BÓNG
MÂY NGÀY CŨ
Truyện
Ngắn
Mang
Viên Long
Một trong những bức thư gởi về hưởng ứng công việc làm bức tượng kỷ
niệm cho người bạn văn nhân ngày giỗ đầu của anh được đăng trên vài tạp chí văn
nghệ lúc bấy giờ là Ngọc Vân ở tận miền Tây xa xôi. Kèm theo bức thư ngắn, là
tấm bưu phiếu. Sau khi tổng kết, nhóm anh em chủ trương đã gởi đến từng người
có hảo tâm chia sẻ một thư cám ơn, và bảng ghi danh sách đóng góp đính kèm với
một tấm ảnh chụp bức tượng đồng bán thân do điêu khắc gia Đỗ Thiện tình nguyện
làm giúp!
Ngọc Vân và Tuyên
bắt đầu thư từ thăm nhau và trao đổi thơ văn từ dạo đó…Tuyên rất vui khi biết
được một cô nữ sinh còn đang học năm cuối bậc trung học dệ nhị cấp đã có tấm
lòng trân quý thơ văn đến vậy! Hằng tuần, anh đều nhận được thư và thơ của Ngọc
Vân một lần, từ một thị trấn nhỏ miền Tây lặng lẽ và thơ mộng. Cả thư và thơ đều chứa chan tình cảm hồn
nhiên, trong sáng, và điều khiến Tuyên đôi lúc ngạc nhiên là ở tuổi nữ sinh đầy
ắp mơ mộng ấy, Ngọc Vân rất nhạy cảm trước mọi biến chuyễn của đời sống đang
nóng bỏng vây bủa chung quanh.
Hai năm sau, Tuyên
bị chi phối bởi lệnh “tổng động viên” phải tạm rời xa nơi đang tập sự luật sư khi
vừa được mãn hạn quy định; và ngay tức khắc, anh được đưa vào Đồng Đế cùng hàng
ngàn sinh viên từ các phân khoa đại học Saigon và Huế. Quân trường Đồng Đế nhỏ
hẹp, nắng và gió cát đã là nơi nhốt đầy tuổi trẻ đang trản ngập sức sống và ước
vọng. Chiến tranh đang bắt đầu tàn phá tuổi trẻ đến tận cùng.
Qua giai đoạn một – một buổi sáng chủ nhật,
Tuyên được gọi ra khu tiếp tân (sau mấy tháng trời không có ai đến gọi) vì có
thân nhân đến thăm. Nghe rõ tên mình được nhắc đi nhắc lại mấy lần trên chiếc
haut – paleur treo ở cành cây gần khu căngtin – Tuyên cũng không tin là anh đang có thân
nhân chờ? Tuyên không còn cha mẹ. Người anh cả thì đang ở tận Saigon
– không thể đi hết đoạn đường dài gần năm trăm cây số đến thăm anh như vậy. Tình
thương của anh dành cho Tuyên quá ngắn. Ngắn đến nỗi – vài trăm mét cũng không
thể đến dược cơ mà. Còn lại duy nhất người chị nghia tình yêu thương anh hết
mực nhưng sự nghèo khó và đàn con nheo nhóc, đã cầm chân chị lại ở quê nhà rồi! Vậy thì ai còn nhớ đến anh khi
đã chui vào bước đường cùng thế nầy?
Tuyên vẫn ra khu
tiếp tân dang có rất đông thân nhân từ cac tỉnh dồn về thăm, không khí nhộn
nhịp - ồn ào, đã xóa đi cái tĩnh lặng hiu hắt ngày thường của một khu bờ biển
hoang vắng. Tuyên nghĩ: “ Mình được ra ngoài, được tự do vài giờ, cũng quý hơn là nằm chèo queo trên chiếc giường sắt hay
ngồi nhâm nhi ly café chờ tiếng kẻng gọi cơm trưa…”
Một cô gái trạc 18 tuổi phân vân nhìn lên bảng
tên ghi trên ngực áo của Tuyên – bước lại gần, giọng miền Tây trong và ấm: “
Thưa, có phải anh là Đặng Thế Tuyên không ?”.
-
Đúng
rồi – anh nhìn sững lên gương mặt bầu bỉnh, tóc lòa xòa ngang vai của một cô nữ
sinh áo dài trắng vừa học hết năm cuối đệ nhị cấp – cười, xin lỗi…tôi đang gặp
ai đây nhỉ?
-
Em là
Nguyễn Ngọc Vân ờ…
-
Ồ!
Tuyên reo lên, em đấy hả? Anh thật bất ngờ,,,
Tuyên cầm lấy bàn tay Ngọc Vân như cầm
tay mọt cô em gái, lách đám đông tìm đến một chiếc quán khá rộng, mát – phía
cuối bãi…
Ngọc Vân và Tuyên vẫn giữ liên lạc với nhau
bằng những cánh thư đầy ắp thơ và mộng, cho mãi đến năm 75 thì thất lạc nhau.
Tuyên trở về quê nhà năm 78, học nghề sửa dồng hồ và cả nghề sửa radio để kiếm
sống. Cuộc đời Tuyên coi như đã sang trang mới khi vừa ở tuổi hai mươi tám – từ
đó, anh dò dẵm lật từng trang cho đời mình, qua bao tháng năm, trong sự cô độc
và nghèo khó. Người chị ở quê chồng tuy cách xa anh mười cây số, nhưng vẫn luôn
là nơi ấm áp còn lại ở quê mỗi khi anh đạp xe đến thăm chị…
Người
khách hàng đầu tiên đến sửa đồng hồ nơi chiếc tủ nhỏ của anh đặt ở góc phố là
một cô gái trạc hai mươi bốn tuổi. Chiêc đồng hồ hiệu Telda nữ cũ, có lẽ đã bỏ
đó khá lâu nay mới được dòm đến. Trong lúc Tuyên chăm chú tháo mở chiếc đồng hồ
gỉ sét, gắng sửa chiếc đồng hồ mở hàng khó “ăn” nầy, thì cô gái ngồi chiếc ghế cạnh tủ - thỏ thẻ kể
chuyện về chiếc đồng hồ Telđa…Chiếc đồng hồ là kỷ niệm khó quên của cô khi thi
đậu Trung học đệ nhất cấp được mẹ mua cho. Chiếc đồng hồ là bạn thiết ở bên cô
bao năm học thi , vào trường thi, vân vân…Kể về chiếc dồng hồ Telda mà Tuyên
tưởng chừng cô đang kể về cuộc đời thăng trầm của chính cô vậy. Tuy chưa phải
là đã già để ưa ngồi nghe kể chuyện cũ, nhưng Tuyên nghĩ – có giọng cô thỏ thẻ
bên tai lúc nầy, cũng đỡ buồn, là điều hay…
Sau lần sửa đồng
hồ đầu tiên ấy – cô gái lại phải đến chỗ Tuyên vài ba lần nữa, bởi chiếc đồng
hồ “cứng đầu” không chịu chạy lâu hơn vài ngày! Tuyên biết tay nghề của mình
còn yếu nên mới xảy ra trở ngại, anh sẵn sàng chỉnh sửa lại, mà không hề lấy
thêm tiền, dù là tượng trưng. Nhưng, về sau – Tuyên lại nghĩ, cũng phải cám ơn
chiếc đồng hồ cũ, bởi nhờ nó mà Tuyên biết thêm về cô gái – Lệ Thủy, tốt nghiệp
trường cán sự điều dưỡng Huế, đang làm việc ở bệnh viện An Bình. Cô cán sự điều
dưỡng nầy có giọng nói khe khẻ, dịu dàng – nhưng có lẽ cũng rất kỹ tính! ( nghe
cô kể về việc giữ gìn chiếc đồng hồ, khi tắm giặt, cũng như lúc đi ngủ - cũng
đủ biết…).
Theo lời giới
thiệu của Lệ Thủy – Tuyên dã tìm đến nhà thăm Thủy và mẹ nàng đang sống trong
một gian nhà tranh ở ngoại ô thị trấn. Mẹ Thủy chờ chồng từ bao năm qua, nhưng
đã phải chờ thêm đến ba năm rồi mà vẫn chưa thấy bóng hình? Ba Thủy xuống tàu
tập kết ra miền Bắc vào cuối thu năm 54
– khi nàng vừa mới được sinh ra vài tháng. Nàng lớn lên chỉ biết ba qua lời mẹ
kể, và tấm ảnh nhỏ mà bà dấu kỹ trong mấy lớp giấy nylong…
Mẹ Thủy chơn
chát, người rất thàng. Tuyên rất vui vì đã được hòa nhập vào gia đình Thủy
nhanh chóng, nhờ người mẹ luôn dành cho anh một sự ưu ái dặc biệt. Có lẽ, Tuyên
đã yêu thương Thủy – cũng bắt đầu từ nụ cười, ánh mắt – giọng nói thân tình của
mẹ nàng mối lần gặp lại anh. Một hôm bà nói – rất tự nhiên: “ Tuyên ơi! Nếu
con yêu thương con Thủy nhà bác – bác sẽ
“cho không” con, không đòi hỏi gì cả!”. Thủy có vẻ giận mẹ - nàng lườm bà sắc
lẻm, nhưng sau đó có vè gần gũi với Tuyên hơn trước.
Tuyên nghĩ đến sự
sa cơ nghèo khỏ và nhất là sự cô đọc của mình – nên chẳng bao lâu sau, đã nhờ
chị đến hỏi cưới Thủy…Cuộc tình mặn nồng kéo dài được năm năm – Thủy sinh được
hai con – một gái, một trai – là kết thúc. Thuận theo ý muốn của Thủy – Tuyên
dành cho nàng chọn nuôi cô con gái đầu; còn Tuyên nuôi cậu con trai út vừa lên
ba tuổi…
Hai mươi hai năm sau, Tuyên vào Saigon thăm con đang làm việc ở công
ty xây dựng Hoàng Phát sau khi ra trường Kiến trúc – thì bệnh tim của anh tái
phát. Huân – con trai của anh, đưa anh vào cấp cứu ở bệnh viện Tim Mạch gần nhà
lúc gần mười giò đêm. Tại căn phòng cấp cứu đặc biệt – bác sĩ Ngọc Vân đã gặp lại Tuyên!
Sau cơn nguy kịch –Tuyên đã tỉnh
lại, anh ngơ ngác nhìn, thoáng thấy Ngọc Vân, lòng vô bàng hoàng, ngạc nhiên - nhưng
không dám nhận là Ngọc Vân của gần ba mươi năm xa cách. Ngọc Vân của năm 72 anh
gặp ở khu tiếp tân Đồng Đé lòa xòa tóc ngang vai hồn nhiên, cởi mở - với Ngọc
Vân trong chiếc áo blouse tráng tóc ngắn, lặng lẽ, trầm tĩnh –có bảng tên đính
ở ngực áo, là một chăng?
Ngọc Vân vẫn tự
nhiên chăm sóc anh, dặn dò cho cô y tá trực theo dõi huyết áp, máy đo nhịp tim
đang được đeo ở cánh tay anh từng đợt mười phút. Sau khi bảo cô y tá tiêm cho Tuyên mũi thuốc ở
vai -cô yên lạng bước ra khỏi phòng…
Lúc Ngọc Vân trở lại thì Tuyên đã ngủ
thiếp…
Trước giờ thay
trực buổi sáng, Ngọc Vân đã đến xem lại bệnh án của Tuyên đêm qua – cười chúm
môi: “ Anh đã khỏe lại rồi! Nhưng trái tim anh có vấn dè đấy: Động mạch chủ bị
hẹp gần hết mức cho phep! Buổi chiều sau giờ làm việc – tôi sẽ ghé lại vậy…” –
Tuyên chưa kịp
nói gì – Ngọc Vân đã thản nhiên bước ra khỏi phòng. Tuyên băn khoăn và hoang
mang – chờ buổi chiều.
Rồi buổi chiều
cũng đã đến…
Cô y tá đưa Tuyên
đến nơi Ngọc Vân đang ngồi ở góc trái khu bệnh viện, rồi quay lại phòng trực.
Tuyên do dự ngòi trên chiếc ghế đá dài – bên cạnh Ngọc Vân.
Ngọc Vân điềm
tĩnh, thoáng nhìn Tuyên – nói như lơ đãng:
-
Sau
năm 75 anh đã sống thế nào? Tôi vẫn theo dõi anh – nhưng anh quá tệ, không đi
tìm tôi?
-
Anh
biết em ở phương nào mà tìm? Tuyên thở dài – nhìn xa xăm lên bầu trời chiều lờ
lửng mây trắng.
Ngọc Vân mở
chiếc túi xách, lấy ra một tập vở dày – và một phong bì thư lớn. Cô nhìn ngắm
mấy vật ấy trên tay giây lâu như cố níu giữ dĩ vãng – rồi đưa về phía Tuyên: “
Anh hãy xem lại những vật nầy đi! Em đã giữ chúng gần ba mươi năm rồi…”. Tuyên
giở từng trang vở, là những bài thơ được viết chăm chút, ghi dáu từ năm 1971.
72 cho đến năm 1983…”. Tuyên nhớ loáng thoáng đã có bài anh đã được đọc rất say mê trước đây trong từng
phong thư hằng tuần.
Tuyên chợt dừng
lại ở bài thơ “ Hạnh Phúc”, dược viết
vào ngày 16 tháng 7 năm 1972. bài thơ đã có thời khiến anh bang khuâng mơ
tưởng:
“thăm những vòm
cây
người
yêu dấu có đôi mắt sầu
ông bạn, nhớ
ông vô cùng
hôm qua trời
mưa em đi về miền đèo heo hút gió
những con bò
con ngựa ốm teo nhẩn nha ăn cỏ bên vệ đường
biết gì không
ông bạn, nhớ ông vô cùng
ta từng mơ
ước một đàn bò
một đàn bồ
câu, đàn ngỗng, đàn vịt, đàn gà…
ngày yên vui
nơi quê nhà
và cũng phải
có thêm chú ngựa ngoan
ta hồn nhiên
như đôi bạn nhỏ
đánh xe dạo
quanh phố phường đá sỏi
bạn huýt sáo
luôn mồm
mắt em cười long lanh
hạnh phúc lớn
lên trong lồng ngực bình thường (…) “
(..)ta về nằm ngữa
mặt nhìn trăng
đêm êm đềm
thoảng hương lúa chin
ta về, ta về
cùng nỗi nôn nao thơ dại
hạnh phúc lớn lên trong lồng ngực bình
thường
bạn yêu dấu ơi
bạn đang nghĩ gì
khi sáng mai
này
chim nhỏ bay
về đậu bờ vai hót lời mơ ước…”
Và nầy nữa, bài “ Quên Mất Thời Lẻ Loi” – viết vào ngày
2 tháng 8 năm 72 đầy ắp ước mơ và nỗi nhớ của tuổi thương yêu:
“buồn ơi xưa thăm
thẳm
em đứng khóc
một mình
đêm vô cùng vô
tận
người xa người
lặng thinh
nhớ thành phố
trăng soi
nhớ thành phố sương mờ
một góc đời bé
mọn
hẹn sẽ về mai
sau
anh hiền như
đất quê
em hiền như cỏ
dại
giòng sông xanh
bình lặng
ngước nhìn trời
chứa chan
anh sẽ về phải
không?
sao trời long
lanh khóc
lá đường đêm rã
mục
gót nhỏ nhẹ
thầm thì
thương anh và
thương em
*
anh về từ phiêu
bạt
anh về như từ mơ
em nửa đời ngóng chờ
em nửa hồn xiêu
lạc
nhìn nhau vui
chất ngất
vỡ tung bờ chia
phôi
tóc huyền xưa có
bạc
quên mất thời lẻ
loi
khờ như đôi bạn
nhỏ
chưa hề nói yêu thương
thênh thang lưng
ngựa bạch
sầu mỏng hơn tơ
vương (…)”
Phong thư lớn –
chứa những lá thư cũ mầu của chính Tuyên đã viết trong nhiều năm, những tấm ảnh
của anh một thời đây dó của tuổi trẻ…Tuyên như choáng ngợp trong vúng kỷ niệm
tràn ngập quanh anh qua hai kỷ vật mà anh không ngờ chúng vẫn còn sống bên Ngọc
Vân cho đến hôm nay.
-
Sau
năm 83, em không còn làm thơ nũa? Tuyên nhìn Ngọc Vân áy náy.
-
Sau
năm 83 – em lập gia đình rồi…
-
Cho
đến bây giờ?
-
Cho
đến năm 2005…
-
Thì… thế nào?
-
Anh
ấy đã quyết định sang định cư hẳn ở Mỹ khi gia đình bảo lãnh…
-
Sao
em không đi cùng?
-
Em
không thể rời xa mẹ em và cái thị trấn nhỏ bé nặng tình thuở xưa đã từng dõi theo
từng bước chân em và những người thân, và những bạn bè yêu quý một thời không
bao giờ quên …. Ngọc Vân chợt cười – lạnh lùng – Em quê mùa, ngu muội quá, phải
không anh?
-
Còn
các con?
-
Em
chỉ có một đúa con gái, nó không thể bỏ em…
Lúc trao lại hai kỷ vật ấy cho Ngọc Vân –
Tuyên đã bất ngờ cầm lấy tay nàng – đưa lên môi hôn: “ Ạnh xin lỗi em!”. Nàng vẫn ngồi yên. Nhìn ngắm Tuyên – với ánh
nhìn lạ lẫm như lần gặp đầu ở khu tiếp tân Đồng Đế. Hôm nay – sau gần ba mươi
năm thất lạc nhau – ánh nhìn ấy lại thêm trĩu nặng bao nỗi thương xót cho mình, cho
người.
Tuyên giữ mãi bàn tay thon thả, bàn tay ân
tình, bàn tay cứu người – giúp đời của Ngọc Vân, như chẳng bao giờ muốn buông
ra.
Buổi chiều xuống
rất thấp. Những áng mây trắng vẫn lờ lửng trên cao – Tuyên bất giác biết mình
đã tìm lại được bóng mây ngày cũ đã lưu lạc bao phen tưởng đã mù xa sương khói–
lòng anh rộn ràng ấm áp một niềm vui đã
bao năm tẻ lạnh, và cũng nhận ra rằng - đời mình vẫn còn rất nhiều diễm phúc…
Quê Nhà, tháng 6 năm 2012
MANG VIÊN LONG
-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét