PHIẾM CHỮ NGHĨA MÀ CHƠI
THẾ NÀO LÀ THƠ TỤC?
Trong
giới văn học, người thích ông nầy, người ái mộ ông kia. Và,… cũng có người
chẳng ái mộ ai cả. Những người không ái mộ, không thích ai bởi họ nghĩ, có ai
bằng ta đâu mà ái, mà thích? Chẳng qua vì cái tôi của họ quá lớn, lớn hơn núi
Thái Sơn. Vậy mà ông già Nhà bác học Albert Einstein “bày đặt” triết lý, triết
liết: “Khi cái tôi quá lớn thì trí óc hẹp lại”. Trời! Nói năng gì mà
như lấy búa tạ nện vào đầu người ta, không sợ đụng chạm tùm lum, tùm la.
Cá
nhân tôi, xin nói theo chữ nghĩa Bắc Việt lan tỏa vào Miền Nam là, “GÚT LẠI”
tôi thích nhất Nhà giáo, Nhà Thơ, Nhà… Thủ Tướng, Nhà… Tổng Thống Trần Văn
Hương.
1)-
Tôi thích cụ Hương chẳng qua cụ là một Nhà thơ chịu chơi thứ thiệt, dùng ngôn
ngữ thứ thiệt, chính xác thiệt và… “xả láng sáng về sớm” cũng… thứ thiệt!
Ai
đời, một Nhà giáo liêm khiết, được sự nể trọng của nhiều tầng lớp trí thức và
quần chúng. Vậy mà khi làm thơ, Cụ hạ bút một cách rất... “oanh liệt” (trích và chép nguyên văn) xin các nhà
“đạo đức” đừng “lên án em tội nghiệp”:
“Ngồi
buồn gãi háng dái lăn tăn.
Gãi
gãi một hồi dái rối nhăng”
Đã
vậy, mà Cụ Trần còn đem “hàng độc” ra trình làng:
“Chồng
chết chưa được mãn tang
Cái LỜ nhóp nhép như mang cá thiều.”
Trời!
“Gãi háng…” thì dái nhảy “lăn tăn” cảm giác tâng tâng là trúng phóc rồi, thằng
đàn ông nào “em chả biết”, còn nói làm chi nè trời? Còn gãi để cho “dái rối
nhăng” không phải là chuyện dễ đâu nha! Muốn rối tất phải có nhiều cái trộn
chung – nhất là loại sợi, may ra mới rối được, còn dái mỗi đực rựa chỉ có một
bìu, lấy đâu kết vào nhau để rối?
Thật
khổ cho những nhà “đạo đức mồm” và, những vị giàu “kiến thức dỏm”. Nhưng, chả
ai dám lên tiếng phản đối, vì, họ ngại phản đối sẽ bị hớ chăng? Chẳng ai dám
gồng mình đưa… cái dốt mình ra. Thôi thì, ai thấy Cụ Hương viết “Lờ” thì cứ hiểu là “Lờ” cho cam… phận. Giải thích lơ tơ
mơ, trật lất sẽ bị kê tảng đá vô mồm, chẳng còn cái răng ăn…
Nhưng
nè! Một Nhà giáo, một trí thức lớn không lẽ đem chuyện “dái” và “Lờ” ra nói
nham nhở, bâng quơ, trơ trẽn như vậy sao? Cái sâu nhiệm nó ở chỗ nào? Các nhà
“đại trí thức mồm” làm sao mà hiểu được? Nhưng (lại nhưng nữa) giả sử, cụ Trần
Văn Hương không phải Nhà Giáo, chẳng phải Nhà Chánh Trị được kính nể, không
phải Nhà… Thủ Tướng, Nhà… Tổng Tống Việt Nam Cộng Hòa, liệu những câu thơ đó có
được yên với các tay “đạo đức dỏm”, “kiến thức mồm” không nhỉ!
Hay
là… ngôn ngữ, chữ nghĩa “sâu nhiệm” chỉ dành cho những vị có địa vị lớn, tiếng
tăm đầy mình?
Vin
vào thơ của cụ Trần Văn Hương, Nhà thơ Hoàng Nhật Thơ, “cải biên”:
“Ngồi
buồn gãi hang ... dái lăn tăn”
Gãi
để quên đi nổi nhọc nhằn
Ôi
kiếp thằng dân thời mẹ đ…
Cày
suốt cả đời... chẳng đủ ăn.
“Ngồi
buồn gãi háng”... gãi muôn năm
Gãi
đứng, gãi đi, gãi cả nằm
Gãi
buồn cái kiếp… “làm ông chủ”
Gãi
nát cuộc đời mãi tối tăm.
“Ngồi
buồn gãi háng”... háng đỏ hoe
Gãi
đến “chính mi” cũng phải tè
Gãi
đời rách nát, thân tơi tả
Gãi
tới không còn mảnh vải che.
“Ngồi
buồn gãi háng”... mấy ai hay
Gãi
ba-bảy-năm, gãi từng ngày
Gãi
cho ta thức, “Cu ba” ngủ
Gãi
hoài, gãi mãi ... mỏi cả tay.
“Ngồi
buồn gãi háng”... gãi rách da
Gãi
nhanh, gãi chậm, gãi tà tà
Gãi
tận đỉnh cao mòn trí tuệ
Gãi
“mừng” Trung Quốc… Quá xót xa!
“Ngồi
buồn gãi háng”... gãi lung tung
Gãi
suốt ngày đêm... gãi muốn khùng
Gãi
cho tư sản thành vô sản
Gãi
thơ, gãi thẩn, gãi mông lung...”
(xin lỗi tác giả bài thơ, người viết có
chỉnh lại vài chữ để tránh “nhạy cảm”)
Mà
nè, trong văn học, thơ tỏ thái độ như thơ của Cụ Trần Văn Hương, dù dùng chính danh,
viết trọn chữ cũng không thể bảo là thơ tục đâu nhé!
2)-
Người tôi thích thứ hai là “Lão Già… Điên” Bán Dùi = Bùi Giáng, có những câu
thơ làm đau đầu không ít những kẻ… “trí thức dỏm, đạo đức mồm”:
“Em
ơi em đẹp vô cùng
Vì
em có cái lạ lùng bên trong.” Cái lạ
lùng là cái gì ai cũng biết/hiểu. Biết/hiểu ngầm thì không có tục đâu nhé!
Hai
câu Thơ của Bùi Giáng lại “bị” anh chàng Nhà thơ, Nhà thẩn nào đó (tôi quên
tên) nối tiếp qua hình thức “cải biên” bằng cách đảo ngữ chính xác:
“Em
ơi em đẹp vô song
Vì
em có cái bên trong lạ lùng!…” Hay
thật! (cười)
Có
chuyện kể rằng, một hôm Bùi Giáng đến nhà thăm người bạn, thấy Thu Ba, Thu Bồn
đang ở đó, trà nước một lúc ông cáo từ về. Chủ nhà nói với Bùi Giáng: “Anh đến chơi, có anh Thu Bồn với chị Thu Ba
ở đây, anh làm tặng vài câu thơ cho vui”. Bùi Giáng liền ứng khẩu:
“Thu
Ba ngồi với Thu Bồn
Thu
Bồn xích lại bóp TAY Thu Ba.”
Trời!
Đọc tréo bản họng làm sao! Lục bát là thơ sáu, tám, bắt buộc yêu vận phải ăn
vần với cước vận ở trên. Ở đây câu 6, cước vận là Bồn, thì yêu vận của câu 8
phải là cùng vần ỒN, nhưng trong cơ
thể của “cụ nàng” Thu Ba có nơi nào mang vần ỒN, để Thu Bồn… bóp, ngoại trừ cái “Chành ra ba góc da còn thiếu” của Bà Chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương… Do
đó, Bùi Giáng chấp nhận làm thơ “sai luật” thay thế vần Ồn bằng vần “AY” (chữ
TAY). Tuy là TAY, nhưng người đọc
biết ý Bùi Giáng nói gì, nhưng không thể lên án Bùi Giáng làm thơ tục tĩu.
Trong
văn học, đừng để “tư duy của đỉnh cao trí tuệ” xâm nhập vào đầu óc bệnh hoạn
rồi suy nghĩ lệch lạc, rồi mắng mỏ người ta viết hay làm thơ tục tĩu. Chẳng
hạn, cụ Trạng Quỳnh nhà ta:
“Trưa
nay nắng cực ta đi đá bèo.”
Thì
cứ hiểu trời nắng quá nóng nực, ra ao tắm, trước khi tắm đá bèo chơi. Ai bảo
nghĩ bậy rồi bảo người ta viết tục, nói tục?
Nhạc
sĩ nào đó đã viết:
“Hồn lỡ sa vào đôi mắt em”. Vừa hát vừa thèm! (cười). Nhưng nhìn
quanh chẳng thấy!
3/-
Bà Hồ Xuân Hương, người tôi thích thứ ba. Trưa hè, đem ghế ra cửa ngồi, xòe cái
quạt giấy quạt phành phạch chợt kêu lên:
“Chành ra ba góc da còn thiếu,”
Quạt
phành phạch đã đời, xếp quạt lại thấy đó đùn lại một cục… như... gò nổi giữa
khe, liền hứng chí thả hồn thơ:
“Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa”
Cây Quạt # 1
Hoặc:
Mỏng dầy chừng ấy chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào cắm một cây.
Cây quạt # 2
Khi
viếng Chùa Hương Bà Chúa Thơ Nôm cảm đề:
Bầy
đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người
quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ
lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.”
Hay,
có cái nhìn chính xác, thực tế:
“Chơi
Xuân có biết xuân chăng tá?
Cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không!”
Đánh Đu
Còn
khi viếng Chùa Quán Sứ, họ Hồ hạ bút:
“Quán
sứ sao mà cảnh vắng teo,
Hỏi
thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày
kình tiểu để suông không đấm,
Tràng
hạt vãi lần đếm lại đeo”
Đến
Hang Cắc Cớ thì:
“Trời
đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm hai mảnh hõm hòm hom
Kẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn
Luồng
gió thông reo vỗ phập phòm”
Và,
trong Dệt Cửi Ban Đêm:
“Thắp
ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống nâng nâng nhắc
Một
suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ vẫn như nhau
Cô
nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ
đến ba thu mới dãi màu
Nói
về một “nhà sư” hoang dâm:
Cái
kiếp tu hành nặng đá đeo
Làm
chi một chút tẻo tèo teo
Thuyền
từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái
gió cho nên phải lộn lèo
*
“Đang
cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ
chị em ra tát nước khe.
Lẽo
đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh
đênh một ruộng bốn bờ be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve.
Mải việc làm ăn quên cả mệt,
Dạng hang một lúc đã đầy phè”
Tát
Nước
“Khen
thay con tạo khéo khôn phàm,
Một
đố giương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp,
Lách khe nước rỉ mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Thơ
Hồ Xuân Hương dẫn dụ trên đây, không hề có một chữ tục, thế mà, nhiều ông “trí
thức mồm, đạo đức giả” vớ vẩn, ấm ớ hội tề nghĩ ra cái nầy, cái kia, cái… rồi
phán thơ Bà Hồ tục tĩu. Lạ!
Trong
khi, có tục chăng - nó chỉ nằm trong tư tưởng của cá nhân người đọc.
Làm
thơ phải tạo nên một hình ảnh rõ nét, cho bài thơ thêm sinh động. Trong bài thơ
Hang Thánh Hóa, tôi thích nhất cặp luận (câu 5+6)
“Một sư đầu trọc ngồi khua mõ”. Sư thì đầu trọc, lẽ đương nhiên! Nhưng không ít những
kẻ trọc đầu, mặc áo nhà tu chưa hẳn là các vị chân tu, là vấn đề khác nha!
Còn
“Lão” Kha Tiệm Ly trong MANG GIÀY CHẬT khéo sử dụng từ từng câu, thật
hết biết!
Bành rộng hai bên để xỏ vào,
Rấn hoài mà chẳng chịu vô sâu!
Chỉ vì bờ mép còn nham nhở,
Hay tại lưỡi mèo quá khít khao?
Dây nhợ lung tung khôn thọc tới,
Miệng mồm chút xíu khó nong vào!
Không mi, nắng cực, mưa càng cực,
Nên phải trân mình cố chịu đau!
Riêng
kẻ viết bài nầy, nhìn thấy sự bát nháo, lạm phát quan chức trong cuộc đời ly
hương, không sao làm thinh được, nên phang:
Thấy
bây cứ giở trò nham nhở
Ông
đứng giữa trời lặt cỏ chơi
Thơ
tục là loại thơ mà kẻ làm thơ cố ghép chữ “gì đó” vào câu thơ để nói lên điều
mà tác giả muốn nói đến một cách thô thiển, trơ trẽn, khiến cho toàn bài thơ
không có ẩn dụ, vô nghĩa, thiếu nhạc tính. Còn cũng cùng chữ “gì đó” mà người
làm thơ muốn gởi gắm, nhắn nhủ để tỏ thái độ chính đáng qua ý thơ mạch lạc,
giàu ẩn dụ, nhạc tính dồi dào thì không thể bảo đó là thơ tục.
Atlanta,
April 29, 2015
Thai
Quốc Mưu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét