Người đàn bà ngủ chợ
Hoàng Đằng
Tối tối,
khi chợ vắng người, những ngọn đèn néon thắp sáng đình chợ, một phụ nữ trạc
trên 60 ôm một bao gai trong đựng một chiếc chiếu, một cái màn, một cái chăn
đến dọn chỗ ngủ trên dãy sạp hàng quần áo. Chiếc chiếu lác sờn nhiều chỗ trải
ra trên mặt phẳng gồ ghề; cái màn căng lên ố vàng chông chênh không thẳng; cái
chăn xếp làm gối, lâu ngày không giặt, lỗ chỗ ghét bẩn.
Người buôn
bán ở chợ không lạ lùng gì người phụ nữ này, ai cũng quen biết và gọi tên là
chị Hoa.
Hoa sinh ra
và lớn lên, ở cùng với mẹ tại một làng quê ven thị trấn. Cha đi theo Việt Minh,
không có mặt ở nhà, thỉnh thoảng lén lút về với mẹ vào lúc đêm tối. Cha mẹ lấy
nhau có cưới hỏi, nhưng vì chiến tranh, Hoa vẫn xem như kết quả của những lần
ái ân không thoải mái, chớp nhoáng, vụng trộm, hồi hộp, lo sợ.
Gia đình
bên nội Hoa không còn ai cả; ông bà nội già yếu đã mất lâu lắm rồi; ông bác,
ông chú tham gia kháng chiến tử trận, cô út lấy chồng khác làng.
Thuở bé, mẹ
và Hoa ở chung với gia đình bên ngoại. Các cậu, các dì thay phiên nhau bồng bế,
chăm sóc Hoa; nhờ thế, mẹ rảnh tay đi làm, kiếm sống; mẹ theo nghề nông, quanh
quẩn với mấy công việc: gieo cấy, làm cỏ, thu hoạch ...; chân lấm, tay bùn, đầu
tắt, mặt tối.
Rồi Hoa
biết đi biết chạy, ngoại cho che một túp lều ở góc vườn, mẹ con Hoa ra ở riêng.
Mẹ Hoa một
thân một mình không làm đồng nữa, hàng ngày nấu một thúng xôi lên ngồi bán
trước cổng một đồn lính “Cộng Hòa”.
Trong thời
gian dài, mẹ lủi thủi sáng đi trưa về, buổi chiều lên chợ mua đậu, mua nếp.
Hoa lớn
dần, khi được khoảng 14, 15 tuổi, Hoa đi theo mẹ, phụ gói xôi.
Tuổi dậy
thì, hai má ửng hồng, ngực nhú căng đôi bên, miệng mỗi lần cười, hai lúm đồng
tiền sụp một đường cong dịu trên má.
Các chú
lính trẻ “Cộng Hòa” ra ăn xôi sáng, để ý, đùa giỡn, chọc ghẹo; những lúc ấy,
Hoa bẽn lẽn, má ửng hồng hơn, bàn tay run run khi thao tác, chân bước mất thăng
bằng - không vững.
Mẹ Hoa
thường nửa đùa nửa thật nói:
- Đứa mô ưng mần rể mạ thì về nhà thăm, mạ gả
con Hoa cho. Mạ không khó khăn chi mô!
Mấy chú lính
nhao nhao tranh nhau lên tiếng:
- Con xin làm rể mạ đây; rể mạ đây, mạ ơi!
Tròn 18
tuổi, Hoa lấy chồng. Chồng Hoa là trung sĩ Nghĩa, phụ trách hỏa đầu vụ (làm
bếp) của đồn lính. Nghĩa quê tận miền Tây Nam Bộ, học xong lớp Đệ Tứ (lớp 9)
thì bị động viên. Thụ huấn xong quân trường đào tạo hạ sĩ quan, Nghĩa được
chuyển đến đây, xa, rất xa gia đình.
Nghĩa tử
tế, biết lo lắng, xem gia đình nhà vợ cũng là gia đình của mình. Nghề làm bếp
giúp anh đỡ tiền ăn, tiền tiêu, anh dành dụm sửa và nâng cấp cái lều thành ngôi
nhà đàng hoàng, vách xây gạch, mái lợp ngói.
Đoạn đường
từ đồn về nhà chỉ một cây số; ngày nào, Nghĩa cũng về với Hoa ít phút; mẹ Hoa
tế nhị lắm, hễ thấy Nghĩa về, bà thân mật chào rồi lẻn qua nhà hàng xóm ngồi.
Bà biết ban đêm Nghĩa phải trực gác, việc sinh hoạt vợ chồng chỉ diễn ra ban
ngày vào những lúc tranh thủ ấy mà thôi.
Và Hoa sinh
một bé trai, mẹ Hoa đề nghị đặt tên cháu là Ân – ý là nhờ cái ơn của Nghĩa mà
bà có ngôi nhà; vợ chồng Nghĩa + Hoa đồng ý. Đứa bé sống trong tình yêu thương,
đùm bọc của ba mẹ và bà ngoại; người này bồng hôn, người kia ôm nựng.
Ngôi nhà
luôn rộ tiếng nói, tiếng cười, tiếng ru của người lớn và tiếng khóc của trẻ
thơ. Lâu lâu, Nghĩa mời đồng đội về nhà, Hoa giết gà, mua bia đãi khách. Ngà
ngà hơi men, các chú nổi hứng, đàn hát đủ loại nhạc: tình ca thời chiến, cổ
nhạc ba miền Bắc, Trung , Nam . Cảnh nhà vui nhộn ...
Chiến tranh
càng ngày càng dữ dội; bom đạn tới gần dần.
Rồi một
đêm, quân “Giải Phóng” bốn mặt tấn công, đánh chiếm thị trấn, quân “Cộng Hòa”
rút chạy. Nghĩa không biết chết, sống thế nào, và nếu sống thì giờ ở đâu, chỉ
Trời mới biết!
Mẹ con Hoa
và bé Ân ở trong vùng kiểm soát của quân “Giải Phóng”. Nhìn con, nhớ chồng, Hoa
khóc thầm. Nhìn cháu, nhớ rể, mẹ Hoa buồn quặn ruột.
Tuy nhiên,
họ nén buồn đau do mất người thân vào nội tâm, bề ngoài, họ phải ra vẻ hồ hởi
phấn khởi kẻo sợ chế độ mới đánh giá không tốt.
*
* *
Ít lâu sau,
cha của Hoa trở về sau mấy chục năm đi theo Cách Mạng ... xa cách. Ông đội mũ
cối, mặc quần áo bộ đội, mang sắc-cốt, đi dép râu, mẹ con Hoa tưởng ông là sĩ
quan bộ đội, trên đường công tác ghé thăm. Té ra không phải! Ông về và ở luôn.
Ông đi bộ
đội thời Việt Minh đánh thực dân Pháp, rồi tập kết ra Bắc. Ông chuyển ngành về
nông trường trồng cam; do tai nạn lao động, ông bị gãy xương bàn tay, hái cam
kém năng suất, nông trường cho nghỉ việc lúc tuổi còn rất trẻ - mới trên 30.
Hoa từng
nghe mẹ kể cha mình ngày xưa vui vẻ, hoạt bát. Nhờ vậy, bà đã yêu ông mê mệt.
Thế mà bây giờ trước mặt Hoa là một người đàn ông khác hoàn toàn; ông ít nói,
ai hỏi chuyện gì, ông trả lời một cách nhát gừng; ông sống không có tình cảm,
cháu ngoại đến sờ chân ông, bá lưng ông, ông nổi cáu, nạt nộ; ông cư xử với mọi
người luôn với thái độ cảnh giác – ông không tin tưởng ai hết, bốn phía, đối
với ông, người nào, cái gì cũng có thể là địch.
Ông và bà
mới ngoài 40; sống chung đụng được hơn một năm, bà sinh một bé trai. Bé sinh
quá nhỏ, sức khỏe kém, việc nuôi nấng khó khăn, ngày khóc đêm khóc. Bận chăm
con muộn và mọn, bà không đi lao động được, thu nhập gia đình giảm.
Thiếu thốn,
ông “đổ bẩn”. Bao nhiêu bực bội ông dồn vào con gái và cháu ngoại vô tội. Sáng
nào, thức dậy, ông cũng quát om sòm:
- “Con hư tại mạ, cá hư tại nước”; nuôi con không biết cách, con mới lớn đã“rực
đựng” (chắc “rước đực” nói trại ra). Đã
vậy, còn lấy thằng lính ngụy.
Rồi ám chỉ
cháu ngoại, ông cằn nhằn:
- Cái giọt máu rơi của thằng lính ngụy trong
nhà này tao không chịu nổi; mẹ con bây phải tống cổ nó gấp. Nhà ni phải toàn
“đỏ”, không màu gì được phép chen vào.
Mỗi lần
nghe cha nói vậy, hai hàng nước mắt Hoa lăn dài xuống má, đầu óc mù mờ, không
biết xử lý tương lai thế nào; còn mẹ Hoa lắc mạnh chiếc nôi cho tao nôi ẻo ẹt
lớn tiếng và hát ru thằng con muộn to giọng lên để át những điều ông nói trái
ngược, khó nghe ấy.
Kinh tế gia
đình khó khăn ... thiếu đói. Bé Ân không còn no bụng, gầy guộc, da khô đét, ghẻ
lở; đầu, khóe bàn tay, khóe bàn chân, háng ..., ghẻ lên từng lớp như những
miếng cơm cháy. Ngứa, nó khóc bứt rứt; ngôi nhà không còn tiếng cười, chỉ còn
tiếng khóc của con trẻ đầu này đầu kia, và tiếng cằn nhằn của người đàn ông.
Ngày lại
ngày, sức ép bỏ con đè nặng, Hoa băn khoăn, tìm chưa ra phương giải thoát.
Hoa đã từng
nghĩ đến việc bồng con vào quê nội cháu. Khốn nỗi, lúc cưới hỏi, người thân của
Nghĩa, vì xa xôi hay vì duyên cớ gì đó, không ai đến dự và Nghĩa cũng chỉ cho
biết quê ở Châu Đốc chứ không nói rõ làng nào, xã nào, huyện nào.
Trong thời
chiến, chú bác, mẹ con Hoa, cũng thông cảm hoàn cảnh của Nghĩa, “qua loa đại
khái” miễn sao có được thằng rể quý. Quê nội bé Ân mông lung, thiếu rõ ràng ...
Hoa làm sao tìm đến nơi được!
Hoa từng có
ý định bồng con bỏ nhà ra đi, đến đâu hay đó. Tuy nhiên, là gái nông thôn, chưa
từng đi xa, Hoa không đủ can đảm thực hiện ý nghĩ của mình.
Hoa thức
dậy, không ra khỏi giường, ngồi nhìn con ngủ; thằng bé say sưa ngủ bù vì cả đêm
nó lật mình qua về, đạp hai chân, đưa tay gãi chỗ này, cào chỗ kia. Hoa nhìn ra
khung cửa sổ, bên ngoài, mặt trời đã lên cao; trên ngọn tre sau nhà, đàn chim
sâu kêu chiêm chiếp nhảy chuyền cành - cảnh hai con chim bố mẹ đưa mấy chim con
mới “thả ràng”, tập dượt cuộc sống tự túc mưu sinh.
Hoa đang
thả hồn vào mấy chú chim, thì cha của Hoa từ ngoài xông vào, miệng thét:
- Đồ đàn bà con gái ngủ chừ mà chưa dậy, lấy
cứt họ mà ăn. Mần đị cho bọn lính ngụy quen rồi. Dậy dắt con đi khỏi nhà gấp,
không thì chỉ có đường chết với tao.
Cha của Hoa
đang cầm ngược cái chổi đót quét nhà, lia lịa đánh từ trên đầu Hoa đánh xuống.
Hoa khóc
to, tóc rủ xuống mặt, bé Ân mở mắt ra, ré khóc. Mẹ Hoa chạy lại, vừa van lạy,
vừa kéo cha Hoa ra sân. Ông bước lui, mặt hằm hằm, hai môi phập phồng, tím tái.
Hoa bồng
con đi, ra bến xe, định lên xe, nhưng không một xu dính túi. Hoa tìm đến gốc
cây, kéo xách vạt áo nhàu nát lau ráo mặt mình và mặt con. Hoa dỗ bé Ân ngồi
lại, hứa với con sẽ đi mua bánh cho nó ăn sáng. Đói bụng, đứa bé ngoan ngoãn
nghe lời. Hoa lẻn vào chỗ đông người rồi đi, mặt không nỡ ngoảnh lại và không
bao giờ trở lại với con.
Vất con
rồi, Hoa nhẹ tay. Hoa không về nhà, mà ra chợ. Hoa tìm cách mưu sinh bằng gánh
thuê, vác mướn hàng hóa nuôi sống mình qua ngày, đêm lại, ngủ trên các sạp, giữ
hàng thuê. Năm tháng trôi qua, dành giụm được một số vốn liếng, Hoa đi tìm con;
nghe tin đâu có nuôi con nuôi, Hoa cũng đến nhận diện.
Ở một làng
nhỏ vùng kinh tế mới miền núi, một bà lão đang ở với một thanh niên – người
xung quanh nói đó là con nuôi của bà.
Hoa tìm
tới, bắt chuyện, dò la. Bà lão gần đất xa trời, biết mình không ở với cậu thanh
niên lâu nữa, muốn thằng con nuôi của mình tìm lại cha mẹ đẻ của nó.
Bà sóm sém
kể lại với Hoa:
- Cách đây 15 năm, mệ, nhân chuyến đi thăm bà
con, ngang bến xe, thấy một bé trai đứng khóc sướt mướt, hỏi cha mẹ đâu, nó lúc
lắc, hỏi nhà ở đâu, nó lúc lắc, đoán nó là trẻ lạc, mệ bồng nó về nhà. Suốt mấy
ngày, mệ nhờ nhắn tin xem có ai đến nhận nó không. Không ai nhận, nó phải ở với
mệ. Lúc đầu, nó ghẻ lở đầy mình, mệ kiếm cây thuốc ngoại khoa, nấu tắm và bôi
cả năm trời nó mới lành. Lành ghẻ rồi, nó ăn mạnh lắm, nhờ rứa, nó chóng lớn.
Đến tuổi đi học, mệ gởi nó đến trường. Năm kia, nó tốt nghiệp phổ thông trung
học, mệ già yếu không đủ phương tiện cho nó thi đại học, mệ phải gởi nó đến học
nghề ở quán hớt tóc đằng kia – đầu
đường. Chừ nó ngoài quán; trưa nó mới về ăn cơm.
Nghe bà lão
kể, Hoa chắc chắn trăm phần trăm đó là con mình. Nóng lòng, Hoa muốn tới quán
ngay. Nhưng nghĩ lại, thôi, ở quán, Hoa khó giải bày sự việc để nhận nó là con.
Hoa ở lại với bà lão, chờ nó về.
Trước mắt
Hoa, hiện ra một thanh niên dong dỏng cao; hình dáng Nghĩa ngày xưa sống dậy
trong đầu Hoa. Bước vào nhà, thấy Hoa là khách lạ, cậu cúi đầu chào rồi lui vô
phía sau nhà.
Bà lão gọi
cậu ra ngồi bên bà và Hoa; Hoa cứ chằm chằm nhìn, hình như cậu khó chịu, cúi
mặt.
Bà lão chậm
rãi nói từng từ một:
- Từ trước đến giờ, mẹ nuôi con; nhưng con hãy
nhìn cô này. Cô là mẹ đẻ của con đó.
Cậu thanh
niên vung văng, vẻ mặt không bằng lòng, nói:
- Thưa mẹ, không ai được quyền nhận là mẹ đẻ
của con.
Xoay mặt
phía Hoa, cậu giận dữ lớn tiếng:
- Cô đừng đến đây nhìn bậy, cháu không phải
con đẻ của cô đâu, xin lỗi, cô ra khỏi nhà đi.
Hoa nghẹn
họng, không nói được lời nào. Trên đường về, lòng Hoa rối như tơ vò. Thấy con
rồi mà con không nhìn; có cái đau khổ nào bằng cái đau khổ này đối với một phụ
nữ!
Bây giờ,
tuổi đã cao, sức đã yếu, công việc khuân vác hết làm nổi, Hoa chỉ còn việc ngủ
giữ sạp hàng.
Trong yên
tĩnh của đêm khuya, Hoa mường tượng một lúc nào đó, một ngọn gió lạ thổi qua,
Hoa cứng chân cứng tay, nhắm mắt từ giã cõi đời ngang trái bạc bẽo này như một
kẻ vô gia cư – thậm chí như một con vật không chủ./.
02/9/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét