Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2016

Ảnh Lê Hoàng

PHIẾM CHỮ NGHĨA MÀ CHƠI
 THẾ NÀO LÀ THƠ TỤC?
 Thái Quốc Mưu



Trong giới văn học, người thích ông nầy, người ái mộ ông kia. Và,… cũng có người chẳng ái mộ ai cả. Những người không ái mộ, không thích ai bởi họ nghĩ, có ai bằng ta đâu mà ái, mà thích? Chẳng qua vì cái tôi của họ quá lớn, lớn hơn núi Thái Sơn. Vậy mà ông già Nhà bác học Albert Einstein “bày đặt” triết lý, triết liết: “Khi cái tôi quá lớn thì trí óc hẹp lại”. Trời! Nói năng gì mà như lấy búa tạ nện vào đầu người ta, không sợ đụng chạm tùm lum, tùm la.


Cá nhân tôi, xin nói theo chữ nghĩa Bắc Việt lan tỏa vào Miền Nam là, “GÚT LẠI” tôi thích nhất Nhà giáo, Nhà Thơ, Nhà… Thủ Tướng, Nhà… Tổng Thống Trần Văn Hương.

1)- Tôi thích cụ Hương chẳng qua cụ là một Nhà thơ chịu chơi thứ thiệt, dùng ngôn ngữ thứ thiệt, chính xác thiệt và… “xả láng sáng về sớm” cũng… thứ thiệt!

Ai đời, một Nhà giáo liêm khiết, được sự nể trọng của nhiều tầng lớp trí thức và quần chúng. Vậy mà khi làm thơ, Cụ hạ bút một cách rất... “oanh liệt” (trích và chép nguyên văn) xin các nhà “đạo đức” đừng “lên án em tội nghiệp”:

“Ngồi buồn gãi háng dái lăn tăn.
Gãi gãi một hồi dái rối nhăng”

Đã vậy, mà Cụ Trần còn đem “hàng độc” ra trình làng:

“Chồng chết chưa được mãn tang
Cái LỜ nhóp nhép như mang cá thiều.”

Trời! “Gãi háng…” thì dái nhảy “lăn tăn” cảm giác tâng tâng là trúng phóc rồi, thằng đàn ông nào “em chả biết”, còn nói làm chi nè trời? Còn gãi để cho “dái rối nhăng” không phải là chuyện dễ đâu nha! Muốn rối tất phải có nhiều cái trộn chung – nhất là loại sợi, may ra mới rối được, còn dái mỗi đực rựa chỉ có một bìu, lấy đâu kết vào nhau để rối?

Thật khổ cho những nhà “đạo đức mồm” và, những vị giàu “kiến thức dỏm”. Nhưng, chả ai dám lên tiếng phản đối, vì, họ ngại phản đối sẽ bị hớ chăng? Chẳng ai dám gồng mình đưa… cái dốt mình ra. Thôi thì, ai thấy Cụ Hương viết “Lờ” thì cứ hiểu là “Lờ” cho cam… phận. Giải thích lơ tơ mơ, trật lất sẽ bị kê tảng đá vô mồm, chẳng còn cái răng ăn…

Nhưng nè! Một Nhà giáo, một trí thức lớn không lẽ đem chuyện “dái”“Lờ” ra nói nham nhở, bâng quơ, trơ trẽn như vậy sao? Cái sâu nhiệm nó ở chỗ nào? Các nhà “đại trí thức mồm” làm sao mà hiểu được? Nhưng (lại nhưng nữa) giả sử, cụ Trần Văn Hương không phải Nhà Giáo, chẳng phải Nhà Chánh Trị được kính nể, không phải Nhà… Thủ Tướng, Nhà… Tổng Tống Việt Nam Cộng Hòa, liệu những câu thơ đó có được yên với các tay “đạo đức dỏm”, “kiến thức mồm” không nhỉ!

Hay là… ngôn ngữ, chữ nghĩa “sâu nhiệm” chỉ dành cho những vị có địa vị lớn, tiếng tăm đầy mình?

Vin vào thơ của cụ Trần Văn Hương, Nhà thơ Hoàng Nhật Thơ, “cải biên”:

“Ngồi buồn gãi hang ... dái lăn tăn”
Gãi để quên đi nổi nhọc nhằn
Ôi kiếp thằng dân thời mẹ đ…
Cày suốt cả đời... chẳng đủ ăn.
         
“Ngồi buồn gãi háng”... gãi muôn năm
Gãi đứng, gãi đi, gãi cả nằm
Gãi buồn cái kiếp… “làm ông chủ”
Gãi nát cuộc đời mãi tối tăm.

“Ngồi buồn gãi háng”... háng đỏ hoe
Gãi đến “chính mi” cũng phải tè
Gãi đời rách nát, thân tơi tả
Gãi tới không còn mảnh vải che.

“Ngồi buồn gãi háng”... mấy ai hay
Gãi ba-bảy-năm, gãi từng ngày
Gãi cho ta thức, “Cu ba” ngủ
Gãi hoài, gãi mãi ... mỏi cả tay.

“Ngồi buồn gãi háng”... gãi rách da
Gãi nhanh, gãi chậm, gãi tà tà
Gãi tận đỉnh cao mòn trí tuệ
Gãi “mừng” Trung Quốc… Quá xót xa!

“Ngồi buồn gãi háng”... gãi lung tung
Gãi suốt ngày đêm... gãi muốn khùng
Gãi cho tư sản thành vô sản
Gãi thơ, gãi thẩn, gãi mông lung...”

(xin lỗi tác giả bài thơ, người viết có chỉnh lại vài chữ để tránh “nhạy cảm”)

Mà nè, trong văn học, thơ tỏ thái độ như thơ của Cụ Trần Văn Hương, dù dùng chính danh, viết trọn chữ cũng không thể bảo là thơ tục đâu nhé!

2)- Người tôi thích thứ hai là “Lão Già… Điên” Bán Dùi = Bùi Giáng, có những câu thơ làm đau đầu không ít những kẻ… “trí thức dỏm, đạo đức mồm”:

“Em ơi em đẹp vô cùng
Vì em có cái lạ lùng bên trong.” Cái lạ lùng là cái gì ai cũng biết/hiểu. Biết/hiểu ngầm thì không có tục đâu nhé!

Hai câu Thơ của Bùi Giáng lại “bị” anh chàng Nhà thơ, Nhà thẩn nào đó (tôi quên tên) nối tiếp qua hình thức “cải biên” bằng cách đảo ngữ chính xác:

“Em ơi em đẹp vô song
Vì em có cái bên trong lạ lùng!…” Hay thật! (cười)

Có chuyện kể rằng, một hôm Bùi Giáng đến nhà thăm người bạn, thấy Thu Ba, Thu Bồn đang ở đó, trà nước một lúc ông cáo từ về. Chủ nhà nói với Bùi Giáng: “Anh đến chơi, có anh Thu Bồn với chị Thu Ba ở đây, anh làm tặng vài câu thơ cho vui”. Bùi Giáng liền ứng khẩu:

“Thu Ba ngồi với Thu Bồn
Thu Bồn xích lại bóp TAY Thu Ba.”

Trời! Đọc tréo bản họng làm sao! Lục bát là thơ sáu, tám, bắt buộc yêu vận phải ăn vần với cước vận ở trên. Ở đây câu 6, cước vận là Bồn, thì yêu vận của câu 8 phải là cùng vần ỒN, nhưng trong cơ thể của “cụ nàng” Thu Ba có nơi nào mang vần ỒN, để Thu Bồn… bóp, ngoại trừ cái “Chành ra ba góc da còn thiếu” của Bà Chúa Thơ Nôm Hồ Xuân Hương… Do đó, Bùi Giáng chấp nhận làm thơ “sai luật” thay thế vần Ồn bằng vần “AY” (chữ TAY). Tuy là TAY, nhưng người đọc biết ý Bùi Giáng nói gì, nhưng không thể lên án Bùi Giáng làm thơ tục tĩu.

Trong văn học, đừng để “tư duy của đỉnh cao trí tuệ” xâm nhập vào đầu óc bệnh hoạn rồi suy nghĩ lệch lạc, rồi mắng mỏ người ta viết hay làm thơ tục tĩu. Chẳng hạn, cụ Trạng Quỳnh nhà ta:

“Trưa nay nắng cực ta đi đá bèo.”

Thì cứ hiểu trời nắng quá nóng nực, ra ao tắm, trước khi tắm đá bèo chơi. Ai bảo nghĩ bậy rồi bảo người ta viết tục, nói tục?

Nhạc sĩ nào đó đã viết:

“Hồn lỡ sa vào đôi mắt em”. Vừa hát vừa thèm! (cười). Nhưng nhìn quanh chẳng thấy!

3/- Bà Hồ Xuân Hương, người tôi thích thứ ba. Trưa hè, đem ghế ra cửa ngồi, xòe cái quạt giấy quạt phành phạch chợt kêu lên:

Chành ra ba góc da còn thiếu,”

Quạt phành phạch đã đời, xếp quạt lại thấy đó đùn lại một cục… như... gò nổi giữa khe, liền hứng chí thả hồn thơ:

Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa” 
                                 Cây Quạt # 1
Hoặc:

Mỏng dầy chừng ấy chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào cắm một cây.
                                     Cây quạt # 2

Khi viếng Chùa Hương Bà Chúa Thơ Nôm cảm đề:

Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.”
                    
Hay, có cái nhìn chính xác, thực tế:

“Chơi Xuân có biết xuân chăng tá?
Cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không!
                               Đánh Đu

Còn khi viếng Chùa Quán Sứ, họ Hồ hạ bút:

“Quán sứ sao mà cảnh vắng teo,
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình tiểu để suông không đấm,
Tràng hạt vãi lần đếm lại đeo

Đến Hang Cắc Cớ thì:

“Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm hai mảnh hõm hòm hom
Kẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm”

Và, trong Dệt Cửi Ban Đêm:

“Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống nâng nâng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ vẫn như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu

Nói về một “nhà sư” hoang dâm:

Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Làm chi một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
                     *
“Đang cơn nắng cực chửa mưa tè,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve.
Mải việc làm ăn quên cả mệt,
Dạng hang một lúc đã đầy phè”
                                         Tát Nước

“Khen thay con tạo khéo khôn phàm,
Một đố giương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp,
Lách khe nước rỉ mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am.

Thơ Hồ Xuân Hương dẫn dụ trên đây, không hề có một chữ tục, thế mà, nhiều ông “trí thức mồm, đạo đức giả” vớ vẩn, ấm ớ hội tề nghĩ ra cái nầy, cái kia, cái… rồi phán thơ Bà Hồ tục tĩu. Lạ!

Trong khi, có tục chăng - nó chỉ nằm trong tư tưởng của cá nhân người đọc.

Làm thơ phải tạo nên một hình ảnh rõ nét, cho bài thơ thêm sinh động. Trong bài thơ Hang Thánh Hóa, tôi thích nhất cặp luận (câu 5+6)

“Một sư đầu trọc ngồi khua mõ”. Sư thì đầu trọc, lẽ đương nhiên! Nhưng không ít những kẻ trọc đầu, mặc áo nhà tu chưa hẳn là các vị chân tu, là vấn đề khác nha!

Còn “Lão” Kha Tiệm Ly trong MANG GIÀY CHẬT khéo sử dụng từ từng câu, thật hết biết!

Bành rộng hai bên để xỏ vào,
Rấn hoài mà chẳng chịu vô sâu!
Chỉ vì bờ mép còn nham nhở,
Hay tại lưỡi mèo quá khít khao?
Dây nhợ lung tung khôn thọc tới,
Miệng mồm chút xíu khó nong vào!
Không mi, nắng cực, mưa càng cực,
Nên phải trân mình cố chịu đau!

Riêng kẻ viết bài nầy, nhìn thấy sự bát nháo, lạm phát quan chức trong cuộc đời ly hương, không sao làm thinh được, nên phang:

Thấy bây cứ giở trò nham nhở
Ông đứng giữa trời lặt cỏ chơi

Thơ tục là loại thơ mà kẻ làm thơ cố ghép chữ “gì đó” vào câu thơ để nói lên điều mà tác giả muốn nói đến một cách thô thiển, trơ trẽn, khiến cho toàn bài thơ không có ẩn dụ, vô nghĩa, thiếu nhạc tính. Còn cũng cùng chữ “gì đó” mà người làm thơ muốn gởi gắm, nhắn nhủ để tỏ thái độ chính đáng qua ý thơ mạch lạc, giàu ẩn dụ, nhạc tính dồi dào thì không thể bảo đó là thơ tục.

Atlanta, April 29, 2015
Thai Quốc Mưu


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét