5. CẢI LƯƠNG XƯA VÀ NAY.
Kha Tiệm Ly
Vào những thập niện 60,70, có
lẽ là thời hoàng kim của cải lương. Bấy gời đó là món ăn tinh thần được yêu
chuộng nhất, vượt trội hơn cả ca nhạc và thoại kịch. Vé chợ đen luôn có mặt ở
tại cửa rạp với giá có khi gấp đôi, mà người xem vẫn chấp nhận. Hiện tượng “mua
dàn” thường xãy ra, vì người “mua dàn” cầm chắc tiền lời trong tay!
Tại sao cải lương thời ấy lại
được yêu chuộng như vây?
Thứ nhất là đào kép có thực
tài, diễn xuất nhập vai, ca hay, múa giỏi; và có thể nói là khá gần gũi với
quần chúng.
Những nghệ sĩ nầy đã được
quần chúng ái mộ, và đã phong cho họ những mỹ danh xứng đáng với tài năng của
họ. Đó là “Đệ nhất danh ca miền nam” cho Út Trà Ôn; “Sầu nữ” cho Út Bạch Lan;
“Cải lương chi bảo” cho Bạch Tuyết; “Thanh sắc vẹn toàn” cho Thanh Nga; “Tiếng
ca huyền diệu” cho Minh Cảnh…
Thứ hai là nhờ nhiều soạn giả
tài hoa, mang nhiều tâm huyết, đã cho ra
nhiều kịch bản (vở tuồng) xuất sắc, nội dung khai phóng, gây ấn tượng
mạnh cho người xem. Những vở tuồng đó như đã hoà theo máu, lưu thông trong
huyết quản của ngưòi xem, mà cho đến tận hôm nay, mọi người còn nhắc nhở, lưu
luyến; thậm chí có người thuộc lòng một
vài đoạn trong những vở tuồng ấy!
Đó là Hà Triều Hoa Phượng với
Tấm Lòng Của Biển, Nửa Đời Hương Phấn, Tuyệt Tình Ca (viết chung với Ngọc
Điệp)…. và nhất là Con Gái Chị Hằng. Vở nầy đã diễn suốt 21 đêm liên tục tại
rạp Nguyễn Văn Hảo (Rạp Công Nhân bây giờ)! Đó là Thu An với Nắng Chiều Trên
Sông Dịch, Hai Chiều Ly Biệt, Lá Của Rừng Xanh; Đó là Qui Sắc với Người Vợ
Không Bao Giờ Cưới, Khi Rừng Mới Sang Thu… ; Đó là Nguyên Thảo với Tâm Sự Loài
Chim Biển…vv…
Những nhân vật của những vở
tuồng ấy đã “bình dân hoá” trong quảng đại quần chúng: Người ta đã gán tên
những nhân vật trong vở tuồng cho những ai ngoài đời có những hoàn cảnh tương
tự, như “Phà Ca” (Trong Người Vợ Không
Bao Giờ Cưới), “Áo Vũ Cơ Hàn” (Trong Tâm Sự Loài Chim Biển), “Ông Cò Quận Chín”
(Trong Tuyệt Tình Ca)…
Tuồng tích đã hay, mà “văn
chương” trong các vở tuồng cũng được các soạn giả trao chuốt kĩ càng; lại được
đưa vào nhạc, nó càng bóng bẩy, dịu êm, làm người xem/ nghe mê mệt:
“Lòng hẹn lòng, khi chia tay,
như xé nát tâm hồn ai.
Trời lạnh lùng, mây cô đơn,
buồn giăng khắp miền quan tái…” (Mắt Em Là Bể Oan Cừu).
Hay:
“.....Thì chị cũng sẽ về với em,
Để mừng ngày em xuất giá.
Cho vui lòng ba với má,
Chị cũng nở mặt nở mày với lối xóm bà con...” ( Nửa Đời Hương Phấn).
Những bài ca như vậy, đến nay đã hơn bốn mươi năm mà vẫn còn người thuộc
lòng, thường hát!
Lại có những lời văn đẹp như một bài thơ:
“Mới đầu hôm mà tóc ta bạc gần nửa mái,
Mới đầu hôm mà rượu cạn mấy mười ly.
Mới đầu hôm mà sự thế đổi thay,....” (Thuyền Ra Cửa Biển)
Hơn thế nữa, có những câu xứng đáng là danh ngôn:
“Thà ngu như con thiêu thân mà chết ngoài ánh sáng, cón hơn khôn như con
chuột mà chết trong ống cống” (Tấm Lòng Của Biển).
Chúng tôi nhớ, sau khi vai Tấn (Hữu Phước đóng), nói câu nầy thì cả rạp vỗ
tay rần rần; một ông ngồi kế bên buộc miệng:
“ Coi cải lương mà nghe “văn chương” không cũng đủ đồng tiền!”!
Hơn bốn mươi năm trước, khán giả còn có trình độ thưởng thức như vậy, nói
chi đến ngày nay? Xã hội càng phát triển thì tầm thưởng thức nghệ thuật của
khán giả từ đó cũng có sự đòi hỏi cao
hơn, nếu các tác giả thời nay không chịu nắm bắt điều nầy thì khó thành công,
ngược lại vô hình trung coi thường khán giả; và tất nhiên sẽ bị tẩy chay!
Sau năm 1975, vì hoàn cảnh xã hội mà món ăn tinh thần còn nhiều thiếu thốn.
Nhưng đói thì phải ăn: Các loại phim ảnh dù rẻ tiền cũng phải xếp rồng rắn để mua vé. Cải lương
lúc đó không được diễn những vở tuồng cũ, và phần lớn nghệ sĩ ưu tú “xưa” mỗi
người một nơi, hầu hết bị “rã gánh”;
Những nhân tố mới đã được thành lập với những nghệ sĩ tay nghề non choẹt, với
những vở tuồng mà nội dung đã gây nhàm chán người xem cũng được “ăn theo” một giai
đoạn, nhưng dần dần các rạp cải lương vắng khách như chợ về khuya!
Tại sao vậy? Có người bảo, cũng chỉ vì băng đĩa quá tiện lợi và rẻ tiền,
nên người ta không đến rạp nữa. Nói như vậy thì có phần thiếu thuyết phục, và
có ý bênh vực cho môn nghệ thuật đã trong giờ hấp hối nầy. Hỏi lại, dù không
đến rạp, ở nhà họ vẫn coi cải lương trên TV? Câu trả lời rất sượng sùng là...
rất, rất ít người coi! (mà người coi là những lứa tuổi già nua còn sót lại!)
Tại sao thế? Như đã phân tích ở trên. Cải lương lúc trước được ưa chuông là nhờ ba yếu tố: Diễn viên thiện nghệ, Soạn
giả tài ba, và kịch bản xuất sắc.
Cải lương ngày nay, với nghệ sĩ có người cũng có huy chương vàng nầy nọ,
nhưng lối diễn và giọng ca cũng không làm người xem vừa ý: Có một nữ nghệ sĩ
trong thời gian “thiếu thức ăn tinh thần”, cũng đã làm mưa làm gió trên sân
khấu, nhưng có bao nhiêu người mến mộ?
Bởi vì cô ta quá “điệu”, làm duyên làm dáng thái quá, khiến người coi phải “mắc
cở giùm”; hay có một nam nghệ sĩ giọng ca eo éo như con gái, diễn xuất với chân
tay cứng ngắt . Diễn viên như vậy, làm sao tồn tại với tầng lớp khán giả có tầm
mức thưởng thức như hiện nay ? Mới hay, huy
chương là một đường, thực tài lại là con đường khác!
Về soạn giả và kịch bản (thường vốn đi đôi)
thì rõ là một vấn đề đáng buồn: Chưa thấy có vở tuồng nào sau năm 75
được nhiệt liệt hoan nghênh; mà thường
thì xem qua rồi, người ta quên liền, không có chút mải mai vấn víu vào tâm thức!
Điều cần nói thêm là, người xem cải lương ngày nay lại rất bực mình về câu
vọng cổ đã bị soạn giả phá đi nét truyền thống, nhào nắn thành dị hình dị dạng:
Ca sĩ phải nổi gân cổ “nuốt” hơn một trăm chữ trước khi “xuống hò”(câu 1)! Đó
là sự chế biến lập dị, làm người ca mệt, mà người nghe/xem cũng “thấy mệt”,
thấy ngao ngán, thấy chán chường! Các soạn giả ấy đã cố tình “làm cho lạ”,
nhưng đã vô tình làm cho bản vọng cổ hết... “muồi”, vốn là sở trường của cổ
nhạc.
Cải lương càng ngày càng vắng khách, kể những người lớn tuổi ở quê, vốn là
thành phần “mê” cải lương nhất; giờ họ cũng lơ là.
Nếu tình trạng diễn viên không vừa lòng khán giả; và tuồng tích thì “có bao nhiêu đó làm hoài”, thì không bao
lâu, cải lương sẽ trút hơi tàn!
Điều bất hạnh cho cải lương là “Tre
đã tàn, mà măng chưa mọc!”
Đó là một thực tế không thể phủ nhận./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét