang ngồi bên bếp lửa thì nghe tiếng
gõ. Anh chồng đan mở cửa và thấy dân làng đứng bên ngoài. Vợ anh thợ may ẵm một
cái bọc phát ra tiếng khóc oe oe.
"Cái
gì thế?"
"Cái
này là do mày tất," tay hàng thịt chỉ vào anh chồng đan và rít lên.
"Đồ
bẩn thỉu, người không ra người," tay chủ quán khịt mũi.
Tay
thợ may kéo phăng cái mền và chị vợ xấu xí trông tấy một đứa bé đan bằng dây
mây. Mắt, mũi giống chồng chị như đúc. Chị khóc rống lên.
"
Trời ơi! Hãy nói cái này không phải của anh đi!"
Nhưng
anh chồng của chị chẳng nói chẳng rằng, cứ nhìn chằm chặp vào đứa bé. Chưa bao
giờ anh trông thấy đồng loại của mình và cảm thấy hết sức xúc động. Trông thấy
vẻ mặt của anh, chị vợ nằm lăn trên nền nhà, rên rỉ.
"Đồ
thối tha , dơ bẩn. Đồ súc vật," tay thợ may rít lên. Anh ta chụp đứa bé liệng
vào trong bếp lửa. Ngay lập tức, anh chồng đan la lên, nhảy ra. Chị vợ xấu xí
hét lên, ném cây đèn dầu vào anh chồng đan. Bầu thủy tinh vở và dầu văng tung
tóe. Lửa bắt đầu liếm vào ngực anh chồng đan, cháy lên cổ, lên mặt. Anh ta cố dập
lửa nhưng ngón tay dính dầu bật cháy. Anh ta rú lên, chạy ra và lao xuống sông.
"Mọi
sự diễn ra tốt đẹp," tay hàng thịt thỏa mãn nói.
Dân
làng chẳng ai để mắt tới chị vợ xấu xí. Họ về nhà ăn cơm tối. Trên đường về, vợ
tay thợ may ném đứa bé đan xuống rãnh nước, lấy chân đạp vào mặt nó và nói,
"Đồ ghê tởm."
Hôm
sau, chị vợ xấu xí lang thang trên đường, gặp ai chị cũng hỏi, "Chồng tôi đâu
rồi?". Thấy mắt chị có vẻ dữ tợn, người ta bỏ đi. Chiều tối, khi đang lang
thang không biết nơi đâu, chị nghe có tiếng gì kêu trong rãnh nước. Cúi xuống,
chị trông thấy đứa bé mây đan. Nó kêu gào và cố vùng vẫy. Mắt và mũi của nó làm
chị nhớ chồng. Chị ôm nó vào lòng và bồng về nhà.
Bấy
giờ, lão thợ đan chẳng hay biết chuyện gì đã xảy ra. Một hôm lão chợt nảy ý tưởng
nên đi xem hai tạo vật của lão tiến bộ ra sao. Lão vào làng, đến gõ cửa nhà tay
thợ may, gặp chị vợ, lão hỏi, "Đứa bé ra sao rồi?". "Ối dào, nó
chết rồi," chị vợ trả lời và đóng sầm cửa lại.
Lão
thợ đan tiếp tục đi đến nhà của chị vợ xấu xí. Nhà đóng cửa, vườn tược nhếch
nhác, cửa ngõ bụi bẩn. Lão thợ đan gỏ cửa, đợi thật lâu vẫn không ai trả lời.
Lão
thợ đan thất vọng quay về nhà. Khi đang đi trong bóng tối chạng vạng gần đầm lầy,
lão nghe có tiếng gì trong bụi cây bấc. Lúc đầu lão sợ, lấy khăn trùm mặt. Nhưng
tiếng kêu hình như đi theo lão, lâu lâu lại rên rỉ. "Ai đó?" lão kêu
lên. Một bóng người tã tơi đang lê bước khập khiễng trên đường, trông rất thương
tâm. Lão kinh hoàng nhận ra đó là cái phần còn lại của anh chồng mây đan: tay bị
lửa thiêu, mặt bị mất. Ngực bị lửa đốt tạo thành những lỗ đen, bắt đầu mục rã.
Lão thợ đan khóc rống lên, "Trời ơi, ai làm gì con tôi thế này?" Anh
chồng đan không nói được: lưỡi anh ta đã bị mất. Lão mang anh ta về nhà mình.
Sáng hôm sau, lão bắt đầu sửa chữa. Càng chữa, lão càng tức giận,
"Tao
làm ra mầy, lại để cho mầy hư hỏng thế này," lão nói. "Tao sẽ không để
cho mầy tới đó nữa."
Anh
chồng đan sau một thời gian được chữa lại như mới mặc dù mùi khét vẫn còn. Nhưng
vài ngày sau, mốc đen do ẩm bắt đầu mọc. Lão thợ đan rút những sợi mục và thay
vào những sợi mới. Nhưng hình như vô ích: anh chồng đan bị mục từ trong ra
ngoài. Rốt cục, lão thợ đan đành bó tay.
Không
kể đêm hôm khuya khoắt, lão khoác áo và đi băng qua làng, đến nhà chị vợ xấu
xí. Trong vườn đầy rác rưởi, chị vợ đang đứng, tay bồng đứa bé. Chị đang hát một
điệu ru buồn da diết. Nhìn kỹ, lão thấy nó chính là đứa bé lão đã tạo ra.
Lão
thấy cơn giận của mình dịu lại. Bước ra khỏi bóng tối, lão nói, "Chị giữ đứa
bé làm gì khi mà chị đã đuổi chồng ra khỏi nhà." Nghe có người hỏi, chị vợ
bật khóc òa lên, "Nó là tất cả những gì mà chồng cháu để lại," chị
nói sau một hồi khóc lóc. "Dù đây là bằng chứng lừa dối của anh ấy nhưng
cháu không nỡ nào để nó chết trong rãnh nước." "Chị ngốc quá,"
lão nói. "Chính ta đã tạo ra đứa bé nầy, chồng chị chẳng có tội gì."
Vừa
nghe xong lời ông lão, chị vợ xấu xí hét lên và chạy ra sông. Ông lão chụp tay
chị, ngăn lại, "Khoan đã. Đi theo ta, ta sẽ cho xem cái này."
Chị
vợ xấu xí bước theo sau lão thợ đan, vòng qua đầm lầy. Khi trời sáng, chị thấy
rõ mặt ông lão có nhiều nét giống đứa bé. Như những người sáng tạo khác, lão đã
truyền hình dáng và tính cách của mình vào trong tác phẩm.
Khi
họ đến chỗ ở của ông lão, chị vợ xấu xí mở cửa và thấy chồng mình đang ngồi
trong bóng tối.
"Lẽ
nào chồng của em đây," chị nói. "Anh đã chết rồi. Chính em đã giết
anh rồi mà!"
"Anh
đã được tạo ra để dành cho em", anh chồng đan nói. "Nhưng em lại vứt
anh đi."
Chị
vợ khóc òa lên và quỳ xuống, gục đầu vào chân chồng.
Vài
ngày sau, dân làng ngạc nhiên thấy lão thợ đan đứng trước nhà thờ.
"Lão
có chuyện muốn nói với các người," lão nói. "Ta sắp nghỉ hưu. Nhưng
trước khi nghỉ hưu, ta muốn làm một kiệt tác - một cô gái bằng mây đan. Nếu muốn,
các người sẽ được phép sở hữu cô ta. Nhưng các người phải cho lão quà để lão
nghỉ hưu. Bất cứ ai mang quà có giá trị nhất sẽ được phép sở hữu cô ta."
Nói xong, lão quay lưng và đi về đầm lầy.
Khi
lão vừa đi xong, dân làng bắt đầu xầm xì.
"Thằng
chồng mây đan cao ráo và phong nhã quá đi chứ!"
"Nó
làm việc siêng năng quá chứ lỵ?"
"Anh
ta không đẹp trai nhưng biết chiều vợ đấy chứ?"
Hôm
sau, dân làng tuyệt đối không ai nói mình thích cô gái đan, nhưng bắt đầu có kế
hoạch. Đàn ông hỏi nhau về giá bò. Đàn bà lén mở hộp đựng nữ trang.
"Thằng
chồng đan làm việc như nô lệ, chẳng bao giờ đòi ăn," vợ anh thợ giày nói với
chồng. "Mua cho tôi con gái đan ấy để tôi bắt nó làm đầy tớ. Tôi sẽ làm bà
hoàng, suốt ngày chẳng đụng đến móng tay."
"Thằng
chồng đan không bao giờ cãi cọ với ai, chẳng khi nào to tiếng," tay chủ
quán trọ nói với vợ. "Không như bà, giống hàng tôm hàng cá."
"Thằng
chồng đan chẳng mỏi mệt, nhức đầu," anh hàng thịt nói với anh chủ lò bánh.
"Hãy tưởng tượng xem..."
"Này
em, cho chị mượn ít tiền," vợ anh thợ giày nói. "Chị cần mua đồ lót mới."
"Không
được đâu," vợ anh thợ rèn nói. "Em đã mua thuốc hết rồi. Con em đau nặng
lắm."
"Trả
món tiền mầy còn nợ tao ngay đi," anh hàng thịt nói với anh thợ may đang
thuê nhà mình.
"Lâu
nay có may vá gì được đâu," anh thợ may nhỏ nhẹ. " Em sẽ trả bác nay
mai thôi."
Anh
hàng thịt lên phố thuê luật sư đuổi anh thợ may khỏi nhà mình. Anh thợ may dẫn
vợ đến thuê nhà anh thợ giày.
"Ông
định dùng cái nhà trống vào việc gì?" vợ anh hàng thịt hỏi chồng.
"Chẳng
làm gì cả," anh hàng thịt nói, bụng nghĩ đến chỗ ở cho cô vợ bé.
Vợ
anh hàng thịt đánh nhau với vợ anh thơ may ngoài chợ, về nhà mặt sưng bầm.
Trong quán, không ai nói gì, chỉ len lén nhìn nhau.
Tay
luật sư vẫn chưa về làng. Người ta đồn vợ anh thợ may đang muốn ly hôn. Vợ anh
chủ quán trọ kêu cảnh sát bắt chồng khi thấy cầu thang có bôi mỡ.
Tóm
lại, lúa không ai gặt, bò không ai vắt sữa, bếp lò không ai dọn. Cả làng đang bị
ám.
Thế
rồi một ngày lão thợ đan đến, ngồi bên hông nhà thờ. Dân làng mang quà tới. Đầu
tiên anh thợ may mang một cái áo bành tô đắt giá. Kế đến, anh thợ xay xát mang
một chục bao lúa. Anh chủ lò bánh mang một cái bánh cực kỳ ngon. Anh thợ mộc
mang một bộ bàn ghế. Anh xà ích mang một con ngựa to khỏe. Vợ anh thợ rèn khệ nệ
bưng một miếng pho-mát to cỡ bánh xe. Em họ chị ta, vợ anh thợ may, mang đến một
túi vàng.
"Vàng
ở đâu ra vậy?" anh thợ may hỏi vợ.
"Mắc
mớ chi ông," chị vợ đốp chát.
Vợ
chủ quán trọ không có mặt. Chị ta bị trượt chân khi lên cầu thang.
Người
cuối cùng là tay hàng thịt. Anh ta bỏ xa những người khác: hai con bò đực, bốn
con bò cái và chục con cừu.
Lão
thợ đan nhìn quanh rồi nói, "Được rồi. Phần thưởng thuộc về ... anh hàng
thịt. Lão mang những thứ nầy về và sẽ mang cô gái đan trở lại."
Tay
hàng thịt quá sung sướng đến rớt nước dãi.
"Tôi
lấy lại lúa," anh xay xát nói.
‘Không
không," lão thợ đan nói. "Đây có phải là mua bán gì đâu". Lão chất
hết hàng lên ngựa.
Đáng
lẽ ra dân làng phải túm nhau mà đánh lộn nhưng vì họ quá tha thiết muốn trông
thấy cô gái đan nên chỉ đứng đó và chờ.
Khi
lão thợ đan trở lại thì trời đã nhá nhem tối. Cô gái đan ngồi trên lưng ngựa, mặc
áo choàng, đầu đội khăn voan như một cô dâu. Khi cô đi ngang, dân làng ngửi thấy
mùi hương ngào ngạt.
Anh
hàng thịt đứng trước ngôi nhà trước đây cho anh thợ may thuê. Để chuẩn bị, anh
đã nhốt vợ vào trong kho than.
Lão
thợ may đưa tay, giúp cô gái đan bước xuống. Anh hàng thịt trố mắt nhìn cô. Cô
gái đan thấp và chân đi vòng kiềng, mặt đen và thô nhám. Nhưng tệ hơn, từ đầu đến
chân phủ đầy gai.
"Cái
quái gì thế này?" tay hàng thịt rít lên.
"À,"
lão thợ đan nói. "Anh chồng đan được làm bằng cây mây. Mây là cây cao,
thân mềm mại, chẳng làm ai đau đớn. Nhưng ta thấy các người không thích, nên ta
làm cô gái này bằng cây mận gai. Mận gai thì cứng và đầy gai. Lửa hay nước
không làm cô ta chết."
Dân
làng có lẽ đã đè lão thợ đan mà đánh nếu cô gái đan không bước ra. Cô ta chụp
tay hàng thịt và hôn vào môi anh ta. Tay hàng thịt rú lên. Khi dứt ra được, môi
anh ta bị cào xước, máu chảy xuống cằm. Đúng lúc ấy, người ta nghe một tiếng rầm:
vợ tay hàng thịt đã thoát khỏi kho than và đang chạy tới. Trông thấy cô gái đan
đang hôn chồng mình, chị ta thét lên và đè cô gái đan xuống. Hai người xoắn với
nhau, lăn xuống rãnh nước, vừa hú vừa cào.
Ngay
lúc ấy, tay luật sư xuất hiện. "Các người chưa làm biên bản sao? Phải kiểm
tra mọi dấu vết. Quan trọng lắm đấy," tay luật sư nói.
Dân
làng lấy dao của tay hàng thịt, kéo của tay thợ may, xảy rơm của mình, rượt đuổi
tay luật sư. Chạy đến khi mệt đứt hơi, họ ngừng.
"Lão
thợ đan gian trá," tay lò bánh nói. "Lão lừa bọn ta rồi." Thế là
họ quay sang đường khác, nhắm hướng đầm lầy.
Trời
đã tối và họ vấp ngã, lỏm bỏm trong bùn, lạc đường và gần bị sa lầy.
Khi
đến được chỗ ở của lão thợ đan, họ đốt lửa lên cho sáng. Nhưng lão thợ đan, anh
chồng bằng mây đan, chị vợ xấu xí, đứa bé và tất cả hàng hóa của dân làng, hết
thảy đều biến mất.
Ursula
Wills-Jones
Nguyễn Khắc Phước
chuyển ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét