LÁ THƯ ÚC CHÂU
Trang Thơ Nhạc ngày 9 March 2016
Sáng Danh Lạc Hồng - CucChinhHuan/VNCH-Việt Dzũng - Nguyệt Ánh - Gs TranNangPhung - NNS
Em đi bỏ lại con đường - Trịnh Công Sơn - Khánh Ly - Gs TranNangPhung - NNS
https://www.youtube.com/watch?v=u8psc7Y-vVE&list=PL583CD3D9A87F78C1&index=44
Gió Bấc - Phan Ni Tấn - Võ Thiện Thanh - Hương Lan - Tâm Đoan - Gs TranNangPhung - NNShttps://www.youtube.com/watch?v=u8psc7Y-vVE&list=PL583CD3D9A87F78C1&index=44
Tình thân,
......................................................................................................................
(i) Ls Trịnh Hội: Vĩnh biệt bác Nguyễn Ngọc Bích
Tôi đang ngồi trên chuyến bay của hãng hàng không Philippines bay đến London.
Còn bác Bích, chính xác hơn là thi hài của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích, thì đang bay ngược trở về Mỹ. Sau đúng ba ngày kể từ khi ông mất. Cũng trên một chuyến bay đêm như đêm nay.
Bác mất trên chuyến bay từ Istanbul đến Manila đáp xuống sân bay Ninoy Aquino International Airport vào lúc 8 giờ tối thứ năm ngày 3 tháng 3.
Giảo nghiệm trong đêm
Đã có đến hàng trăm lần tôi đưa hoặc rước người quen ở phi trường này. Đưa những thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam đi định cư sau nhiều năm bị kẹt lại tại Philippines. Rước bà con, bạn bè đến thăm tôi và tổ chức phi chính phủ VOICE mà tôi đang đảm trách. Nhưng chưa bao giờ tôi phải ra đón một người bạn, một người thân, một bậc cha chú mà tôi rất kính trọng, trong một hoàn cảnh như thế này. Chỉ trước đó một ngày bác còn email nhờ tôi in ra cho bác bài nghiên cứu mà bác đã soạn sẵn để trình bày trong hội nghị Biển Đông Việt – Phi lần thứ II mà tôi và bác là đồng trưởng ban tổ chức. Thế mà bây giờ, chỉ vọn vẹn sau 24 giờ đồng hồ, tôi phải mang xác bác đi giảo nghiệm ngay trong đêm.
Để kịp làm giấy chứng tử nội trong ngày mai là thứ sáu. Nếu làm không kịp thì khó mà có thể đem thi hài bác trở về Mỹ ngay trong tuần này theo ước nguyện gia đình bác. Ngồi trên xe từ phi trường về nhà quàn, xác của bác đã được bọc lại trong tấm bông sô trắng nằm ngay đó, tôi thật không biết phải nói gì với bác Hợi là vợ của bác cũng đang ngồi trên xe.
Lúc vừa gặp tôi và mọi người khi nãy ở phi trường bác Hợi cứ hỏi đi, hỏi lại tại sao bác Bích có thể đi mau như thế, chỉ bảo với bác Hợi là bác cảm thấy mệt, rất mệt như chưa bao giờ mệt đến thế trong đời và thế là bác mất. Có lẽ bác Hợi vẫn chưa tin là người bạn đời của bác đã mãi mãi ra đi. Theo lời bác sĩ giảo nghiệm tử thi cho biết vào rạng sáng hôm kia, bác Bích đã bị nhồi máu cơ tim (heart attack) và đã có một cái chết rất nhanh chóng, hoàn toàn không đau đớn. Âu đó cũng thật là phần phước cho riêng bác. Còn gì hơn, ở những người luôn hoạt động, luôn hướng về đất nước như bác, có được một cái chết như thế?
Chết ngay trên đường đi công tác, trên hành trình đi tìm một tương lai, một giải pháp tốt hơn cho dân tộc. Chết trong sự tiếc thương, cảm phục của nhiều thế hệ đến từ nhiều nước khác nhau trên thế giới. Từ những người Việt, bằng hữu đã quen biết bác trong nhiều thập niên qua cho đến những người Phi bác vừa mới quen năm ngoái trong hội nghị Biển Đông Việt – Phi lần thứ I.
Tôi không nghĩ có một cái chết nào có ý nghĩa hơn. Mặc dù tôi cũng biết đây là một mất mát rất lớn cho cộng đồng người Việt hải ngoại và đặc biệt là đối với bác Hợi, với gia đình bác.
Nhân cách lớn
Không dễ tìm được ở cộng đồng chúng ta một nhân cách lớn hơn bác Nguyễn Ngọc Bích. Một tài năng không chỉ liên quan đến các vấn đề văn hoá, giáo dục, dịch thuật mà còn lan toả sang cả truyền thông, tổ chức cộng đồng, và tự do, dân chủ cho Việt Nam. Và trên hết là ở tấm lòng, cách đối nhân, xử thế của bác.
Nhiều người đã biết bác từng giữ những chức vụ quan trọng gì, từ trước năm 1975 và sau này ở hải ngoại. Bác đã có bao nhiêu bài viết, sách được in, tôi không cần phải nhắc lại. Ở đây tôi muốn chia xẻ ba khoảnh khắc đã in đậm vào tâm trí của tôi mỗi khi nghĩ về bác. Nó vừa là những kỷ niệm riêng tư giữa tôi và bác, vừa nói lên một phần nào đó tính chất, con người thật của bác lúc sinh tiền.
Tôi gặp bác lần đầu tiên vào đầu thập niên 2000 khi tôi sang Washington D.C. vận động cho các thuyền nhân Việt nam được tái định cư. Điều làm cho tôi ấn tượng nhất khi vừa gặp bác là khả năng viết, nói và dịch tiếng Anh của bác. Khó tìm được một người khác ở cùng thế hệ của bác lại có khả năng Anh ngữ chuẩn như bác.
Mà hình như cả gia đình của bác đều giỏi như nhau. Vợ của bác là tiến sĩ Đào Thị Hợi cũng thế. Anh trai của bác nguyên là Tổng Giám Đốc Thông Tấn Xã Việt Nam, ông Nguyễn Ngọc Linh vẫn thường xử dụng tiếng Anh khi trao đổi với tôi. Ông từng làm tuỳ viên báo chí và thông dịch cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Một người anh trai khác, ông Nguyễn Ngọc Phách cũng là một học giả, chuyên dịch văn, thơ Việt Nam.
Đấy cũng là lý do tại sao tôi đã nhờ bác dịch hộ cho tôi cái tên ‘VOICE’, viết tắt của 5 chữ ‘Vietnamese Overseas Initiative for Conscience Empowerment’ khi nó được cho ra đời cách đây đúng 10 năm. Lúc ấy bác đã không hề ngần ngại và cho dịch ra ngay là: Sáng Kiến Thể Hiện Lương Tâm Người Việt Hải Ngoại. Cũng có thể trong tương lai chúng tôi cần sửa lại đôi chút cái tên này. Bởi lẽ bây giờ VOICE không chỉ bao gồm những người Việt hải ngoại mà còn có sự góp mặt của nhiều anh em trong nước. Nhưng tôi sẽ mãi luôn trân trọng tấm lòng và cảm tình của bác dành cho VOICE từ những ngày nó vừa mới được thành lập. Từ việc dịch thuật cho đến lúc cuối đời khi bác và cả bác gái dùng tiền túi để bay sang Phi làm việc với chúng tôi.
Điều thứ hai mỗi khi nghĩ đến bác tôi sẽ phải nhớ đến là lần cách đây hai năm tôi dắt cả ba bác, bác Huỳnh, bác Trâm và cô Liên là ba, mẹ của tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Quốc Quân và Đinh Nguyên Kha, sang Washington D.C. để vận động cho con của họ. Chính bác Bích là người đã sắp xếp cho phái đoàn gặp được Uỷ Ban Nhân Quyền Tom Lantos ở Hạ Viện Hoa Kỳ. Cũng chính bác là người sắp xếp và giúp tôi chở mọi người đến để gặp mặt cộng đồng người Việt ở Washington D.C. Mặc dù với tuổi đời và ở vị trí của bác, bác hoàn toàn không cần phải làm điều đó. Tính cách của bác Bích là thế. Luôn sẵn lòng giúp đỡ mọi người. VOICE bác cũng giúp. Những ông già, bà cả từ Việt Nam sang, chưa quen biết gì, bác cũng giúp. Bác cũng từng là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị của Boat People SOS là một tổ chức đã giúp rất nhiều thuyền nhân Việt Nam.
'Người ơi, người ở đừng về'
Nhưng khoảnh khắc mà tôi sẽ luôn nhớ mãi là cũng vào tháng này năm ngoái khi chúng tôi cùng tham dự hội nghị Biển Đông và sau đó là tĩnh hội của Họp Mặt Dân Chủ. Sau ba ngày làm việc liên tục, chúng tôi đã có một đêm văn nghệ dã chiến. Đêm hôm ấy lần đầu tiên tôi đã nghe bác hát. Hát với cái giọng Bắc rất chuẩn của bác, hát đi, hát lại câu hát: Người ơi, người ở đừng về Người ơi, người ở đừng về. Bác đã cười rất tươi trong đêm hôm ấy. Hình như bác còn đứng lên, vừa hát, vừa biểu diễn thì phải. Như thể bác được trở về thời ấu thơ trên đất Bắc.
Tôi vẫn thường nghĩ trong cuộc sống này, đôi khi không phải ta chọn cho ta một người bạn đời, hay một việc làm có ý nghĩa. Mà chính ta là người được lựa chọn. Nó vừa là một trọng trách, vừa là một nhân duyên.
Cũng có thể bác Bích đã chọn anh em chúng tôi trong VOICE để lo cho bác trong những ngày vừa qua. Để nhắn nhủ rằng con đường mang dân chủ đến cho Việt Nam sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn, và đôi khi sẽ phải hy sinh suốt cuộc đời. Nhưng chúng ta không thể bỏ cuộc. Không nên bỏ cuộc. Vì có quá nhiều người đã hết lòng vì nó. Trong đó có bác.
Nếu thật thế thì tôi phải cảm ơn bác. Con phải cảm ơn bác. Cảm ơn bác đã cho con có những kỷ niệm tuyệt vời. Cảm ơn bác đã và sẽ luôn là một nhân cách lớn. Và cảm ơn bác đã ở lại với chúng con trong ba đêm qua.Như đã hứa trước linh cữu, chúng con sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Vĩnh biệt bác. Nguyễn Ngọc Bích 26.7.1937 – 3.3.2016
***Từ Thức: Gs Nguyễn Ngọc Bích từ trần, một thư viện vừa cháy
Tin anh Nguyễn Ngọc Bích từ trần khiến bạn bè của anh- rất đông- sững sờ. Một người gần 80 tuổi thọ (anh sinh năm 1937 ) ra đi là chuyện thường tình, một tin buồn, nhưng một tin buồn đến hàng tuần, hàng tháng. Sinh, bệnh, lão tử là lẽ trời. Nhưng tin anh Bích ra đi khiến người ta bàng hoàng, bởi vì anh là người lúc nào cũng hăng say hoạt động, lúc nào cũng tươi cười, lúc nào cũng lạc quan, lúc nào cũng ân cần, khiến người ta nghĩ anh sẽ không bao giờ ra đi, hay sẽ là người cuối cùng ra đi. Người ta không tin chuyện anh ra đi, bởi vì không muốn tin, bởi vì hy vọng đó chỉ là tin đồn vô căn cứ.
Anh Bích ra đi thảnh thơi như anh đã đến, đã sống. Trên máy bay từ Washington D.C đi họp về biển Đông ở Phi Luật Tân, ngày 03 tháng Ba, anh thấy mệt, nằm nghỉ, 15 phút sau ra đi, vĩnh viễn. Một người bạn nói nghe tin anh mất thật buồn, nhưng nghĩ lại, thấy cũng an ủi, anh ra đi không đau đớn, bên cạnh chị Bích, người vợ cũng là người bạn đồng hành, đồng chí , là một cái chết rất thảnh thơi . Cũng như Molière chết trên sân khấu, anh Bích ra đi trên đường hoạt động. ( Sự thực, chuyện Molière chết trên sân khấu chỉ là huyền thoại , ông ta chết trên giường, ngon lành.) Anh Bích ra đi trên đường hoạt động, chắc anh cũng không mong một cách ra đi đẹp hơn. Tôi vẫn nói giỡn: anh là ‘’người cứu nước full time ‘’. Một người ăn cơm nhà, vác ngà voi không ngừng, không nghỉ, không biết mệt. Có những người Việt chỉ túi bụi làm giầu, hỳ hục đuổi dollars, chuyện đất nước phó mặc thiên hạ ; có những người cứu nước cuối tuần, có người tham gia việc nước năm thì mười họa, cho khỏi áy náy; anh thuộc thiểu số những người suốt ngày, suốt năm chỉ lo chuyện chung. Có người hoạt động vì háo danh, ham quyền, anh hoạt động vì là chuyện phải làm, không thể chắp tay đứng nhìn. Không chờ đơị gì, không trông mong gì . Có người gọi anh là ‘’Mister Yes ‘’, anh nghe, cười xoà, vui vẻ. Mister Yes vì anh không biết từ chối, ai nhờ làm gì anh cũng nhận, công việc gì khó khăn người ta đổ lên vai, anh cũng vác. Chữ NO không có trong tự điển của giáo sư Bích. Mấy năm trước, một nhóm anh em muốn giúp một nữ sinh trong nước, nổi tiếng vì bị nhà nước đày đọa chỉ vì có lòng với đất nước. Chuyện đầu tiên là giúp cô học Anh ngữ qua điện thoại. Ai lo được chuyện đó? Tiện nhất là trao cho một ông đã bận bù đầu là ông Bích. Anh và chị vui vẻ nhận, lo chu đáo, thỉnh thoảng báo cáo anh em về kết quả của việc làm.
Anh Bích là một người ôm đồm nhiều chuyện, vì anh thiện chí cùng mình, nhưng cũng vì anh có nhiều tài. Anh là trí thức, nhà ngoại giao, nhà giáo, nhà báo, nhà nghiên cứu và học giả. Nhà báo, anh là Tổng Giám Đốc cuối cùng của Việt Nam Thông Tấn Xã của Việt Nam Cộng Hoà, cựu giám đốc chương trình Việt ngữ của đài RFA ở Hoa Kỳ. Nhà giáo, anh đã cùng chị Hợi, người bạn đời của anh, về VN mở Viện Đại học Cửu Long ( 1972 ). Trí thức, anh tốt nghiệp Princeton, thông thạo Pháp ngữ ( học trường Pháp Chasseloup Laubat ), Anh ngữ ; biết nói tiếng Nhật. Một lần, đi gặp dân biểu Đức ở Berlin để vận động cho dân quyền ở VN, Anh đứng dậy phát biểu. Tôi nghĩ anh sẽ nói tiếng Anh, hay tiếng Việt để anh em địa phương dịch , nhưng anh nói tiếng Đức. Anh có trình độ cao về chữ Hán chữ Nôm. Anh học tiếng Tây ban Nha ở Madrid, học tiếng Nga, tiếng Tầu. Ngôn ngữ nào anh cũng thông thạo. Nhất là ngôn ngữ , văn hoá Việt. Đó không phải là chuyện đương nhiên, vì có nhiều vị thông thạo văn hoá Tây, Tầu nhưng văn hoá dân tộc thì mù tịt. Thỉnh thoảng nhận được cái mails của anh, nói câu thơ đó cậu chép sai, chữ đó phải viết g, không phải d, y thay vì i.. Anh là một cuốn tự điển biết đi , cái gì cũng biết . Và biết tới nơi tới chốn. Théc méc chuyện gì, chỉ việc tra tự điển sống là ông Bích. Ngạn ngữ Phi Châu : ‘’ mỗi lần một người già từ trần là một thư viện bị cháy ‘’. Trên chuyến máy bay TK086 Washington DC-Manila, hai ba cái thư viện , trong 15 phút, trở thành tro bụi.
Một chiến sĩ văn hóa
Là học giả, anh đã nghiên cứu, viết báo, viết sách, thuyết trình về đủ mọi đề tài. Anh là học giả thứ thiệt, cuả lạ ở VN, bên cạnh những học giả giả, trí thức cà chớn, nhan nhản trong xã hội Việt Nam, trong nước cũng như hải ngoại. Với người Việt, trở thành học giả dễ hơn trở thành thợ hớt tóc, hay đầu bếp biết nấu sườn xào chua ngọt. Chỉ cần thuổng vài trang nơi này, cầm nhầm vài đoạn nơi kia, in một cuốn sách tào lao, vô thưởng vô phạt là một sớm một chiều vỗ ngực trở thành học giả.
Anh là tác giả nhiều cuốn sách bằng Anh ngữ, Việt ngữ . Anh , chị chủ trương nhà xuất bản miền Đông Hoa kỳ cùng với chị Trương Anh Thụy, in sách của tác giả trong cũng như ngoài nước. Anh dịch thơ Việt Nam ( thí dụ thơ Nguyễn Chí Thiện ) ra Anh Ngữ, dịch thơ ngoại quốc, kể cả một kho tàng văn hoá xa lạ với người VN là thơ Iran sang Việt Ngữ. Anh là cái cầu bắc giưã những dòng văn hoá. Anh viết North VN : Backtracking on socialism ( 1975 ) để người ngoại quốc hiểu thực chất chiến tranh VN. Anh viết A Thousand years of Vietnamese Poetry ( Knopf.NY 1975 ) , xuất bản War and Exil : A Vietnamese Anthology ( 1969 ), in sách về văn hoá Việt, kiến trúc Việt, hội hoạ Thái Tuấn, nghệ thuật chụp hình Trần Cao Lĩnh, về chữ Nôm, để người ngoại quốc và giới trẻ Việt sinh ở hải ngoại thấy VN không phải chỉ là một bãi chiến trường. VN không phải chỉ là phở và chả giò. Anh dịch sách báo ngoại quốc ,muốn người Việt mở mang kiến thức, đón nhận tinh hoa văn hoá của thế giới. Vì ý thức rằng muốn xây dựng đất nước, phải nâng cao dân trí. Phát triển văn hoá là bám vào rễ để vươn ra.
Anh Bích là một người hoạt động chính trị, vì đó là bổn phận một người dân trong một giai đoạn cực kỳ đen tối của đất nước, nhưng ý thức được vai trò vô cùng quan trọng của văn hoá . Một người như vậy cực hiếm, và rất cần cho VN. Vì thường thường, những người hoạt động ít có ý thức văn hoá, những người làm văn hoá có thói quen ngồi trong tháp ngà, nhiều khi vì lười, hay vì nhát. André Malraux nói ông ta đã gặp nhiều lãnh tụ, nhưng hai người ông ta nể nhất là Chu Ân Lai và Nerhu, vì họ là những nhà chính trị nhưng có văn hoá . Nói chuyện chính trị với họ khác hẳn nói với những người khác. Khác với những người chỉ hùng hổ chống Cộng bằng miệng, quá khích, thiển cận ( những người càng chống, Cộng Sản càng mạnh ) hay những người chỉ lo chuyện xa vời, nhắm mắt trước thực tế, anh Bích hoạt động tích cực, tả xung hữu đột, nhiều khi đơn thương độc mã, nhưng luôn luôn đóng góp vào việc xây dựng nền móng cho một xã hội lành mạnh, bởi vì không thể nào có một đất nước phú cường nếu không có một văn hoá tốt đẹp. Anh tổ chức hội nghi về biển Đông với nhóm Voice và Họp mặt Dân Chủ, gõ cửa báo chí và chính trị gia Hoa kỳ , báo động về vi phạm nhân quyền ở VN, tiếp tay với nhóm Lao Động Việt, để giúp nhân công Việt Nam bị bán ra ngoài hay bị đàn áp ở VN. Ai cần tiếp tay, ới một tiếng, có ông Bích .
Anh muốn bắc cầu, lấp hố. Giữa người Việt và người ngoại quốc là những cái hố, không ai hiểu ai. Giưã người VN với nhau , cái hố còn sâu hơn nưã, giuã người già người trẻ, người CS người quốc gia, người Nam người Bắc. Anh sẵn sang cộng tác với bất cứ ai, già trẻ, Nam Bắc, Công giáo, Phật Giáo. Gặp anh năm phút, có cảm tưởng như đã quen anh từ lâu. Anh gia nhập Hội Nhà Báo Độc Lập để bắc cầu với anh em trong nước. Những người tranh đấu cho dân chủ từ trong nước ra, từ các nơi về Mỹ, ai cũng được anh tiếp đón tận tình. Một người bạn nói anh Bích có tâm Phật. Anh không biết đố kỵ, ghen ghét, hận thù, ai cũng là bạn. Anh bất đồng ý kiến với nhiều người, nhưng không nói xấu ai, không đả kích người khác. Năm ngoái, ngồi nói chuyện với vài anh em tới dự cuộc họp mặt về biển Đông lần đầu ở Manila, Phi luật Tân, tôi nói đuà “ chỉ cần nhìn anh Bích cũng biết tại sao Cộng Sản nó thắng, mình thua dài dài “. Anh hỏi tại sao ? “ Bởi vì CS nó gian ác, mà anh thì hiền lành quá, ai cũng tin, ai cũng cho là người tốt. Thua là phải ’’. Anh cười xòa, vui vẻ. Quả thực, anh chỉ thấy cái tốt ở những người khác. Chỉ thấy cái khía cạnh tích cực, lạc quan của người và việc. Không có vấn đè, chỉ có giải pháp. Anh không thù oán ai. Kể cả những người đã xuyên tạc, đả kích anh trên Internet. Một người bạn than phiền vì bị thiên hạ đánh, bịa chuyện bôi xấu, tôi nói : để ý làm gì ba cái vặt ấy, đến như ông Bích mà người ta cũng không tha. Nếu không, nước mình đã khá từ lâu rồi. Tôi tiếc đã không nói với anh Bích một điều mà tôi nghĩ, từ lâu : cái nước VN nó lận đận, thê thảm như vậy, bởi vì những người như anh, ít quá.
Sayonara
Người Pháp nói, chua chát : C’est toujours les meilleurs qui partent en premier. Bao giờ những người tốt vẫn ra đi trước thiên hạ. Anh ra đi, trong khi nhiều tên ăn hại, bán nước vẫn sống nhăn , làm khổ dân, làm tiêu tan đất nước. Anh ra đi, bỏ lại ngổn ngang bao nhiêu dự án, chắc sẽ không có ai cáng đáng. Ít có ai làm việc nước full time, ít có người trước những vấn đề mênh mông mà không có lúc nản lòng. Người như vậy hiếm quá, anh Bích ạ. Bây giờ, anh đi rồi mới thấy rõ điều đó.
Adieu, anh Bích. Chào anh vĩnh biệt. Hay đúng ra Sayonara, chỉ là một lời tạm biệt. Tạm biệt, bởi vì nơi anh đến, sớm muộn gì anh em cũng gặp lại. Ở đó, chắc anh đã gặp lại những người bạn đồng hành đã cùng anh vác ngà voi, những Nguyễn Tự Cừờng, Ngô Vương Toại, Nguyễn Minh Diễm, Nguyễn Xuân Phước..những người bạn tốt, những công dân mà nước Việt có thể hãnh diện, đã ra đi trước anh. Tạm biệt, bởi vì anh vẫn sống mãi trong lòng những người ở lại. Không ai quên mái tóc bạc, nụ cười thường trực, những cái vỗ vai thân thiện , tiếng hát và gịọng ngâm thơ sang sảng của anh, những buổi tranh luận sôi nổi nhưng thân thiện, những cuộc trao đổi với anh sau đó người ta thấy mình thông minh hơn . Sayonara, anh Bích. (tt - Paris, tháng 3/2016 - © Đàn Chim Việt)
*** Nguyễn Khanh (RFA): Tiểu sử Gs Nguyễn Ngọc Bích
Sinh năm 1937 tại Hà Nội, lớn lên tại Sài Gòn, năm 1954 ông Nguyễn Ngọc Bích sang Mỹ du học theo chương trình học bổng Fulbright, tốt nghiệp ngành khoa học chính trị tại Đại học Princeton University năm 1958. Sau biến cố 30/4/1975, ông cùng gia đình rời Việt Nam sang Mỹ, và định cư tại tiểu bang Virginia (Trần Trung Đạo: Như giáo sư kể lại, ngày 19 tháng Tư 1975 ông lên đường sang Mỹ cùng phái đoàn VNCH để tìm viện trợ nhưng thất bại. Dù biết sớm muộn miền Nam cũng mất, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích vẫn trở về. Chuyến bay trở về Việt Nam gần 30 tháng 4 chỉ có hai người Việt, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng và Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích. Trở về nhưng rồi phải ra đi trong đêm 30 tháng Tư khi ngọn đèn tự do của Sài Gòn vừa tắt).
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích từng có thời gian giảng dạy tại các đại học George Mason (1979-89), Trinity College (1979-81) và Georgetown University (1980-86). Ông được Tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush (Bush cha) chỉ định vào chức Quyền Tổng giám đốc Giáo dục Song ngữ trên toàn quốc (1991-93). Ông là Giám đốc đầu tiên của Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do RFA từ ngày thành lập cho đến lúc về hưu năm 2003.
Ngoài dạy học và làm truyền thông, ông Bích cũng còn là một nhà biên khảo và dịch-giả có uy tín về văn thơ VN. Trong những sách nổi tiếng của ông phải kể: A Thousand Years of Vietnamese Poetry (“Một nghìn năm thi ca VN,” Knopf, 1975), A Mother’s Lullaby (dịch Trường Ca Lời Mẹ Ru của Trương Anh Thuỵ, Cành Nam, 1989), War & Exile: A Vietnamese Anthology (“Chiến-tranh và Lưu Đày: Tuyển-tập văn-học hiện-đại của VN,” Văn-bút Miền Đông, 1989), dịch thơ Nguyễn Chí Thiện (Ngục Ca / Prison Songs, VICANA, 1982; Hoa Địa Ngục / The Flowers of Hell và Hạt Máu Thơ / Blood Seeds Become Poetry, cả hai do Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ xb, 1996), và Cung Oán Ngâm Khúc / Complaints of an Odalisque, dịch thơ Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều (Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2006).
GS Nguyễn Ngọc Bích đã có công trong việc việc hiệu đính thơ Hồ Xuân Hương: Tác-phẩm (Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2000), ông cũng đã dịch hai cuốn sách về mỹ-thuật VN, Vietnamese Architecture (Sứ-quán VNCH tại Mỹ, 1972) và An Ocean Apart: Contemporary Vietnamese Art from the United States and Vietnam (“Nghìn Trùng Xa Cách,” Smithsonian, 1995) cũng như giới-thiệu thơ Ba-tư trong cuốn Omar Khayyam: Thơ và Đời (Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2002).
(ii) Gs-Ts Nguyễn Đình Cống: Nhìn lại cuộc đời đi theo ĐảngSinh năm 1937 tại Hà Nội, lớn lên tại Sài Gòn, năm 1954 ông Nguyễn Ngọc Bích sang Mỹ du học theo chương trình học bổng Fulbright, tốt nghiệp ngành khoa học chính trị tại Đại học Princeton University năm 1958. Sau biến cố 30/4/1975, ông cùng gia đình rời Việt Nam sang Mỹ, và định cư tại tiểu bang Virginia (Trần Trung Đạo: Như giáo sư kể lại, ngày 19 tháng Tư 1975 ông lên đường sang Mỹ cùng phái đoàn VNCH để tìm viện trợ nhưng thất bại. Dù biết sớm muộn miền Nam cũng mất, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích vẫn trở về. Chuyến bay trở về Việt Nam gần 30 tháng 4 chỉ có hai người Việt, Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng và Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích. Trở về nhưng rồi phải ra đi trong đêm 30 tháng Tư khi ngọn đèn tự do của Sài Gòn vừa tắt).
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích từng có thời gian giảng dạy tại các đại học George Mason (1979-89), Trinity College (1979-81) và Georgetown University (1980-86). Ông được Tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush (Bush cha) chỉ định vào chức Quyền Tổng giám đốc Giáo dục Song ngữ trên toàn quốc (1991-93). Ông là Giám đốc đầu tiên của Ban Việt Ngữ Đài Á Châu Tự Do RFA từ ngày thành lập cho đến lúc về hưu năm 2003.
Ngoài dạy học và làm truyền thông, ông Bích cũng còn là một nhà biên khảo và dịch-giả có uy tín về văn thơ VN. Trong những sách nổi tiếng của ông phải kể: A Thousand Years of Vietnamese Poetry (“Một nghìn năm thi ca VN,” Knopf, 1975), A Mother’s Lullaby (dịch Trường Ca Lời Mẹ Ru của Trương Anh Thuỵ, Cành Nam, 1989), War & Exile: A Vietnamese Anthology (“Chiến-tranh và Lưu Đày: Tuyển-tập văn-học hiện-đại của VN,” Văn-bút Miền Đông, 1989), dịch thơ Nguyễn Chí Thiện (Ngục Ca / Prison Songs, VICANA, 1982; Hoa Địa Ngục / The Flowers of Hell và Hạt Máu Thơ / Blood Seeds Become Poetry, cả hai do Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ xb, 1996), và Cung Oán Ngâm Khúc / Complaints of an Odalisque, dịch thơ Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều (Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2006).
GS Nguyễn Ngọc Bích đã có công trong việc việc hiệu đính thơ Hồ Xuân Hương: Tác-phẩm (Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2000), ông cũng đã dịch hai cuốn sách về mỹ-thuật VN, Vietnamese Architecture (Sứ-quán VNCH tại Mỹ, 1972) và An Ocean Apart: Contemporary Vietnamese Art from the United States and Vietnam (“Nghìn Trùng Xa Cách,” Smithsonian, 1995) cũng như giới-thiệu thơ Ba-tư trong cuốn Omar Khayyam: Thơ và Đời (Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ, 2002).
Đặt vấn đề
Tôi sinh năm 1937. Nhìn lại cuộc đời 80 năm qua có liên quan đến cộng sản ( CS )tôi tạm chia thành 5 giai đoạn. 1- lúc còn nhỏ ( trước 1945 ) thỉnh thoảng nghe nói về CS, được tiếp xúc với một số đảng viên bí mật đến vận động cha tôi làm cách mạng, tôi biết và có cảm tình với CS từ đó. 2- Từ 10 đến 30 tuổi, được nghe tuyên truyền, được học và hoàn toàn tin tưởng vào CS, vào Chủ ngĩa Mác Lênin ( CNML). 3- Từ 30 đến 50 tuổi, khi đã thấy nhiều, biết nhiều, đặc biệt là qua chiêm nghiệm thực tế tôi có một số nghi ngờ về sự đúng đắn của CNML và CS. 4- Từ 50 đến 70 tuổi tôi thấy sợ vì nhiều người bị bắt bớ tù đày, bị thủ tiêu chỉ vì nói ra cái sai của CNML, hoặc bị Đảng CS nghi ngờ, vu oan giá họa. 5- Từ 70 tuổi trở đi, dần dần tôi vượt qua sự sợ hãi và dám công bố một số nhận thức, vạch ra cái sai lầm, độc hại của CNML. Tóm tắt 5 giai đoạn là : BIẾT, TIN, NGHI, SỢ, VƯỢT.
Sau khi tuyên bố ra Đảng ( tháng 2-2016) tôi nhận được nhiều bình luận, có đồng tình, ủng hộ, có phê phán, thắc mắc, có cả chửi rủa, mạt sát. Tạm bỏ qua những lời đồng tình, ủng hộ với sự thông cảm chân thành, quên đi những lời chửi rủa, mạt sát mang đầy vu khống. Tôi chỉ xin đề cập đến những lời phê phán, những thắc mắc. Những điều này mới nghe qua thì thấy có lý, chứng tỏ người viết có suy nghĩ. Tuy vậy nó có thể đúng với người này, trong trường hợp này nhưng lại không đúng với người khác, trong ttường hợp khác mà chỉ khi suy nghĩ sâu sắc, khi có chiêm nghiệm rộng rãi mới nhận ra được. Xin tóm tắt thành các vấn đề sau :
1-Lúc trẻ đã mất công phấn đấu để xin vào Đảng, đến già tại sao lại dở chứng. Mà muốn ra thì lặng lẽ xin ra, việc gì phải công khai , phải chăng là muốn nổi tiếng.
2-Khi vào Đảng đã thề trung thành trọn đời đối với Đảng, với CNML, nay quay lại phê phán CNML và từ bỏ Đảng, như vậy là phản bội lời thề.
3-Nhờ có công ơn Đảng mới được đi học, được phong giáo sư tiến sĩ, về nghỉ có lương hưu, từ bỏ Đảng là việc làm của kẻ ngu dốt , vô ơn. Mục tiêu của Đảng là xây dựng đất nước hòa bình, tự do, dân chủ, hạnh phúc, văn minh. Ra Đảng phải chăng là chống lại mục tiêu cao đẹp đó. Biết bao nhiêu người theo Đảng, hy sinh xương máu để đem lại độc lập, thống nhất, việc từ bỏ Đảng là phản bội lại ông cha, là không thực hiện “uống nước nhớ nguồn”.
4- Chủ nghĩa không sai, Đảng không sai, xã hội có một số tệ nạn chỉ là do một số cán bộ thoái hóa biến chất, tại sao không dám trực diện đấu tranh với họ mà lại làm một việc dại dột là chống Đảng.
5- Tự cho là một trí thức chân chính sao không cống hiến hết mình mà lại từ bỏ Đảng.Việc ra Đảng chỉ làm mất uy tín, bị nhiều người phỉ nhổ. Có giỏi thì lập ra tổ chức để đấu tranh, vận động và dẫn đầu biểu tình chứ chỉ “ làm anh hùng bàn phím” thì là đồ mạt hạng.
6-Ông đã 80 tuổi, nên an hưởng tuổi già bên cháu chắt, vui với chim cá, cây cảnh, dây vào chính trị làm gì. Nếu không thích chế độ Xã hội chủ nghĩa do ĐCS lãnh đạo thì cuốn xéo ra nước ngoài mà ở.
Tôi sẽ lần lượt kiểm điểm từng vấn đề, xem rằng đó là việc tự nhìn lại cuộc đời đối với Đảng CSVN. Nghĩ rằng khá nhiều bạn cùng hoàn cảnh cũng có quan điểm tương tự nên xin dùng chủ ngữ “ chúng tôi” trong một số chỗ, để ngụ ý có một số người cùng nghĩ và làm như vậy chứ không phải chỉ một mình tôi.
VẤN ĐỀ 1: Phấn đấu vào Đảng và thông báo ra Đảng.
Ngược với nhiều đảng viên khác, chúng tôi vào Đảng không nhằm đạt được quyền lợi cá nhân nào đó và không có việc phấn đấu để vào Đảng. Chúng tôi phấn đấu với mục tiêu trở thành người yêu nước chân chính, có trình độ cao về nhiều mặt, có đạo đức, có lý tưởng tốt đẹp. Mục tiêu đó cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn đảng viên. Khi tổ chức Đảng thấy cần kết nạp chúng tôi thì kết nạp mà không thì thôi. Chính vì lẽ đó mà nhiều trí thức thế hệ chúng tôi vào Đảng lúc đã là U50. Thời gian trước 1980 ( khoảng chừng) Đảng rất hạn chế kết nạp các trí thức trình độ cao, có dính dáng đến thánh phần thù địch giai cấp. Việc đó làm cho lực lượng Đảng ở các trường đại học không tương xứng với đội ngũ cán bộ khoa học và nhiệm vụ lãnh đạo công tác đào tạo. Từ 1980 về sau Đảng mới quan tâm hơn đến việc thu hút trí thức, mở rộng việc kết nạp những người xuất thân từ các thành phần bậc cao ( trong cải cách xã hội, ông bà, bố mẹ bị qui là địa chủ, phú nông, tư sản, quan lại ). Khi vào Đảng mọi người làm đơn xin, đối với chúng tôi đó chỉ là một thủ tục, chứ không phải là xin một quyền lợi, một vinh dự. Chúng tôi vào Đảng là để làm việc tốt hơn chứ không phải để có quyền lợi nhiều hơn, không nhằm đạt danh vọng hoặc vinh dự cao hơn. Đó là điều khác biệt với một số đông đảng viên khác. Điều này người ngoài ít khi nhận thấy. Những kẻ cơ hội xin vào Đảng để tìm quyền lợi hoặc danh vọng cũng như những người quen với suy nghĩ nông cạn không thể hiểu được điều đơn giản có thật vừa trình bày.
Vào Đảng để được làm việc tốt hơn, đến khi thấy vai trò đảng viên không còn tác dụng cho công việc, lại thấy quan điểm của Đảng và của cá nhân khác nhau ( kiên trì hay từ bỏ CNML) thì việc ra Đảng là chuyện bình thường, không vi phạm đạo đức, không phải là tội lỗi.
Đã có nhiều đảng viên khi nghỉ hưu đã lặng lẽ bỏ Đảng bằng nhiều cách. Đầu tiên tôi cũng định chọn cách lặng lẽ, nhưng thời gian vừa qua, khi tôi công bố một số bài phê phán CNML thì có nhiều bạn góp ý, cho rằng tôi chỉ là một thằng hèn khi một mặt phê phán CNML, mặt khác vẫn đeo bám Đảng, các bạn khuyên tôi nên từ bỏ càng sớm càng tốt. Trước đó chính tôi cũng tự thấy như vậy. Tôi công khai việc làm là có phần trả lời góp ý đó và tin là nhờ vậy mà các bài viết của tôi có tác dụng hơn. Tôi biết có nhiều đảng viên cũng đang phân vân giữa việc ở lại và ra vì chưa lường trước được hậu quả công việc. Tôi đã vượt qua sự đắn đo, sự sợ hãi, làm một phép thử để các bạn tham khảo. Tôi không làm đơn xin mà viết thông báo vì nghĩ rằng đơn xin là bị động, phải chờ đợi sự xét duyệt. Đã xin thì phải chịu sự lệ thuộc, có thể được cho hoặc không . Hơn nữa tôi không muốn làm mất thì giờ của một số cán bộ Đảng phải họp để thảo luận và xét. Thông báo chủ động hơn, tiết kiệm thời gian hơn, hiệu quả hơn. Còn muốn nổi tiếng ư ?. Không ! Tôi biết trước rằng khi công khai việc này sẽ nhận được không ít sự bất đồng, trách móc, phê phán, chửi rủa. Tôi phải chiến thắng sự sợ hãi và tâm lý an phận mới dám làm .
VẤN ĐỀ 2: Lời thề khi vào Đảng
Trong lễ kết nạp, đảng viên mới phải tuyên thệ. Lời thề thường gồm 4 nội dung : 1- Trung thành tuyệt đối với Đảng, với lý tưởng CS. 2- Học tập thấm nhuần, làm theo tư tưởng, đường lối của CNML, xem đó là kim chỉ nam. 3-Làm tốt mọi nhiệm vụ đảng viên. 4- Có liên hệ và công tác quần chúng tốt.
Đối với nhiều người khác thì lời thề ấy thường được soạn theo mẫu do Chi ủy hướng dẫn. Tôi biết trong nhiều trường hợp người ta đọc lời thề chỉ là làm cho đủ thủ tục hình thức , còn trong thâm tâm họ nghĩ khác. Khi vào Đảng tôi đã 48 tuổi và là phó giáo sư, tiến sĩ, trưởng bộ môn. Tôi không muốn làm kiểu sáo vẹt mà phải trung thực, vì vậy tôi tự soạn ra lời thề cũng gồm 4 nội dung, điều 3 và 4 gần gần như theo mẫu, còn điều 1 và 2 đã sửa theo cách khác. Xin chép lại : Điều 1- Xin thề tuyệt đối trung thành với lý tưởng và sự nghiệp giải phóng dân tộc, đấu tranh cho đất nước hòa bình, độc lập thống nhất, xây dựng xã hội tự do dân chủ, công bằng, vì sự phát triển của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Điều 2- Xin thề không ngừng học tập để nâng cao trình độ mọi mặt, nghiên cứu sâu sắc CNML, Chủ nhĩa cộng sản và con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.
Bây giờ xem lại tôi thấy đã không vi phạm, không phản bội lời thề ở chỗ nào hết. Tôi thể tuyệt đối trung thành với lý tưởng và sự nghiệp tốt đẹp chứ không thề trung thành với Đảng, bây giờ tôi vẫn trung thành với lý tưởng và sự nghiệp đó. Tôi thề nghiên cứu sâu sắc CNML, CNCS, con đường CNXH chứ không thề trung thành với những điều ấy. Chính nhờ nghiên cứu sâu sắc mà tôi phát hiện ra những sai lầm, những độc hại trong đó, thấy rồi tôi tìm cách nói lại với mọi người. Những ai cho rằng tôi đã phản bội lời thề vì họ tưởng nhầm tôi cũng đã đọc lời thề theo kiểu sáo vẹt như nhiều người khác. Mà nếu có ai đó khi được kết nạp có thề trung thành với Đảng, với CNML, bây giờ họ thấy đã bị nhầm, họ ra Đảng thì đồng thời họ có quyền xóa bỏ lời thề đã đọc, việc đó không có gì sai trái.
VẤN ĐỀ 3: Mục tiêu của Đảng, công ơn Đảng, uống nước nhớ nguồn?
Đảng tuyên truyền rằng “ Mục tiêu là xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất, dân chủ, công bằng, giàu mạnh, văn minh”. Đối chiếu vào thực tế thì thấy đó là mong ước của nhiều đảng viên, cũng là một phần mục tiêu của Đảng khi mà quyền lợi của dân tộc và của Đảng là thống nhất. Mà oái oăm thay, quyền lợi của Đảng, đặc biệt là quyền lợi của các nhóm lợi ích bậc cao trong Đảng có nhiều khi mâu thuẩn với quyền lợi dân tộc. Mục tiêu cao hơn của Đảng, mục tiêu chủ yếu là bảo vệ Đảng bằng bất kỳ giá nào, là kiên trì CNML, là giữ vững nền độc tài toàn trị. Còn mục tiêu của nhiều cán bộ từ thấp đến cao là lo thu hồi vốn bỏ ra khi chạy chức chạy quyền và làm giàu cá nhân, là lo bảo vệ lợi ích nhóm. Như vậy mục tiêu xây dựng đất nước như trên chủ yếu là để tuyên truyền, lôi kéo nhân dân đi theo. Đảng cũng bắt buộc phải nêu khẩu hiệu “ Đặt quyền lợi dân tộc lên trên”, nhưng đó chỉ là thủ đoạn tuyên truyền. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng “VN là đất nước không chịu phát triển”, rằng để phát triển đất nước thì việc đầu tiên là phải cải cách thể chế chính trị. Như vậy, việc chúng tôi vạch ra những sai lầm của CNML, của thể chế và ra khỏi Đảng không phải nhằm chống lại mục tiêu tốt đẹp xây dựng đất nước mà là chống lại những cản trở để thực hiện mục tiêu đó, chống lại sự tuyên truyền ngụy biện, chống lại sự nô dịch về tư tưởng và thông tin.
Về công ơn Đảng. Một thực tế của lịch sử là ĐCS đã độc quyền lãnh đạo và quản lý đất nước trong thời gian qua, nhưng dân tộc được hay bị cái sự ấy thì xin tạm gác lại. Chỉ xin bàn đến vấn đề đối với từng cá nhân. Rõ ràng là có một số người nhờ có Đảng mà đã thoát cảnh lầm than, trở nên ông này bà nọ. Nhưng không phải toàn bộ dân VN đều như thế. Rõ ràng là Đảng đã lãnh đạo để có chiến thắng 30 tháng 4, nhưng nói về nó Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt có câu để đời: “ Triệu người vui và triệu người buồn”. Trong cải cách ruộng đất, nhiều bần cố nông vui mừng được chia quả thực, họ rất nhớ công ơn Đảng. Trong khi có hàng vạn phú nông, địa chủ, nhân sĩ trí thức, kể cả nhiều người có công với cách mạng và kháng chiến chống Pháp bị sát hại, bị “đạp đầu xuống bùn đen vạn kiếp”. Những nhà tư sản bị tịch thu tài sản, bị đuổi đến vùng kinh tế mới, những thuyền nhân mà không ít bỏ xác giữa biển , những người của Việt Nam cộng hòa bị bắt vào các trại cải tạo, những dân oan…. Những người vừa kể không bao giờ nhờ công ơn Đảng. Mà tất cả họ đều là người Việt.
Về các giáo sư Tiến sĩ ( GSTS). Có rất nhiều người Việt trở thành GSTS, kể cả nhà khoa học lớn mà không nhờ gì đến công ơn ĐCSVN, thậm chí một số còn tích cực chống lại chủ thuyết CS, họ đang làm việc có hiệu quả khắp nơi trên thế giới. Một số trí thức lớn như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên, Trần Hữu Tước, Tôn Thất Tùng, Lương Định Của v.v… đã phục vụ đắc lực cho ĐCS thì cũng không phải nhờ Đảng họ mới có tri thức và khả năng cần thiết.
Có khá nhiều GSTS được đào tạo từ dưới chính thể của ĐCSVN. Loại trừ một số GSTS dổm, chạy được học vị, học hàm nhờ vào mưu mô, thế lực hoặc tiền bạc thì cũng có một số trở thành GSTS thứ thiệt, có trình độ là nhờ công ơn Đảng. Số người này nếu không có Đảng nâng đỡ thì chưa chắc đã học xong phổ thông chứ nói gì đến GSTS. Nhưng một số khác thì không phải như vậy.
Đảng bắt đầu mở rộng đào tạo trí thức bậc cao vào khoảng từ 1960 trở đi bằng cách gửi người sang các nước XHCN. Bắt đầu chỉ chọn các đảng viên hoặc người xuất thân từ công nông, nhưng không đủ, bắt buộc phải mở rộng cho các thành phần khác. Khi cử người đi học thì mục tiêu của Đảng không phải là ban ơn cho một ai đó mà là đào tạo cán bộ để phục vụ Đảng.Trước khi ra nước ngoài chúng tôi được học chính trị, được chỉnh huấn, được cán bộ Đảng căn dặn rất kỹ càng là đi học cũng là một nhiệm vụ quan trọng do Đảng giao, phải học tốt để về phục vụ Đảng. Như vậy việc được đi học không phải là chịu sự ban ơn, đành rằng mỗi chúng tôi đều biết ơn trong việc cụ thể này. Việc được phong giáo sư cũng chủ yếu không phải là nhờ sự ban ơn của Đảng, mà chủ yếu là do sự nổ lực hoạt động khoa học của cá nhân, ai đã từng nhận danh hiệu này một cách chính đáng đều biết rõ như vậy.
Kể cả khi bạn thực sự nhờ công ơn Đảng mới có được học vị, học hàm xứng đáng thì đức tính trung thực và lòng tự trọng không cho phép bạn làm ngơ trước những sai lầm của CNML, không cho phép bạn tự biến mình thành kẻ chỉ biết phục tùng , cúi đầu phụ họa, chỉ biết ca ngợi một chiều để giữ được miếng cơm manh áo và sự yên ổn tạm thời cho bản thân và gia đình.
Về “ uống nước nhớ nguồn” tôi đã viết và công bố bài “Những ai đã phản bội ông cha” chứng minh rằng chính một số ông cha chúng ta đã chọn sai con đường theo CNML, nay chúng ta phải sửa sai, và bọn người thực sự phản bội sự hy sinh xương máu của ông cha chính là những kẻ đang củng cố sự độc quyền toàn trị và bọn lợi ích nhóm đang cố duy trì chế độ lỗi thời để tham nhũng, để vinh thân phì gia. Về đóng góp xương máu thì gia đình tôi có 5 liệt sĩ là cha tôi và 4 người con cháu của ông. Gần đây tôi đã xây dựng được nhà thờ để thờ tự các liệt sĩ và tổ tiên. Nói rằng việc làm của chúng tôi là sự phản bội ông cha, không thực hiện việc uống nước nhớ nguồn là không đúng, là vu cáo.
VẤN ĐỀ 4: Đảng không sai, chỉ có cá nhân sai?
Một số ngườ i cho rằng CNML luôn đúng, Đảng không sai, chỉ có một số cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất làm sai. Thì đấy , ngay như chuyện tham nhũng hoặc mất dân chủ, Đảng luôn kêu gọi chống lại, thế mà nó vẫn phát triển, chỉ là do cán bộ không thực hiện mà thôi. Những người nghĩ và tin như vậy thực ra đã được nghe tuyên truyền chỉ từ một nguồn, đã bị nhồi sọ bởi những lập luận ngụy biện. Chúng tôi hồi trẻ vẫn tin như thế, nhưng rồi dần dần, được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin khác nhau và đặc biệt chiêm nghiệm từ cuộc sống thực tế, tự suy nghĩ sâu sắc một cách khoa học mới nhận ra không phải như vậy. Phần lớn những điều tốt đẹp mà Đảng nói tới chủ yếu chỉ là tuyên truyền ngụy biện, còn sự toàn trị của Đảng hàng ngày hàng giờ sinh ra và nuôi dưỡng các tệ nạn đủ thứ. Câu nói “Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời mãi xanh tươi” hoặc “Chớ cả tin vào lời người ta nói, hãy xét xem việc họ làm” đã được lịch sử nhân loại kiểm nghiệm, đúng cho mọi lý thuyết, cho mọi người, mọi tổ chức, không riêng gì cho CS.
Về các bài viết và việc làm của tôi, một số người cho là tôi cố ý chống lại ai đó ( lãnh đạo chẳng hạn), chống Đảng , chống CNML. Tự trong thâm tâm tôi không muốn chống ai cả mà chủ yếu là muốn cung cấp thông tin nhằm thức tỉnh những ai muốn tìm hiểu các quan điểm khác nhau. Còn đối với những người chỉ biết tin theo một nguồn, chỉ cố giữ chặt một quan điểm thì làm sao lay chuyển họ được. Kể ra tìm cho kỹ thì cũng có lúc tôi chống đối nhưng không chống ai cả mà là chống lại những quan điểm, những việc làm mà tôi cho là sai quy luật, là có hại cho dân tộc và nhân loại.
VẤN ĐỀ 5: Bàn về cống hiến
Đối với mỗi người cống hiến quan trọng nhất là trong việc phát triển đất nước và nhân loại. Tùy hoàn cảnh, tùy thời gian mà việc cống hiến này sẽ là tốt hơn khi ta ở trong hoặc ngoài Đảng. Trước đây thấy rằng vào Đảng sẽ có khả năng công tác tốt hơn nên chúng tôi gia nhập khi Đảng yêu cầu. Bây giờ thấy sự ra khỏi Đảng sẽ có tác dụng tốt hơn cho sự phát triển nền dân chủ của đất nước nên chúng tôi ra. Như vậy việc ra Đảng đã không làm giảm mà về khía cạnh nào đó còn làm tăng sự cống hiến, tất nhiên đó là cống hiến cho dân tộc chứ không phải là cống hiến, là hy sinh để bảo vệ những sai lầm của Đảng.
Riêng bản thân tôi, tự kiểm điểm trong cả cuộc đời cho đến bây giờ tôi đã làm việc hết sức mình để đóng góp vào sự phát triển của đất nước và đạt nhiều thành tích đáng kể, bạn bè, học trò của tôi, lãnh đạo những đơn vị và địa phương quản lý tôi đều biết rõ, tôi xin không kể ra vì đây không phải là nơi báo cáo thành tích.
Trong việc đấu tranh cho nền dân chủ, mỗi người tùy hoàn cảnh mà chọn cho mình công việc thich hợp. Việc lập tổ chức này khác, việc dẫn đầu biểu tình hoặc đi vận động việc nọ việc kia đã có nhiều người thich hợp hơn. Tôi, một giáo sư 80 tuổi, tôi chọn công việc thích hợp và không kém phần quan trọng là viết bài để thức tỉnh những ai còn ngộ nhận, những ai muốn tìm hiểu sự thật. Để làm việc đó cần trí tuệ và lòng dũng cảm, công việc cũng khá khó khăn, và làm được sẽ có lợi cho phong trào. Nếu làm như vậy mà có bị ai đó chê bai, trách móc, coi thường thì tôi cũng chấp nhận mà không có gì phải tự ái, không việc gì phải xấu hổ.
VẤN ĐỀ 6: Tuổi già và sự an nhàn
Tuổi gìa muốn được an nhàn, đó là tâm lý chung cần được tôn trọng. Nhưng có một số người già vẫn còn sức lực và trí tuệ, đặc biệt là vẫn còn nhiệt tình hoạt động giúp ích cho đời . Trong hoạt động vì độc lập tự do của đất nước, vì dân chủ và hạnh phúc của nhân dân nhiều chiến sĩ cách mạng thề phấn đấu đến hơi thở cuối cùng, nguyện trọn đời phục vụ nhân dân. Những người già như vậy càng nên được tôn trọng hơn chứ không nên tìm cách dè bỉu hoặc ngăn cản. Hồ Chí Minh có một số câu thơ : Năm 1947 Người viết tặng 3 cụ ở Cao Bằng : Tuổi cao chí khí càng cao. Múa gươm giết giặc ào ào gió thu….Năm 1960 Người viết : Càng già càng dẻo lại càng dai. Tinh thần gương mẫu chẳng nhường ai…
Tôi xin cám ơn những lời khuyên nên giữ an nhàn, đừng dây vào chính trị. Trong những lời khuyên đó có những tấm lòng tốt, lo cho sức khỏe và sự an nguy của tôi. Nhưng tôi không theo được vì tôi chưa muốn, chưa thể dẹp bỏ nguồn trí tuệ tìm kiếm chân lý, chưa dập tắt được ngọn lửa nhiệt tình muốn cống hiến cho xã hội tốt đẹp hơn. Tôi cũng nhận thấy trong một số lời khuyên có ẩn nấp sự sợ hãi. Ngoài những thứ sợ thông thường của kiếp người như sợ chết, sợ ốm đau, bệnh tật, tai nạn, sợ đói khổ, chia ly v.v… thì Đảng CS đã tạo ra và duy trì được nhiều nỗi sợ nữa cho nhân dân, cho đảng viên, cho cả các cán bộ cao cấp. Người ta sợ bị sát hại, bị đàn áp, tù đầy, sợ bị mang tiến phản bội, phản động, mang tội chống Đảng, chống chế độ, sợ bị vi phạm kỷ luật và những điều cấm, sợ bị mọi người xa lánh, sợ bị mất miếng cơm manh áo, sợ bị ảnh hưởng đến lý lịch và đời sống của con cháu…Sợ quá làm cho người ta trở nên hèn kém, mang nặng tâm lý nô lệ. Sợ quá làm người ta trở thành kẻ dối trá. Tôi đã sợ hãi như thế trong hơn 20 năm, một thời gian quá dài, nay đã phần nào vượt qua được.
Một số bạn xui tôi ra nước ngoài mà ở. Sao lại xui dại nhau thế, hay đấy là lời thách thức, một ý muốn xua đuổi . Tôi biết nhiều ngoại ngữ, lại có nhiều con cháu đang định cư tại nước ngoài, việc ra đó để sống nốt quảng đời còn lại đối với tôi là không có gì khó nhưng tôi không muốn. Tôi muốn và cần ở lại trong nước vì nhiều lý do chứ không chỉ cầu mong sự an nhàn của tuổi già.
LỜI KẾT
Tôi viết là nhằm trao đổi với những người bạn có thiện chí, muốn thực tâm tìm hiểu sự việc chứ không phải để tranh luận với những người chỉ biết mạt sát, chửi rủa một cách vô căn cứ. Kể ra để giải đáp được rõ hơn một vài thắc mắc thì cần viết mỗi vấn đề thành một tiểu luận với chứng minh chặt chẽ và nhiều dẫn chứng sinh động, tôi cũng có thể làm việc đó, nhưng xét ra cũng đã có nhiều người làm. Bài đã quá dài, xin tạm dừng, mong được thông cảm. (Nguồn : Theo Blog Bùi Văn Bồng)
Tôi sinh năm 1937. Nhìn lại cuộc đời 80 năm qua có liên quan đến cộng sản ( CS )tôi tạm chia thành 5 giai đoạn. 1- lúc còn nhỏ ( trước 1945 ) thỉnh thoảng nghe nói về CS, được tiếp xúc với một số đảng viên bí mật đến vận động cha tôi làm cách mạng, tôi biết và có cảm tình với CS từ đó. 2- Từ 10 đến 30 tuổi, được nghe tuyên truyền, được học và hoàn toàn tin tưởng vào CS, vào Chủ ngĩa Mác Lênin ( CNML). 3- Từ 30 đến 50 tuổi, khi đã thấy nhiều, biết nhiều, đặc biệt là qua chiêm nghiệm thực tế tôi có một số nghi ngờ về sự đúng đắn của CNML và CS. 4- Từ 50 đến 70 tuổi tôi thấy sợ vì nhiều người bị bắt bớ tù đày, bị thủ tiêu chỉ vì nói ra cái sai của CNML, hoặc bị Đảng CS nghi ngờ, vu oan giá họa. 5- Từ 70 tuổi trở đi, dần dần tôi vượt qua sự sợ hãi và dám công bố một số nhận thức, vạch ra cái sai lầm, độc hại của CNML. Tóm tắt 5 giai đoạn là : BIẾT, TIN, NGHI, SỢ, VƯỢT.
Sau khi tuyên bố ra Đảng ( tháng 2-2016) tôi nhận được nhiều bình luận, có đồng tình, ủng hộ, có phê phán, thắc mắc, có cả chửi rủa, mạt sát. Tạm bỏ qua những lời đồng tình, ủng hộ với sự thông cảm chân thành, quên đi những lời chửi rủa, mạt sát mang đầy vu khống. Tôi chỉ xin đề cập đến những lời phê phán, những thắc mắc. Những điều này mới nghe qua thì thấy có lý, chứng tỏ người viết có suy nghĩ. Tuy vậy nó có thể đúng với người này, trong trường hợp này nhưng lại không đúng với người khác, trong ttường hợp khác mà chỉ khi suy nghĩ sâu sắc, khi có chiêm nghiệm rộng rãi mới nhận ra được. Xin tóm tắt thành các vấn đề sau :
1-Lúc trẻ đã mất công phấn đấu để xin vào Đảng, đến già tại sao lại dở chứng. Mà muốn ra thì lặng lẽ xin ra, việc gì phải công khai , phải chăng là muốn nổi tiếng.
2-Khi vào Đảng đã thề trung thành trọn đời đối với Đảng, với CNML, nay quay lại phê phán CNML và từ bỏ Đảng, như vậy là phản bội lời thề.
3-Nhờ có công ơn Đảng mới được đi học, được phong giáo sư tiến sĩ, về nghỉ có lương hưu, từ bỏ Đảng là việc làm của kẻ ngu dốt , vô ơn. Mục tiêu của Đảng là xây dựng đất nước hòa bình, tự do, dân chủ, hạnh phúc, văn minh. Ra Đảng phải chăng là chống lại mục tiêu cao đẹp đó. Biết bao nhiêu người theo Đảng, hy sinh xương máu để đem lại độc lập, thống nhất, việc từ bỏ Đảng là phản bội lại ông cha, là không thực hiện “uống nước nhớ nguồn”.
4- Chủ nghĩa không sai, Đảng không sai, xã hội có một số tệ nạn chỉ là do một số cán bộ thoái hóa biến chất, tại sao không dám trực diện đấu tranh với họ mà lại làm một việc dại dột là chống Đảng.
5- Tự cho là một trí thức chân chính sao không cống hiến hết mình mà lại từ bỏ Đảng.Việc ra Đảng chỉ làm mất uy tín, bị nhiều người phỉ nhổ. Có giỏi thì lập ra tổ chức để đấu tranh, vận động và dẫn đầu biểu tình chứ chỉ “ làm anh hùng bàn phím” thì là đồ mạt hạng.
6-Ông đã 80 tuổi, nên an hưởng tuổi già bên cháu chắt, vui với chim cá, cây cảnh, dây vào chính trị làm gì. Nếu không thích chế độ Xã hội chủ nghĩa do ĐCS lãnh đạo thì cuốn xéo ra nước ngoài mà ở.
Tôi sẽ lần lượt kiểm điểm từng vấn đề, xem rằng đó là việc tự nhìn lại cuộc đời đối với Đảng CSVN. Nghĩ rằng khá nhiều bạn cùng hoàn cảnh cũng có quan điểm tương tự nên xin dùng chủ ngữ “ chúng tôi” trong một số chỗ, để ngụ ý có một số người cùng nghĩ và làm như vậy chứ không phải chỉ một mình tôi.
VẤN ĐỀ 1: Phấn đấu vào Đảng và thông báo ra Đảng.
Ngược với nhiều đảng viên khác, chúng tôi vào Đảng không nhằm đạt được quyền lợi cá nhân nào đó và không có việc phấn đấu để vào Đảng. Chúng tôi phấn đấu với mục tiêu trở thành người yêu nước chân chính, có trình độ cao về nhiều mặt, có đạo đức, có lý tưởng tốt đẹp. Mục tiêu đó cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn đảng viên. Khi tổ chức Đảng thấy cần kết nạp chúng tôi thì kết nạp mà không thì thôi. Chính vì lẽ đó mà nhiều trí thức thế hệ chúng tôi vào Đảng lúc đã là U50. Thời gian trước 1980 ( khoảng chừng) Đảng rất hạn chế kết nạp các trí thức trình độ cao, có dính dáng đến thánh phần thù địch giai cấp. Việc đó làm cho lực lượng Đảng ở các trường đại học không tương xứng với đội ngũ cán bộ khoa học và nhiệm vụ lãnh đạo công tác đào tạo. Từ 1980 về sau Đảng mới quan tâm hơn đến việc thu hút trí thức, mở rộng việc kết nạp những người xuất thân từ các thành phần bậc cao ( trong cải cách xã hội, ông bà, bố mẹ bị qui là địa chủ, phú nông, tư sản, quan lại ). Khi vào Đảng mọi người làm đơn xin, đối với chúng tôi đó chỉ là một thủ tục, chứ không phải là xin một quyền lợi, một vinh dự. Chúng tôi vào Đảng là để làm việc tốt hơn chứ không phải để có quyền lợi nhiều hơn, không nhằm đạt danh vọng hoặc vinh dự cao hơn. Đó là điều khác biệt với một số đông đảng viên khác. Điều này người ngoài ít khi nhận thấy. Những kẻ cơ hội xin vào Đảng để tìm quyền lợi hoặc danh vọng cũng như những người quen với suy nghĩ nông cạn không thể hiểu được điều đơn giản có thật vừa trình bày.
Vào Đảng để được làm việc tốt hơn, đến khi thấy vai trò đảng viên không còn tác dụng cho công việc, lại thấy quan điểm của Đảng và của cá nhân khác nhau ( kiên trì hay từ bỏ CNML) thì việc ra Đảng là chuyện bình thường, không vi phạm đạo đức, không phải là tội lỗi.
Đã có nhiều đảng viên khi nghỉ hưu đã lặng lẽ bỏ Đảng bằng nhiều cách. Đầu tiên tôi cũng định chọn cách lặng lẽ, nhưng thời gian vừa qua, khi tôi công bố một số bài phê phán CNML thì có nhiều bạn góp ý, cho rằng tôi chỉ là một thằng hèn khi một mặt phê phán CNML, mặt khác vẫn đeo bám Đảng, các bạn khuyên tôi nên từ bỏ càng sớm càng tốt. Trước đó chính tôi cũng tự thấy như vậy. Tôi công khai việc làm là có phần trả lời góp ý đó và tin là nhờ vậy mà các bài viết của tôi có tác dụng hơn. Tôi biết có nhiều đảng viên cũng đang phân vân giữa việc ở lại và ra vì chưa lường trước được hậu quả công việc. Tôi đã vượt qua sự đắn đo, sự sợ hãi, làm một phép thử để các bạn tham khảo. Tôi không làm đơn xin mà viết thông báo vì nghĩ rằng đơn xin là bị động, phải chờ đợi sự xét duyệt. Đã xin thì phải chịu sự lệ thuộc, có thể được cho hoặc không . Hơn nữa tôi không muốn làm mất thì giờ của một số cán bộ Đảng phải họp để thảo luận và xét. Thông báo chủ động hơn, tiết kiệm thời gian hơn, hiệu quả hơn. Còn muốn nổi tiếng ư ?. Không ! Tôi biết trước rằng khi công khai việc này sẽ nhận được không ít sự bất đồng, trách móc, phê phán, chửi rủa. Tôi phải chiến thắng sự sợ hãi và tâm lý an phận mới dám làm .
VẤN ĐỀ 2: Lời thề khi vào Đảng
Trong lễ kết nạp, đảng viên mới phải tuyên thệ. Lời thề thường gồm 4 nội dung : 1- Trung thành tuyệt đối với Đảng, với lý tưởng CS. 2- Học tập thấm nhuần, làm theo tư tưởng, đường lối của CNML, xem đó là kim chỉ nam. 3-Làm tốt mọi nhiệm vụ đảng viên. 4- Có liên hệ và công tác quần chúng tốt.
Đối với nhiều người khác thì lời thề ấy thường được soạn theo mẫu do Chi ủy hướng dẫn. Tôi biết trong nhiều trường hợp người ta đọc lời thề chỉ là làm cho đủ thủ tục hình thức , còn trong thâm tâm họ nghĩ khác. Khi vào Đảng tôi đã 48 tuổi và là phó giáo sư, tiến sĩ, trưởng bộ môn. Tôi không muốn làm kiểu sáo vẹt mà phải trung thực, vì vậy tôi tự soạn ra lời thề cũng gồm 4 nội dung, điều 3 và 4 gần gần như theo mẫu, còn điều 1 và 2 đã sửa theo cách khác. Xin chép lại : Điều 1- Xin thề tuyệt đối trung thành với lý tưởng và sự nghiệp giải phóng dân tộc, đấu tranh cho đất nước hòa bình, độc lập thống nhất, xây dựng xã hội tự do dân chủ, công bằng, vì sự phát triển của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Điều 2- Xin thề không ngừng học tập để nâng cao trình độ mọi mặt, nghiên cứu sâu sắc CNML, Chủ nhĩa cộng sản và con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.
Bây giờ xem lại tôi thấy đã không vi phạm, không phản bội lời thề ở chỗ nào hết. Tôi thể tuyệt đối trung thành với lý tưởng và sự nghiệp tốt đẹp chứ không thề trung thành với Đảng, bây giờ tôi vẫn trung thành với lý tưởng và sự nghiệp đó. Tôi thề nghiên cứu sâu sắc CNML, CNCS, con đường CNXH chứ không thề trung thành với những điều ấy. Chính nhờ nghiên cứu sâu sắc mà tôi phát hiện ra những sai lầm, những độc hại trong đó, thấy rồi tôi tìm cách nói lại với mọi người. Những ai cho rằng tôi đã phản bội lời thề vì họ tưởng nhầm tôi cũng đã đọc lời thề theo kiểu sáo vẹt như nhiều người khác. Mà nếu có ai đó khi được kết nạp có thề trung thành với Đảng, với CNML, bây giờ họ thấy đã bị nhầm, họ ra Đảng thì đồng thời họ có quyền xóa bỏ lời thề đã đọc, việc đó không có gì sai trái.
VẤN ĐỀ 3: Mục tiêu của Đảng, công ơn Đảng, uống nước nhớ nguồn?
Đảng tuyên truyền rằng “ Mục tiêu là xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất, dân chủ, công bằng, giàu mạnh, văn minh”. Đối chiếu vào thực tế thì thấy đó là mong ước của nhiều đảng viên, cũng là một phần mục tiêu của Đảng khi mà quyền lợi của dân tộc và của Đảng là thống nhất. Mà oái oăm thay, quyền lợi của Đảng, đặc biệt là quyền lợi của các nhóm lợi ích bậc cao trong Đảng có nhiều khi mâu thuẩn với quyền lợi dân tộc. Mục tiêu cao hơn của Đảng, mục tiêu chủ yếu là bảo vệ Đảng bằng bất kỳ giá nào, là kiên trì CNML, là giữ vững nền độc tài toàn trị. Còn mục tiêu của nhiều cán bộ từ thấp đến cao là lo thu hồi vốn bỏ ra khi chạy chức chạy quyền và làm giàu cá nhân, là lo bảo vệ lợi ích nhóm. Như vậy mục tiêu xây dựng đất nước như trên chủ yếu là để tuyên truyền, lôi kéo nhân dân đi theo. Đảng cũng bắt buộc phải nêu khẩu hiệu “ Đặt quyền lợi dân tộc lên trên”, nhưng đó chỉ là thủ đoạn tuyên truyền. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng “VN là đất nước không chịu phát triển”, rằng để phát triển đất nước thì việc đầu tiên là phải cải cách thể chế chính trị. Như vậy, việc chúng tôi vạch ra những sai lầm của CNML, của thể chế và ra khỏi Đảng không phải nhằm chống lại mục tiêu tốt đẹp xây dựng đất nước mà là chống lại những cản trở để thực hiện mục tiêu đó, chống lại sự tuyên truyền ngụy biện, chống lại sự nô dịch về tư tưởng và thông tin.
Về công ơn Đảng. Một thực tế của lịch sử là ĐCS đã độc quyền lãnh đạo và quản lý đất nước trong thời gian qua, nhưng dân tộc được hay bị cái sự ấy thì xin tạm gác lại. Chỉ xin bàn đến vấn đề đối với từng cá nhân. Rõ ràng là có một số người nhờ có Đảng mà đã thoát cảnh lầm than, trở nên ông này bà nọ. Nhưng không phải toàn bộ dân VN đều như thế. Rõ ràng là Đảng đã lãnh đạo để có chiến thắng 30 tháng 4, nhưng nói về nó Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt có câu để đời: “ Triệu người vui và triệu người buồn”. Trong cải cách ruộng đất, nhiều bần cố nông vui mừng được chia quả thực, họ rất nhớ công ơn Đảng. Trong khi có hàng vạn phú nông, địa chủ, nhân sĩ trí thức, kể cả nhiều người có công với cách mạng và kháng chiến chống Pháp bị sát hại, bị “đạp đầu xuống bùn đen vạn kiếp”. Những nhà tư sản bị tịch thu tài sản, bị đuổi đến vùng kinh tế mới, những thuyền nhân mà không ít bỏ xác giữa biển , những người của Việt Nam cộng hòa bị bắt vào các trại cải tạo, những dân oan…. Những người vừa kể không bao giờ nhờ công ơn Đảng. Mà tất cả họ đều là người Việt.
Về các giáo sư Tiến sĩ ( GSTS). Có rất nhiều người Việt trở thành GSTS, kể cả nhà khoa học lớn mà không nhờ gì đến công ơn ĐCSVN, thậm chí một số còn tích cực chống lại chủ thuyết CS, họ đang làm việc có hiệu quả khắp nơi trên thế giới. Một số trí thức lớn như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Huyên, Trần Hữu Tước, Tôn Thất Tùng, Lương Định Của v.v… đã phục vụ đắc lực cho ĐCS thì cũng không phải nhờ Đảng họ mới có tri thức và khả năng cần thiết.
Có khá nhiều GSTS được đào tạo từ dưới chính thể của ĐCSVN. Loại trừ một số GSTS dổm, chạy được học vị, học hàm nhờ vào mưu mô, thế lực hoặc tiền bạc thì cũng có một số trở thành GSTS thứ thiệt, có trình độ là nhờ công ơn Đảng. Số người này nếu không có Đảng nâng đỡ thì chưa chắc đã học xong phổ thông chứ nói gì đến GSTS. Nhưng một số khác thì không phải như vậy.
Đảng bắt đầu mở rộng đào tạo trí thức bậc cao vào khoảng từ 1960 trở đi bằng cách gửi người sang các nước XHCN. Bắt đầu chỉ chọn các đảng viên hoặc người xuất thân từ công nông, nhưng không đủ, bắt buộc phải mở rộng cho các thành phần khác. Khi cử người đi học thì mục tiêu của Đảng không phải là ban ơn cho một ai đó mà là đào tạo cán bộ để phục vụ Đảng.Trước khi ra nước ngoài chúng tôi được học chính trị, được chỉnh huấn, được cán bộ Đảng căn dặn rất kỹ càng là đi học cũng là một nhiệm vụ quan trọng do Đảng giao, phải học tốt để về phục vụ Đảng. Như vậy việc được đi học không phải là chịu sự ban ơn, đành rằng mỗi chúng tôi đều biết ơn trong việc cụ thể này. Việc được phong giáo sư cũng chủ yếu không phải là nhờ sự ban ơn của Đảng, mà chủ yếu là do sự nổ lực hoạt động khoa học của cá nhân, ai đã từng nhận danh hiệu này một cách chính đáng đều biết rõ như vậy.
Kể cả khi bạn thực sự nhờ công ơn Đảng mới có được học vị, học hàm xứng đáng thì đức tính trung thực và lòng tự trọng không cho phép bạn làm ngơ trước những sai lầm của CNML, không cho phép bạn tự biến mình thành kẻ chỉ biết phục tùng , cúi đầu phụ họa, chỉ biết ca ngợi một chiều để giữ được miếng cơm manh áo và sự yên ổn tạm thời cho bản thân và gia đình.
Về “ uống nước nhớ nguồn” tôi đã viết và công bố bài “Những ai đã phản bội ông cha” chứng minh rằng chính một số ông cha chúng ta đã chọn sai con đường theo CNML, nay chúng ta phải sửa sai, và bọn người thực sự phản bội sự hy sinh xương máu của ông cha chính là những kẻ đang củng cố sự độc quyền toàn trị và bọn lợi ích nhóm đang cố duy trì chế độ lỗi thời để tham nhũng, để vinh thân phì gia. Về đóng góp xương máu thì gia đình tôi có 5 liệt sĩ là cha tôi và 4 người con cháu của ông. Gần đây tôi đã xây dựng được nhà thờ để thờ tự các liệt sĩ và tổ tiên. Nói rằng việc làm của chúng tôi là sự phản bội ông cha, không thực hiện việc uống nước nhớ nguồn là không đúng, là vu cáo.
VẤN ĐỀ 4: Đảng không sai, chỉ có cá nhân sai?
Một số ngườ i cho rằng CNML luôn đúng, Đảng không sai, chỉ có một số cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất làm sai. Thì đấy , ngay như chuyện tham nhũng hoặc mất dân chủ, Đảng luôn kêu gọi chống lại, thế mà nó vẫn phát triển, chỉ là do cán bộ không thực hiện mà thôi. Những người nghĩ và tin như vậy thực ra đã được nghe tuyên truyền chỉ từ một nguồn, đã bị nhồi sọ bởi những lập luận ngụy biện. Chúng tôi hồi trẻ vẫn tin như thế, nhưng rồi dần dần, được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin khác nhau và đặc biệt chiêm nghiệm từ cuộc sống thực tế, tự suy nghĩ sâu sắc một cách khoa học mới nhận ra không phải như vậy. Phần lớn những điều tốt đẹp mà Đảng nói tới chủ yếu chỉ là tuyên truyền ngụy biện, còn sự toàn trị của Đảng hàng ngày hàng giờ sinh ra và nuôi dưỡng các tệ nạn đủ thứ. Câu nói “Mọi lý thuyết đều màu xám, chỉ cây đời mãi xanh tươi” hoặc “Chớ cả tin vào lời người ta nói, hãy xét xem việc họ làm” đã được lịch sử nhân loại kiểm nghiệm, đúng cho mọi lý thuyết, cho mọi người, mọi tổ chức, không riêng gì cho CS.
Về các bài viết và việc làm của tôi, một số người cho là tôi cố ý chống lại ai đó ( lãnh đạo chẳng hạn), chống Đảng , chống CNML. Tự trong thâm tâm tôi không muốn chống ai cả mà chủ yếu là muốn cung cấp thông tin nhằm thức tỉnh những ai muốn tìm hiểu các quan điểm khác nhau. Còn đối với những người chỉ biết tin theo một nguồn, chỉ cố giữ chặt một quan điểm thì làm sao lay chuyển họ được. Kể ra tìm cho kỹ thì cũng có lúc tôi chống đối nhưng không chống ai cả mà là chống lại những quan điểm, những việc làm mà tôi cho là sai quy luật, là có hại cho dân tộc và nhân loại.
VẤN ĐỀ 5: Bàn về cống hiến
Đối với mỗi người cống hiến quan trọng nhất là trong việc phát triển đất nước và nhân loại. Tùy hoàn cảnh, tùy thời gian mà việc cống hiến này sẽ là tốt hơn khi ta ở trong hoặc ngoài Đảng. Trước đây thấy rằng vào Đảng sẽ có khả năng công tác tốt hơn nên chúng tôi gia nhập khi Đảng yêu cầu. Bây giờ thấy sự ra khỏi Đảng sẽ có tác dụng tốt hơn cho sự phát triển nền dân chủ của đất nước nên chúng tôi ra. Như vậy việc ra Đảng đã không làm giảm mà về khía cạnh nào đó còn làm tăng sự cống hiến, tất nhiên đó là cống hiến cho dân tộc chứ không phải là cống hiến, là hy sinh để bảo vệ những sai lầm của Đảng.
Riêng bản thân tôi, tự kiểm điểm trong cả cuộc đời cho đến bây giờ tôi đã làm việc hết sức mình để đóng góp vào sự phát triển của đất nước và đạt nhiều thành tích đáng kể, bạn bè, học trò của tôi, lãnh đạo những đơn vị và địa phương quản lý tôi đều biết rõ, tôi xin không kể ra vì đây không phải là nơi báo cáo thành tích.
Trong việc đấu tranh cho nền dân chủ, mỗi người tùy hoàn cảnh mà chọn cho mình công việc thich hợp. Việc lập tổ chức này khác, việc dẫn đầu biểu tình hoặc đi vận động việc nọ việc kia đã có nhiều người thich hợp hơn. Tôi, một giáo sư 80 tuổi, tôi chọn công việc thích hợp và không kém phần quan trọng là viết bài để thức tỉnh những ai còn ngộ nhận, những ai muốn tìm hiểu sự thật. Để làm việc đó cần trí tuệ và lòng dũng cảm, công việc cũng khá khó khăn, và làm được sẽ có lợi cho phong trào. Nếu làm như vậy mà có bị ai đó chê bai, trách móc, coi thường thì tôi cũng chấp nhận mà không có gì phải tự ái, không việc gì phải xấu hổ.
VẤN ĐỀ 6: Tuổi già và sự an nhàn
Tuổi gìa muốn được an nhàn, đó là tâm lý chung cần được tôn trọng. Nhưng có một số người già vẫn còn sức lực và trí tuệ, đặc biệt là vẫn còn nhiệt tình hoạt động giúp ích cho đời . Trong hoạt động vì độc lập tự do của đất nước, vì dân chủ và hạnh phúc của nhân dân nhiều chiến sĩ cách mạng thề phấn đấu đến hơi thở cuối cùng, nguyện trọn đời phục vụ nhân dân. Những người già như vậy càng nên được tôn trọng hơn chứ không nên tìm cách dè bỉu hoặc ngăn cản. Hồ Chí Minh có một số câu thơ : Năm 1947 Người viết tặng 3 cụ ở Cao Bằng : Tuổi cao chí khí càng cao. Múa gươm giết giặc ào ào gió thu….Năm 1960 Người viết : Càng già càng dẻo lại càng dai. Tinh thần gương mẫu chẳng nhường ai…
Tôi xin cám ơn những lời khuyên nên giữ an nhàn, đừng dây vào chính trị. Trong những lời khuyên đó có những tấm lòng tốt, lo cho sức khỏe và sự an nguy của tôi. Nhưng tôi không theo được vì tôi chưa muốn, chưa thể dẹp bỏ nguồn trí tuệ tìm kiếm chân lý, chưa dập tắt được ngọn lửa nhiệt tình muốn cống hiến cho xã hội tốt đẹp hơn. Tôi cũng nhận thấy trong một số lời khuyên có ẩn nấp sự sợ hãi. Ngoài những thứ sợ thông thường của kiếp người như sợ chết, sợ ốm đau, bệnh tật, tai nạn, sợ đói khổ, chia ly v.v… thì Đảng CS đã tạo ra và duy trì được nhiều nỗi sợ nữa cho nhân dân, cho đảng viên, cho cả các cán bộ cao cấp. Người ta sợ bị sát hại, bị đàn áp, tù đầy, sợ bị mang tiến phản bội, phản động, mang tội chống Đảng, chống chế độ, sợ bị vi phạm kỷ luật và những điều cấm, sợ bị mọi người xa lánh, sợ bị mất miếng cơm manh áo, sợ bị ảnh hưởng đến lý lịch và đời sống của con cháu…Sợ quá làm cho người ta trở nên hèn kém, mang nặng tâm lý nô lệ. Sợ quá làm người ta trở thành kẻ dối trá. Tôi đã sợ hãi như thế trong hơn 20 năm, một thời gian quá dài, nay đã phần nào vượt qua được.
Một số bạn xui tôi ra nước ngoài mà ở. Sao lại xui dại nhau thế, hay đấy là lời thách thức, một ý muốn xua đuổi . Tôi biết nhiều ngoại ngữ, lại có nhiều con cháu đang định cư tại nước ngoài, việc ra đó để sống nốt quảng đời còn lại đối với tôi là không có gì khó nhưng tôi không muốn. Tôi muốn và cần ở lại trong nước vì nhiều lý do chứ không chỉ cầu mong sự an nhàn của tuổi già.
LỜI KẾT
Tôi viết là nhằm trao đổi với những người bạn có thiện chí, muốn thực tâm tìm hiểu sự việc chứ không phải để tranh luận với những người chỉ biết mạt sát, chửi rủa một cách vô căn cứ. Kể ra để giải đáp được rõ hơn một vài thắc mắc thì cần viết mỗi vấn đề thành một tiểu luận với chứng minh chặt chẽ và nhiều dẫn chứng sinh động, tôi cũng có thể làm việc đó, nhưng xét ra cũng đã có nhiều người làm. Bài đã quá dài, xin tạm dừng, mong được thông cảm. (Nguồn : Theo Blog Bùi Văn Bồng)
*** Song Chi: Bao giờ người Việt biết thương nhau ?
Mỗi năm ở VN trung bình có khoảng từ 8,700-11,500 người chết vì tai nạn giao thông, nằm trong số những quốc gia có tỷ lệ người chết vì tai nạn giao thông cao trên thế giới. (Theo “List of countries by traffic-related death rate” (Wikipedia), tỷ lệ trung bình là 17.4 trên 100,000 người thì tỷ lệ của VN là 24.5. Còn theo đánh giá của tổ chức World Health Ranking về “Road traffic accidents death rate by country”, tỷ lệ số người chết tính trên 100, 000 người của VN là 23.10, thuộc vào khu vực được tô màu xanh, là khá cao). Nghĩa là trung bình mỗi ngày có khoảng trên dưới 30 người rời khỏi nhà và vĩnh viễn không trở về. Chưa kể hàng ngàn người khác bị thương từ nhẹ đến nặng hoặc vĩnh viễn tàn phế. Tai nạn giao thông đã trở thành một nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với người VN mỗi khi phải bước chân ra đường. Báo chí, dư luận đã gióng lên hồi chuông báo động từ nhiều năm qua, rất nhiều giải pháp kiềm chế đã được đề ra, nhưng tai nạn giao thông vẫn không hề giảm đi.
Có nhiều nguyên nhân như cơ sở hạ tầng, phương tiện giao thông không đảm bảo điều kiện an toàn, thời tiết xấu…, bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông còn rất kém. Thử nhìn lại mấy vụ tai nạn giao thông kinh hoàng mà báo chí đưa tin trong những ngày gần đây: Vụ chiếc xe Camry tông chết 3 người tại quận Long Biên, Hà Nội ngày 29.2, theo báo chí, người lái xe đã phạm cùng lúc nhiều tình tiết gây ra tai nạn: uống rượu trước lúc lái xe, không có bằng lái, lái với tốc độ nhanh, vượt sai làn đường rồi tông thẳng vào 2 ông cháu đi xe máy và 1 phụ nữ đi bộ. Trong video clip ghi lại vụ tai nạn, có thể thấy bản thân 2 ông cháu nạn nhân cũng không đội mũ bảo hiểm, người phụ nữ thì đang đi bộ dưới lòng đường, đường xá thì hẹp lại có thêm một chiếc ô tô đậu làm choán mất một phần đường. (“Vụ xe Camry tông chết 3 người: Lái xe không bằng lái, có hơi men”, Dân Trí, “Vụ Camry gây tai nạn và chuyện người Việt ‘nhờn luật’, VietnamNet). Tất cả những sự bất cẩn, vi phạm luật giao thông này đã dẫn đến vụ tai nạn thảm khốc trên.
Ngày 4.3 tại xã Phù Ủng, Ân Thi, một chiếc xe biển xanh lấn làn tông trực diện vào một người phụ nữ chạy xe gắn máy đang mang thai 8 tháng, khiến cả bà bầu và thai nhi sắp sinh cùng tử vong. (“Xe biển xanh lấn làn tông chết bà bầu 8 tháng”, Người Lao Động)
Ngày 6.3, tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, lại một người không có bằng lái, ngồi vào xe taxi của người khác, tông chết một người phụ nữ lớn tuổi và một cháu bé khi cả hai đang ở lề đường trước cửa một ngôi nhà (“Vụ taxi ‘điên’ đâm chết 2 bà cháu: Tài xế không có bằng lái”, Tiền Phong)
Ngày 6.3, tại Quảng Ngãi, một chiếc xe tải chạy rất nhanh, dù đèn đỏ nhưng vẫn ôm cua và tông thẳng từ phía sau một chiếc xe gắn máy chở ba khiến hai mẹ con chết tại chỗ, bé trai may mắn văng vào gầm xe taxi đang dừng chờ đèn đỏ nên thoát chết. Theo bài báo “Xe tải tông hai mẹ con chết thảm, bé trai văng gầm taxi thoát chết” trên Tuổi Trẻ, “thời điểm xảy ra tai nạn tài xế Trần Quang Phu đã bị Công an huyện Ba Tơ tước giấy phép lái xe”.
Chỉ kể sơ qua vài vụ, đã chứng minh một trong những nguyên nhân chính gây tai nạn vừa nói ở trên: ý thức chấp hành luật giao thông rất kém của người dân. Nói thẳng ra là chúng ta coi thường luật, coi thường tính mạng người khác và cả của chính mình. Sâu xa bên trong là chúng ta không có đủ lòng nhân ái, chất nhân văn để biết nghĩ, biết quý trọng tính mạng của người như của mình.
Trong lĩnh vực chế biến, cung cấp thực phẩm cũng vậy. Cũng như tai nạn giao thông, tình trạng thực phẩm bị nhiễm bẩn, nhiễm độc…ở VN là một nỗi ám ảnh lớn cho tất cả mọi người. Không ai phủ nhận ẩm thực VN thuộc vào hàng ngon trên thế giới, nhiều món ăn Việt được phổ biến và được yêu thích rộng rãi tại nhiều quốc gia như phở, chả giò, gỏi cuốn, bánh mì thịt, cơm tấm, bánh xèo…Nhưng về mặt vệ sinh, an toàn thì thật đáng ngại. Không chỉ hàng hóa thực phẩm bị nhiễm độc từ Trung Quốc tuồn qua đường chính ngạch lẫn buôn lậu, chính người Việt cũng đang thản nhiên giết người Việt bởi lối làm ăn chỉ biết có lợi nhuận trước mắt, không nghĩ gì đến sức khỏe, sinh mạng người khác. Người ta sẵn sàng phun nhớt thải cho rau muống xanh, trộn chất tạo nạc là chất cấm sử dụng trong chăn nuôi cho lợn để tăng trọng nhanh, cho phẩm màu, chất bảo quản, chất tăng trưởng, chất tẩy trắng vào trong rau củ, thực phẩm, bánh mứt, sử dụng chất huỳnh quang, hàn the trong công nghệ chế biến bún, phở, thậm chí có một dạo dư luận kinh hoàng về việc phát hiện phoóc môn (formaldehyde, dùng làm chất tẩy uế, bảo quản tử thi…) được sử dụng trong bánh phở… Lâu lâu báo chí lại đưa tin, hình ảnh quy trình chế biến nước tương bẩn, làm chả cá, giò sống, lạp xưởng, chà bông, làm sương sâm, sương xáo siêu bẩn…khiến người xem rùng cả mình. Còn hàng rong ngoài đường cho tới hàng quán, tiệm ăn suốt từ Nam ra Bắc, cũng là khuất mắt mà ăn chứ không thể đảm bảo có vệ sinh, an toàn hay không. Điều đáng nói là ngay chính nhiều người chế biến thực phẩm cũng biết là bẩn nên chỉ để bán cho người khác, còn nhà mình thì không dám ăn!
Trong phiên họp Quốc hội tháng 11.2015, trong phần đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát về vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm, đại biểu Quốc hội Trần Ngọc Vinh đã phát biểu: “Có thể nói con đường từ dạ dày tới nghĩa địa của mỗi người chúng ta chưa bao giờ lại trở nên ngắn và dễ dàng đến thế”(“Con đường từ dạ dày tới nghĩa địa chưa bao giờ ngắn đến thế”, báo Giáo dục VN)
Có thể kể ra vô số những ví dụ về thái độ coi thường sinh mạng người khác nhan nhản trong nhiều khía cạnh của đời sống xã hội VN hiện tại. Từ việc thản nhiên xả rác và những chất bẩn xuống sông ngòi bất chấp việc ô nhiễm nguồn nước; thấy người bị nạn, nhất là tai nạn giao thông nhưng ngại giúp đỡ vì không muốn phiền hà (trong vụ xe Camry tông chết 3 người nói trên, báo chí đưa tin em bé 6 tuổi tim vẫn còn đập đã phải chờ rất lâu sau xe cứu thương mới đến, còn một số xe taxi được người dân vẫy gọi thì không dừng lại…), những bữa cơm giá rẻ nấu cho sinh viên, công nhân với những thực phẩm kém chất lượng thậm chí thiu thối…Cho tới công nghệ tái chế, tái sử dụng rác thải không bảo đảm vệ sinh, đáng sợ nhất là rác thải y tế độc hại cũng được tái chế (“Rác thải y tế độc hại lọt từ bệnh viện ra thị trường: Sự thật khủng khiếp bên trong bệnh viện”, Lao Động), tình trạng làm ăn gian dối, không bảo đảm an toàn trong xây cất, trong lao động gây tai nạn v.v…
Ngay cả một số ngành nghề lẽ ra phải được người dân tin tưởng, trông cậy, tìm đến khi có việc như cảnh sát thì ở VN, cảnh sát/ công an lại là những hung thần trong mắt người dân. Có biết bao nhiêu trường hợp người dân chỉ vi phạm những lỗi nhỏ về giao thông nhưng bị công an rượt đuổi, mất bình tĩnh tự gây ra tai nạn có khi tử vong, hoặc chỉ vì những nguyên nhân vặt vãnh, bị đưa về đồn, đang trong quá trình điều tra, tạm giam nhưng lại bị công an đánh đập, bạo hành đến chết. Hoặc những môi trường phải là nơi an toàn như mẫu giáo, trường mầm non, trường học, bệnh viện…thì chúng ta cũng đọc/xem thấy bao nhiêu vụ cô bảo mẫu bạo hành trẻ, thầy cô xúc phạm học sinh với những lời lẽ rất phản giáo dục, một số trường hợp học sinh vì bị xúc phạm nặng nề mà uất ức dẫn đến làm điều dại dột như tự sát…
Câu hỏi vì sao người Việt chúng ta ác với nhau như vậy, vì sao người Việt chúng ta coi thường tính mạng của người khác như vậy?
Không có một dân tộc nào ác, xấu hơn dân tộc khác.
Một mô hình thể chế chính trị độc tài, giành và giữ quyền lực bằng con đường bạo lực và dối trá, kìm hãm mọi tự do, dân chủ, chà đạp nhân quyền, bóp nghẹt nhân tính trong con người đồng thời cổ súy lối sống chạy theo vật chất danh lợi, bất chấp tất cả…là nguyên nhân. Một nền giáo dục ngu dân, không có triết lý, mục tiêu giáo dục đúng đắn và cao thượng, học để đi thi, học để có bằng cấp chứ không phải học để làm người, một nền giáo dục không dạy cho con người những điều nhỏ bé như biết sống tử tế, có trách nhiệm với mình và với xã hội, có lòng nhân ái, tình yêu thương đồng loại…là nguyên nhân. Khi niềm tin lẫn chỗ dựa từ pháp luật cho tới giáo dục, tôn giáo đều không còn, thì chẳng còn ranh giới gì khiến người ta do dự, sợ hãi trước khi làm điều xấu, điều ác cả.
Còn lại chỉ là mỗi người, mỗi gia đình phải tự giáo dục cho nhau và giáo dục chính mình để ngọn lửa nhân ái, sự tử tế bên trong mình, trong nhau không bị thui chột đi.
Bao giờ chúng ta biết nghĩ cho người khác, biết quý trọng sức khỏe, mạng sống của người khác như của chính mình? Biết quý trọng cái chung, môi trường sống chung? Nghĩ cho người khác, nghĩ vì cái chung cũng chính là nghĩ cho mình và cho con cháu mình trong một mái nhà chung nơi mà từng việc làm của mỗi người sẽ ảnh hưởng đến những người khác, không thể tránh được. (Blog RFA)
(iii) Robert D. Kaplan: Tình trạng hỗn loạn vô chính phủ sắp diễn ra trên lục đía Á-ÂuMỗi năm ở VN trung bình có khoảng từ 8,700-11,500 người chết vì tai nạn giao thông, nằm trong số những quốc gia có tỷ lệ người chết vì tai nạn giao thông cao trên thế giới. (Theo “List of countries by traffic-related death rate” (Wikipedia), tỷ lệ trung bình là 17.4 trên 100,000 người thì tỷ lệ của VN là 24.5. Còn theo đánh giá của tổ chức World Health Ranking về “Road traffic accidents death rate by country”, tỷ lệ số người chết tính trên 100, 000 người của VN là 23.10, thuộc vào khu vực được tô màu xanh, là khá cao). Nghĩa là trung bình mỗi ngày có khoảng trên dưới 30 người rời khỏi nhà và vĩnh viễn không trở về. Chưa kể hàng ngàn người khác bị thương từ nhẹ đến nặng hoặc vĩnh viễn tàn phế. Tai nạn giao thông đã trở thành một nỗi ám ảnh kinh hoàng đối với người VN mỗi khi phải bước chân ra đường. Báo chí, dư luận đã gióng lên hồi chuông báo động từ nhiều năm qua, rất nhiều giải pháp kiềm chế đã được đề ra, nhưng tai nạn giao thông vẫn không hề giảm đi.
Có nhiều nguyên nhân như cơ sở hạ tầng, phương tiện giao thông không đảm bảo điều kiện an toàn, thời tiết xấu…, bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông còn rất kém. Thử nhìn lại mấy vụ tai nạn giao thông kinh hoàng mà báo chí đưa tin trong những ngày gần đây: Vụ chiếc xe Camry tông chết 3 người tại quận Long Biên, Hà Nội ngày 29.2, theo báo chí, người lái xe đã phạm cùng lúc nhiều tình tiết gây ra tai nạn: uống rượu trước lúc lái xe, không có bằng lái, lái với tốc độ nhanh, vượt sai làn đường rồi tông thẳng vào 2 ông cháu đi xe máy và 1 phụ nữ đi bộ. Trong video clip ghi lại vụ tai nạn, có thể thấy bản thân 2 ông cháu nạn nhân cũng không đội mũ bảo hiểm, người phụ nữ thì đang đi bộ dưới lòng đường, đường xá thì hẹp lại có thêm một chiếc ô tô đậu làm choán mất một phần đường. (“Vụ xe Camry tông chết 3 người: Lái xe không bằng lái, có hơi men”, Dân Trí, “Vụ Camry gây tai nạn và chuyện người Việt ‘nhờn luật’, VietnamNet). Tất cả những sự bất cẩn, vi phạm luật giao thông này đã dẫn đến vụ tai nạn thảm khốc trên.
Ngày 4.3 tại xã Phù Ủng, Ân Thi, một chiếc xe biển xanh lấn làn tông trực diện vào một người phụ nữ chạy xe gắn máy đang mang thai 8 tháng, khiến cả bà bầu và thai nhi sắp sinh cùng tử vong. (“Xe biển xanh lấn làn tông chết bà bầu 8 tháng”, Người Lao Động)
Ngày 6.3, tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, lại một người không có bằng lái, ngồi vào xe taxi của người khác, tông chết một người phụ nữ lớn tuổi và một cháu bé khi cả hai đang ở lề đường trước cửa một ngôi nhà (“Vụ taxi ‘điên’ đâm chết 2 bà cháu: Tài xế không có bằng lái”, Tiền Phong)
Ngày 6.3, tại Quảng Ngãi, một chiếc xe tải chạy rất nhanh, dù đèn đỏ nhưng vẫn ôm cua và tông thẳng từ phía sau một chiếc xe gắn máy chở ba khiến hai mẹ con chết tại chỗ, bé trai may mắn văng vào gầm xe taxi đang dừng chờ đèn đỏ nên thoát chết. Theo bài báo “Xe tải tông hai mẹ con chết thảm, bé trai văng gầm taxi thoát chết” trên Tuổi Trẻ, “thời điểm xảy ra tai nạn tài xế Trần Quang Phu đã bị Công an huyện Ba Tơ tước giấy phép lái xe”.
Chỉ kể sơ qua vài vụ, đã chứng minh một trong những nguyên nhân chính gây tai nạn vừa nói ở trên: ý thức chấp hành luật giao thông rất kém của người dân. Nói thẳng ra là chúng ta coi thường luật, coi thường tính mạng người khác và cả của chính mình. Sâu xa bên trong là chúng ta không có đủ lòng nhân ái, chất nhân văn để biết nghĩ, biết quý trọng tính mạng của người như của mình.
Trong lĩnh vực chế biến, cung cấp thực phẩm cũng vậy. Cũng như tai nạn giao thông, tình trạng thực phẩm bị nhiễm bẩn, nhiễm độc…ở VN là một nỗi ám ảnh lớn cho tất cả mọi người. Không ai phủ nhận ẩm thực VN thuộc vào hàng ngon trên thế giới, nhiều món ăn Việt được phổ biến và được yêu thích rộng rãi tại nhiều quốc gia như phở, chả giò, gỏi cuốn, bánh mì thịt, cơm tấm, bánh xèo…Nhưng về mặt vệ sinh, an toàn thì thật đáng ngại. Không chỉ hàng hóa thực phẩm bị nhiễm độc từ Trung Quốc tuồn qua đường chính ngạch lẫn buôn lậu, chính người Việt cũng đang thản nhiên giết người Việt bởi lối làm ăn chỉ biết có lợi nhuận trước mắt, không nghĩ gì đến sức khỏe, sinh mạng người khác. Người ta sẵn sàng phun nhớt thải cho rau muống xanh, trộn chất tạo nạc là chất cấm sử dụng trong chăn nuôi cho lợn để tăng trọng nhanh, cho phẩm màu, chất bảo quản, chất tăng trưởng, chất tẩy trắng vào trong rau củ, thực phẩm, bánh mứt, sử dụng chất huỳnh quang, hàn the trong công nghệ chế biến bún, phở, thậm chí có một dạo dư luận kinh hoàng về việc phát hiện phoóc môn (formaldehyde, dùng làm chất tẩy uế, bảo quản tử thi…) được sử dụng trong bánh phở… Lâu lâu báo chí lại đưa tin, hình ảnh quy trình chế biến nước tương bẩn, làm chả cá, giò sống, lạp xưởng, chà bông, làm sương sâm, sương xáo siêu bẩn…khiến người xem rùng cả mình. Còn hàng rong ngoài đường cho tới hàng quán, tiệm ăn suốt từ Nam ra Bắc, cũng là khuất mắt mà ăn chứ không thể đảm bảo có vệ sinh, an toàn hay không. Điều đáng nói là ngay chính nhiều người chế biến thực phẩm cũng biết là bẩn nên chỉ để bán cho người khác, còn nhà mình thì không dám ăn!
Trong phiên họp Quốc hội tháng 11.2015, trong phần đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát về vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm, đại biểu Quốc hội Trần Ngọc Vinh đã phát biểu: “Có thể nói con đường từ dạ dày tới nghĩa địa của mỗi người chúng ta chưa bao giờ lại trở nên ngắn và dễ dàng đến thế”(“Con đường từ dạ dày tới nghĩa địa chưa bao giờ ngắn đến thế”, báo Giáo dục VN)
Có thể kể ra vô số những ví dụ về thái độ coi thường sinh mạng người khác nhan nhản trong nhiều khía cạnh của đời sống xã hội VN hiện tại. Từ việc thản nhiên xả rác và những chất bẩn xuống sông ngòi bất chấp việc ô nhiễm nguồn nước; thấy người bị nạn, nhất là tai nạn giao thông nhưng ngại giúp đỡ vì không muốn phiền hà (trong vụ xe Camry tông chết 3 người nói trên, báo chí đưa tin em bé 6 tuổi tim vẫn còn đập đã phải chờ rất lâu sau xe cứu thương mới đến, còn một số xe taxi được người dân vẫy gọi thì không dừng lại…), những bữa cơm giá rẻ nấu cho sinh viên, công nhân với những thực phẩm kém chất lượng thậm chí thiu thối…Cho tới công nghệ tái chế, tái sử dụng rác thải không bảo đảm vệ sinh, đáng sợ nhất là rác thải y tế độc hại cũng được tái chế (“Rác thải y tế độc hại lọt từ bệnh viện ra thị trường: Sự thật khủng khiếp bên trong bệnh viện”, Lao Động), tình trạng làm ăn gian dối, không bảo đảm an toàn trong xây cất, trong lao động gây tai nạn v.v…
Ngay cả một số ngành nghề lẽ ra phải được người dân tin tưởng, trông cậy, tìm đến khi có việc như cảnh sát thì ở VN, cảnh sát/ công an lại là những hung thần trong mắt người dân. Có biết bao nhiêu trường hợp người dân chỉ vi phạm những lỗi nhỏ về giao thông nhưng bị công an rượt đuổi, mất bình tĩnh tự gây ra tai nạn có khi tử vong, hoặc chỉ vì những nguyên nhân vặt vãnh, bị đưa về đồn, đang trong quá trình điều tra, tạm giam nhưng lại bị công an đánh đập, bạo hành đến chết. Hoặc những môi trường phải là nơi an toàn như mẫu giáo, trường mầm non, trường học, bệnh viện…thì chúng ta cũng đọc/xem thấy bao nhiêu vụ cô bảo mẫu bạo hành trẻ, thầy cô xúc phạm học sinh với những lời lẽ rất phản giáo dục, một số trường hợp học sinh vì bị xúc phạm nặng nề mà uất ức dẫn đến làm điều dại dột như tự sát…
Câu hỏi vì sao người Việt chúng ta ác với nhau như vậy, vì sao người Việt chúng ta coi thường tính mạng của người khác như vậy?
Không có một dân tộc nào ác, xấu hơn dân tộc khác.
Một mô hình thể chế chính trị độc tài, giành và giữ quyền lực bằng con đường bạo lực và dối trá, kìm hãm mọi tự do, dân chủ, chà đạp nhân quyền, bóp nghẹt nhân tính trong con người đồng thời cổ súy lối sống chạy theo vật chất danh lợi, bất chấp tất cả…là nguyên nhân. Một nền giáo dục ngu dân, không có triết lý, mục tiêu giáo dục đúng đắn và cao thượng, học để đi thi, học để có bằng cấp chứ không phải học để làm người, một nền giáo dục không dạy cho con người những điều nhỏ bé như biết sống tử tế, có trách nhiệm với mình và với xã hội, có lòng nhân ái, tình yêu thương đồng loại…là nguyên nhân. Khi niềm tin lẫn chỗ dựa từ pháp luật cho tới giáo dục, tôn giáo đều không còn, thì chẳng còn ranh giới gì khiến người ta do dự, sợ hãi trước khi làm điều xấu, điều ác cả.
Còn lại chỉ là mỗi người, mỗi gia đình phải tự giáo dục cho nhau và giáo dục chính mình để ngọn lửa nhân ái, sự tử tế bên trong mình, trong nhau không bị thui chột đi.
Bao giờ chúng ta biết nghĩ cho người khác, biết quý trọng sức khỏe, mạng sống của người khác như của chính mình? Biết quý trọng cái chung, môi trường sống chung? Nghĩ cho người khác, nghĩ vì cái chung cũng chính là nghĩ cho mình và cho con cháu mình trong một mái nhà chung nơi mà từng việc làm của mỗi người sẽ ảnh hưởng đến những người khác, không thể tránh được. (Blog RFA)
(Tác giả: Robert D. Kaplan, Trung tâm nghiên cứu An ninh Hoa Kỳ. Tác giả nhiều cuốn sách và bài báo nổi tiếng).
Những rủi ro đến từ sự yếu đi của Trung Quốc và Nga
Khi mà Trung Quốc quả quyết tự khẳng định chủ quyền trên các vùng biển lân cận và nước Nga tiến hành cuộc chiến ở Syria, Ucraina thì người ta dễ nghĩ rằng hai siêu cường với lãnh thổ rộng lớn bao phủ lục địa Á-Âu đang đưa ra những tín hiệu về sức mạnh mới được củng cố của mình. Thế nhưng điều ngược lại mới đúng: Trung Quốc và Nga càng ngày càng cố trương cơ bắp không phải vì họ mạnh mà chính vì đang yếu. Khác với nước Đức Nazi phát xít, sức mạnh trong nước của nó vào những năm 1930 đã tiếp nhiên liệu cho hành động xâm lược quân sự ở nước ngoài. Còn những thế lực xét lại của ngày hôm nay thì đang trải qua hiện tượng ngược lại. Ở Trung Quốc và Nga tình trạng bất ổn trong nước đang nuôi dưỡng tâm lý hiếu chiến. Điều này đánh dấu một bước ngoặt lịch sử: lần đầu tiên kể từ khi bức tường Béc linh sụp đổ Hoa Kỳ lại thấy mình đang cạnh tranh với các siêu cường.
Thực trạng kinh tế ở cả Trung Quốc và Nga đều đang xấu đi một cách không cưỡng lại được. Kể từ khi giá năng lượng sụt giảm vào năm 2014 nước Nga liền bị cuốn vào một cuộc suy thoái nghiêm trọng. Trung Quốc trong khi đó đã bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ được hứa hẹn sẽ là một cuộc chuyển đổi dữ dội để chia tay với tốc độ tăng trưởng GDP hai con số; sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán vào mùa hè năm 2015 và tháng Giêng 2016 chắc chắn chỉ là một sự nếm trải đôi chút trước khi bước vào những cuộc đổ vỡ tài chính sắp diễn ra.
Khả năng xảy ra những bất ổn kinh tế ngày càng gia tăng ở cả hai quốc gia nêu trên đã khiến cho vấn đề ổn định chính trị nội bộ của chúng không còn là chuyện mặc nhiên nữa. Trong kỷ nguyên của truyền thông xã hội và những cuộc thăm dò ý kiến không ngớt trên mạng thì ngay cả những nhân vật chuyên quyền như Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Vladimir Putin vẫn cảm thấy cần sự ủng hộ của quần chúng. Các vị lãnh tụ đó chắc chắn có cảm giác bất an sâu sắc bởi lẽ đất nước của họ từ xa xưa hầu như luôn bị bao vây bởi kẻ thù, những đội quân xâm lược lăm le vượt qua các vùng bình nguyên rộng mở. Trên thực tế họ đang thấy khó khăn hơn trong nỗ lực kiểm soát lãnh thổ bao la của mình khi có những phiến quân tiềm tàng hình thành trên những vùng đất xa xôi
Thế giới đã chứng kiến hình thức hỗn loạn, vô chính phủ khi mà các cuộc xung đột sắc tộc, chính trị, giáo phái có thể gây ra trong các quốc gia với quy mô vừa và nhỏ. Thế nhưng triển vọng gần như là hỗn loạn và vô chính phủ tại hai siêu cường đang vật lộn về những vấn đề kinh tế lại là điều đáng lo ngại hơn nhiều. Khi tình hình ở trong nước xấu đi Trung Quốc và Nga chắc chắn sẽ gia tăng xu hướng xuất khẩu các rắc rối của mình với hy vọng rằng chủ nghĩa dân tộc sẽ đánh lạc hướng những công dân đang bất bình và giúp tập hợp quần chúng. Hình thái hiếu chiến này đã tạo ra một vấn đề đặc biệt khó khăn đối với các quốc gia phương Tây. Ở những nơi mà chiến tranh xâm lược được dẫn dắt bởi sức mạnh trong nước thì cuộc chiến đi theo chiến lược có phương pháp luận và được lên kế hoạch kỹ lưỡng cho nên các quốc gia khác có thể giải thích và có đối sách phù hợp. Thế nhưng nếu cuộc chiến đó lại được châm ngòi bởi khủng hoảng nội bộ thì hành vi của nó vừa táo bạo, mang tính phản ứng, hấp tấp bốc đồng nên rất khó dự đoán và đối phó.
Trong khi các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ dự tính sự đáp trả thái độ thù địch ngày càng gia tăng của Bắc kinh và Moscow thì nhiệm vụ đầu tiên của họ là tránh khiêu khích một cách không cần thiết các siêu cường cực kỳ nhạy cảm và đang suy tàn bên trong. Có nghĩa là họ không được đứng làm ngơ khi Trung Quốc và Nga vẽ lại đường biên giới quốc tế và các hải phận. Câu trả lời sẽ là gì ? Washington cần đặt ra lằn ranh đỏ một cách rõ ràng, liên lạc kín đáo và sẵn sàng hỗ trợ bằng sức manh quân sự nếu cần thiết.
Mối hiểm nguy ở Moscow
Một phần cũng vì các vấn đề kinh tế của nước Nga nghiêm trọng hơn của Trung Quốc rất nhiều nên chính sách gây hấn của Nga cũng trắng trợn hơn. Sau thời kỳ cầm quyền đầy hỗn loạn của Tổng thống Yelsin chấm dứt vào năm 1999 Putin đã củng cố quyền lực trung ương. Do giá năng lượng tăng vọt nên Putin đã có thể khai thác nền kinh tế giàu tài nguyên dầu mỏ để hình thành vùng ảnh hưởng tại các quốc gia thuộc Liên xô cũ và khối quân sự Vácsava. Mục tiêu của Putin rất rõ ràng: đó là phục hồi đế quốc trước đây.
Nhưng bởi vì trực tiếp cai trị thông qua các đảng cộng sản đã cho thấy cái giá phải trả là quá cao nên Putin thiên về một loại hình thức gián tiếp của chủ nghĩa đế quốc. Thay vì gửi quân đội tới những lãnh địa cũ trước đây, Putin cho xây dựng mạng lưới hoành tráng các đường ống dẫn dầu, hỗ trợ các nhà chính trị ở các quốc gia láng giềng theo nhiều cách, tiến hành các chiến dịch tình báo và sử dụng bên thứ ba để mua chuộc và kiểm soát truyền thông địa phương. Chỉ mới gần đây Putin mới hành động không úp mở trên một số mặt trận, chắc chắn cũng vì được khuyến khích bởi sự thiếu vắng hành động đáp trả của phương Tây đối với chiến dịch quân sự của Nga tại Gruzia năm 2008. Hồi đầu năm 2014 các lực lượng quân đội Nga chiếm Crimea và các lực lượng dân quân vũ trang ủy nhiệm của Nga đã khởi phát cuộc chiến tranh vùng phía Đông Ucraina. Cuối năm 2015 Putin đưa quân đội Nga tham gia cuộc nội chiến ở Syria chủ yếu là để giải cứu chế độ của Basha al- Assad nhưng cũng vì một mục tiêu rộng lớn hơn đó là phục hồi lại vị thế của Moscow ở Levant và tìm kiếm thế đòn bẩy với khối EU bằng cách gây ảnh hưởng qua dòng người tỵ nạn đến châu Âu.
Năm 2014 giá dầu tụt dốc, các nước Trung và Đông Âu tiếp tục cự tuyệt mua khí đốt Nga, mức tăng trưởng toàn cầu thấp làm giảm nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu và các tài nguyên thiên nhiên khác của Nga. Thêm vào đó là chính sách cấm vận gây nhiều thương tổn cho Nga do phương Tây đưa ra. Kết quả là sự bùng nổ toàn diện của một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc đồng Rúp mất gần một nửa giá trị so với đồng Đôla kể từ năm 2014. Năm nay, GDP của Nga tăng trưởng gần 0 % và tính đến quý 3 năm 2015 nền kinh tế bị co lại hơn 4%. Tám tháng đầu năm 2015 lượng đầu tư giảm 6% và khối lượng xây dựng giảm 8%.
Không phải tình cờ mà những cuộc phiêu lưu quân sự lại diễn ra cùng lúc với xu hướng đảo chiều rõ nét của sức mạnh kinh tế Nga.
Các vấn đề kinh tế của Nga đã lún sâu trong khủng hoảng khiến các nhà lãnh đạo có ít lựa chọn dễ dàng để khắc phục. Đã nhiều thập kỷ Nga chỉ dựa vào xuất khẩu tài nguyên và ngành sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ thị trường nội địa (bởi vì có ít người nước ngoài muốn mua các sản phẩm phục vụ dân sự của Nga). Trừ một vài loại tài sản có tính khoe khoang thì khu vực dịch vụ của Nga vẫn còn ở tầm mức kém phát triển. Bởi lẽ Putin và nhóm cố vấn chưa bao giờ quan tâm xây dựng các thể chế công dân và xã hội dân sự hay kinh tế thị trường đích thực nên tham nhũng và nền kinh tế được dẫn dắt bởi mafia ở nước Nga hôm nay cho thấy một sự tương đồng kỳ quái với nền kinh tế Xô viết cũ.
Quay trở lại những năm 1980 khi nền kinh tế lâm vào khủng hoảng Mikhail Gorbachov đã ứng phó bằng cách cởi mở hệ thống chính trị và điều này bị trả giá bằng tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ và sụp đổ của đế chế Nga. Putin đã thấm thía bài học đó nên quả quyết làm điều ngược lại: đóng chặt cửa hệ thống chính trị đồng thời hướng sự quan tâm của công chúng vào những màn khoa trương sức mạnh Nga ở các vùng ngoại biên lân cận. Putin là một cựu sĩ quan tình báo mà không phải là một quan chức bàn giấy,do đó mặc dù vẫn ấp ủ nỗi ác cảm và hận thù liên quan tới vị thế của nước Nga trên thế giới ông ta đã không tự lừa dối mình về những vấn đề nội bộ của nước Nga. Khi mà nền kinh tế Nga tiếp tục sa sút, Putin hiểu rõ rằng để có được sự ủng hộ trong nước thì chính sách đối ngoại của ông ta phải tỏ ra sáng tạo và có tính toán hơn, thậm chí mang tính hòa giải một cách lừa dối tùy vào từng thời điểm. Thời gian trước mắt sẽ hãy nhìn vào viễn cảnh ông ta phá hoại khối NATO và EU ngay cả khi Nga cam kết giúp đỡ phương Tây chống nhà nước Hồi giáo ISIS. Càng nhiều hỗn loạn ở nước ngoài mà Putin tạo ra thì sự ổn định trong nước rất có giá trị đối với nhà nước chuyên chế lại càng có thêm cơ hội xuất hiện. Người dân Nga có thể biết trên lý thuyết một cách trừu tượng rằng xã hội tự do thì vẫn được ưa thích hơn nhưng họ lại sợ những rủi ro của một sự chuyển đổi.
Cố gắng tới mức có thể được nhưng Putin không có khả năng che chắn cho chế độ của ông ta khỏi bụi phóng xạ của sự sụp đổ kinh tế. Sự thất vọng sẽ nuôi cấy mầm mống của tình trạng lục đục đấu đá nội bộ hàng ngũ lãnh đạo cấp cao trong việc chia chác nguồn bổng lộc dồi dào.Sự thiếu vắng các thể chế đủ mạnh hiện nay cũng như bản chất tập trung cao độ nhưng bấp bênh, dễ đổ vỡ của chế độ khiến một cuộc lật đổ cung đình như đã xảy ra với Nikita Khrushov năm 1964 là không thể và nước Nga xét về phương thức quản trị vẫn là một nhà nước Xô viết.
Đất nước này từng trải qua quá trình tan vỡ của chế độ chuyên chế diễn ra tiếp theo sau tình trạng hỗn loạn (trong và sau cuộc Cách mạng tháng 10), và có thể giờ đây khi sự rối loạn lên cao đến mức nào đó sẽ đủ để chia tách nó lần nữa. Khu vực Bắc Cavcaz chịu ảnh hưởng nặng của Hồi giáo, cùng với những vùng đất ở Siberi và Viễn Đông thuộc Nga ở xa trung tâm lại từng chịu gánh nặng của các chính sách tàn bạo, đẫm máu có thể sẽ nới lỏng mối quan hệ với Moscow khi tình trạng mất ổn định diễn ra ngay chính bên trong điện Kremlin. Hậu quả có thể là một kịch bản kiểu Nam tư cũ: bạo lực và chủ nghĩa ly khai bắt đầu từ một chỗ sau đó lan ra khắp nơi. Khi mà Moscow mất kiểm soát thì phong trào Hồi giáo Jihadist sẽ tận dụng cơ hội để lấp chỗ trống và sẽ tiến vào những vùng xa trung tâm của nước Nga và cả Trung Á nữa.
Nghe đã thấy tồi tệ nhưng sự việc có thể còn xấu hơn nữa. Trở lại với năm 1991 nhà trí thức Balan Adam Michnik đã tiên đoán rằng các nhà lãnh đạo tương lai của Nga và Đông Âu sẽ lấp đầy khoảng trống do sự sụp đổ của CNCS để lại bằng một thứ “ chủ nghĩa dân tộc thô thiển và sơ khai”. Putin trong những năm gần đây đã theo đuổi thứ chủ nghĩa đó và đã rất ranh mãnh, quỷ quyệt chống lưng cho phong trào đòi ly khai ở Abkhzia, Donbas, Nagorno- Karabakh, Nam Ossetia và Transnistra để tạo ra những cuộc xung đột dễ dàng phủ nhận. Kết quả là đã hình thành các “tiểu nhà nước’ (statelets) kiểu như sứ quân . Trong những năm tới Putin rất có thể sẽ kích động một cách có lựa chọn các cuộc xung đột được gọi là “ xung đột đóng băng “ (frozen conflict) và lần này sẽ là các quốc gia vùng Baltic thành viên NATO ( những quốc gia này có đông người Nga sinh sống và vẫn được Moscow coi là những tỉnh bị mất). Trong khi đó, Putin sẽ nỗ lực chơi con bài châu Âu cần Nga ủng hộ ở Syria thì sẽ buộc phải công nhận việc sáp nhập Crimea và quyền kiểm soát của ông ta ở Đông Ucrain như một sự đã rồi.
Tuy nhiên đúng lúc cần phải có câu trả lời mạnh mẽ nhất thì dường như Châu Âu lại không thể làm như vậy. Theo một góc độ nào đó thì cuộc khủng hoảng ở Nga cũng đang song hành với khủng hoảng ở Châu Âu và cũng khiến châu lục này bị phân chia thành các khu vực trung tâm và phụ cận.
Mặc dù đã có sự điều chỉnh của Ngân hàng Trung ương châu Âu cùng các biện pháp khác, thời điểm tăng trưởng thấp toàn cầu xảy ra cùng với sự bất lực của châu Âu tiến hành các cải cách mang tính nền móng đã cho thấy cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị của Châu Âu sẽ còn kéo dài. Bằng việc làm cho các quốc gia hoảng sợ mà củng cố lại đường biên giới, cuộc khủng hoảng người nhập cư và chủ nghĩa khủng bố cũng sẽ làm cho sự chia rẽ EU thêm trầm trọng và không tránh khỏi là chính khối NATO.
Một sự không thống nhất như vậy sẽ khiến cho nỗ lực ngăn chặn Nga của Châu Âu trở nên ngập ngừng và thiếu tổ chức hơn những gì hôm nay đang được thực hiện. Khi mà NATO suy yếu đi các quốc gia trước kia là thành viên của khối quân sự VACSAVA sẽ quay sang Hoa Kỳ vì sự an toàn của mình. Các quốc gia đó cũng sẽ phân chia thành các nhóm nhỏ như đã biết đó là: Balan, các nước Baltic và Scandinavia đang thành lập liên minh có tính chất ngăn chặn sự xâm lược của Nga. Nhóm Visegrad bao gồm Cộng hòa Czech, Hungary, Balan và Slovakia đang hình thành ngày một rõ nét hơn theo góc độ hiệp thương chính trị và quân sự. Một sự chia rẽ nữa đó là đường ống dẫn khí đốt Nord Stream 2 dự kiến đi xuyên qua biển Baltic từ Nga tới thẳng Tây Âu mà không qua Trung và Đông Âu. Tại tất cả các quốc gia đó, tăng trưởng kinh tế chậm sẽ thúc đẩy các phong trào dân tộc chủ nghĩa của cả cánh tả lẫn cánh hữu như là những nạn nhân của các kỳ vọng kinh tế không được thỏa mãn.
Bắc kinh trên bờ vực thẳm
Tốc độ tăng trưởng thấp cũng khiến Bắc kinh tìm cách đẩy các mâu thuẫn phát sinh do những yếu kém nội bộ ra bên ngoài. Từ giữa những năm 1990 Bắc kinh đã nỗ lực xây dựng quân đội trang bị công nghệ cao, coi trọng phát triển các tàu ngầm, máy bay chiến đấu và tên lửa đạn đạo hiện đại cùng các đơn vị chiến tranh tin học. Cũng giống như Hoa Kỳ đã nỗ lực đẩy các cường quốc Châu Âu ra khỏi vùng biển Caribe vào thế kỷ XIX, Trung Quốc hiện nay đang tìm cách đẩy Hoa Kỳ ra khỏi biển Hoa Đông và biển Nam Trung Hoa (Biển Đông – ND). Láng giềng của Trung Quốc ngày càng trở nên lo ngại: Nhật Bản coi sự bành trướng của hải quân Trung Quốc là mối đe dọa hiện hữu nên đã quyết định từ bỏ chủ nghĩa hòa bình (theo đuổi từ sau bại trận trong Đại chiến Thế giới II – ND) và nâng cấp các lực lượng vũ trang. Malaysia, Philippines, Singapore và Việt nam đều tiến hành hiện đại hóa quân đội của mình. Có điều gì đó đã khuấy động vùng biển từng tương đối yên tĩnh và là nơi Hoa Kỳ chiếm thế thượng phong suốt thời Chiến tranh Lạnh. Một môi trường hàng hải ổn định nơi từng chỉ có một thế lực kiểm soát nay đã bắt đầu trở nên bất ổn và đa cực.
Cũng giống như Nga, sự hung hăng của Trung Quốc ngày càng thể hiện não trạng của giới chóp bu quyền lực khi mà nền kinh tế đã khựng lại sau mấy thập kỷ thăng tiến. GDP hàng năm đã giảm từ 2 chữ số là con số thịnh hành trong suốt 10 năm đầu của thế kỷ này xuống con số chính thức 6,9% trong quý III năm 2015, tất nhiên con số thực không nghi ngờ sẽ phải thấp hơn. Tình trạng bong bóng bất động sản và thị trường chứng khoán đã bắt đầu vỡ bung cùng vô số những mất cân đối khác trong nền kinh tế sử dụng quá mức các đòn bẩy, đặc biệt là khu vực ngân hàng thiếu minh bạch.
Trong khi đó các căng thẳng sắc tộc ngày một gia tăng tại quốc gia rộng lớn này. Ở một mức độ nhất định, Trung Quốc – đất nước do người Hán chiếm đa số là một nhà tù đối với các sắc tộc khác, trong đó có người Mông cổ, người Tibet và Uighu và tất cả họ đều chống đối lại sự kiểm soát của trung ương với các cấp độ khác nhau. Hiện nay các chiến binh Uighu là mối đe dọa ly khai trực tiếp nhất, một số đã được đào tạo ở Iraq, Syria và vì họ có liên lạc với phong trào Jihardist toàn cầu nên mối nguy sẽ ngày một gia tăng. Trong những năm gần đây đã bùng phát các vụ đánh bom có liên quan tới chủ nghĩa ly khai Uighu ở tỉnh Quảng Tây – một điểm trung chuyển trên con đường buôn lậu dẫn đến Việt nam chứng tỏ chủ nghĩa khủng bố sẽ không còn bị giới hạn trong các vùng dân tộc thiểu số ở phía Tây Trung Quốc nữa. Bắc kinh đã nỗ lực xoa dịu các phong trào đó bằng sự phát triển kinh tế, ví dụ như con đường tơ lụa vành đai kinh tế của Trung Quốc đi qua Trung Á đang được đề xuất nhằm làm xói mòn nền móng của chủ nghĩa ly khai Uighu nơi đây.Tuy nhiên nếu như dự án khổng lồ này bị đuối sức do bản thân nền kinh tế Trung Quốc suy giảm thì chủ nghĩa ly khai có thể sẽ bùng phát thành bạo lực mạnh hơn.
Còn hơn cả Putin, họ Tập từng trải qua nhiều năm công tác đảng ở vùng nội Mông nên hẳn còn nuôi dưỡng một số ảo tưởng về những vấn đề kinh tế trầm trọng của Trung Quốc. Tuy vậy điều đó không có nghĩa là ông ta biết cách giải quyết chúng. Họ Tập đã đối phó lại tình trạng kinh tế trở nên hỗn loạn bằng cách dựa vào chủ trương chống tham nhũng. Quả thực chiến dịch này (đả hổ, diệt ruồi – ND) đã chủ yếu diễn ra như một cuộc thanh trừng chính trị lớn giúp Tập Cận Bình thâu tóm quyền lực về an ninh quốc gia. Vì giờ đây các quyết định không còn do tập thể thông qua như trước kia nữa nên họ Tập có toàn quyền hướng những bất ổn trong nước ra bên ngoài dưới hình thức xâm lược. Trong 3 thập kỷ vừa qua lãnh đạo Trung Quốc đã tỏ ra tương đối dễ đoán nhận, không thích mạo hiểm và mang tính tập thể. Thế nhưng hiện nay tình hình chính trị nội bộ Trung Quốc đã trở nên rất không an lành như xưa.
Những tham vọng của Trung Quốc còn vươn xa hơn tham vọng của Nga nhưng lại không khiến phương Tây lo ngại bởi lẽ chúng được đưa ra một cách tao nhã, khéo léo.Trong khi Putin đưa đội quân côn đồ đeo mặt nạ trượt tuyết đột kích và cướp bóc miền Đông Ucraina thì sự xâm lược của họ Tập lại diễn ra với quy mô nhỏ hơn nhiều, tăng dần theo từng bước một khiến Hoa Kỳ khó điên đầu khi đối phó để làm sao không bị coi là phản ứng quá mức cần thiết. Họ Tập phái lực lượng hải giám cùng tàu thuyền thương mại (chứ không phải toàn lực lượng hải quân) để quấy rối tàu chiến Philippines, đưa dàn khoan vào vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt nam (nhưng chỉ trong vài tuần lễ), thực hiện các dự án cải tạo mở rộng đảo chiếm đóng trái phép và các bãi đá ngầm (tất cả đều không có người ở). Và kể từ khi các hành động nguy hiểm đó diễn ra trên biển không thấy thấy chúng gây ra những nỗi gian khó cho thường dân và trên thực tế đã không có thiệt hại về binh lính (thực tế Trung Quốc đã gây ra nhiều thiệt hại về người và tài sản đối với ngư dân Việt nam.Đó là những hành động của cướp biển và việc tác giả Robert Kaplan chưa thấy hết tính nghiêm trọng của tình trạng này phải chăng cũng có phần trách nhiệm của thông tin đối ngoại Việt nam thời gian qua đã bỏ ngỏ mặt trận vận động sự ủng hộ quốc tế ? – ND).
Những động thái khác của Trung Quốc thì ít khéo léo và tinh tế hơn. Ngoài việc gia tăng các yêu sách về hàng hải, Trung Quốc đang xây cầu, đường sắt và đường ống dẫn dầu dẫn sâu vào vùng Trung Á đồng thời hứa hẹn đầu tư hàng chục tỷ Đô la vào hành lang giao thông kéo dài từ miền Tây Trung Quốc đi qua Pakistan để tới Ấn độ dương, nơi mà Trung Quốc đã tham gia vào các dự án cảng biển từ Tanzania cho tới Myanma. Nhưng một khi các khó khăn kinh tế ngày một trầm trọng thì sự tao nhã của hành vi xâm lăng có thể bị lột bỏ và được thay thế bởi những hành động thô bạo và hấp tấp, nóng nảy hơn. Họ Tập sẽ khó cưỡng lại sự cấp thiết phải sử dụng các tranh chấp hàng hải ở Châu Á để tiếp thêm nhiên liệu cho chủ nghĩa dân tộc – sức mạnh đem lại giải pháp gắn kết một xã hội đang bị đe dọa trở nên chia rẽ.
Nhiều khả năng nguy cơ của khủng hoảng đang ngày một hiển hiện tại các quốc gia Trung Á: Kazkhstan, Kyrgystan, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan. Trạng thái ổn định kéo dài của các quốc gia chuyên chế này đã giúp Trung Quốc dễ dàng kiểm soát những cộng đồng thiểu số Trung Á của mình hơn. Tuy nhiên thời thế có thể đang thay đổi. Một vài chế độ trong số đó kể từ khi chiến tranh lạnh kết thúc vẫn còn đang được dẫn dắt bởi những Ban chấp hành Trung ương kiểu thời kỳ Brezhnev. Các lãnh tụ đó nay đã già nua, câu hỏi về tính pháp lý của những chế độ đó đang được đặt ra trong khi kinh tế của chúng vẫn bị cột chặt vào các cỗ máy đang giảm tốc là Trung Quốc và Nga,dân số thì ngày càng bị Hồi giáo hóa. Vùng Trung Á, nói theo một cách khác, có thể đang chín muồi cho một sự bùng nổ theo kiểu Mùa Xuân Ả Rập.
Cùng đối mặt với suy thoái kinh tế và những đe dọa mang tính địa- chính trị, Trung Quốc và Nga có khả năng tạo dựng mối quan hệ mang tính đồng minh chiến thuật dựa trên những tương đồng giữa hai nhà nước chuyên chế, hướng tới quản lý vấn đề các vùng biên giới để cùng chống lại phương Tây. Kết quả của quá trình này là vào tháng 11 năm ngoái, hai bên cuối cùng đã giải quyết được cuộc tranh cãi từ lâu nay về biên giới với việc Nga trả lại cho Trung Quốc một dải đất nhỏ vùng Viễn Đông mà Trung Quốc vẫn nêu yêu sách. Tuy nhiên quá trình chuyển giao đã gây nên công phẫn ở cả hai nước: người dân thường Nga phản đối sự nhu nhược của điện Kremlin còn nhiều người Trung Quốc than phiền rằng họ đòi được ít đất quá. Ở đây một lần nữa ý kiến đám đông có thể ép buộc các chế độ chuyên chế, trong trường hợp này nó đã ngăn cản khả năng hai nhà nước chuyên chế hình thành một liên minh trục lợi.
Sự hỗn loạn sắp diễn ra
Quyền lực tập trung – ai có nó và ai thực thi nó là một vấn đề mang tính địa – chính trị thời nay. Chế độ chuyên chế tập trung bao trùm một vùng rộng lớn vốn là một vấn đề cần phải bàn và hơn nữa nó lại hiện diện trong một không gian mà ý thức về sắc tộc, tôn giáo và cá nhân đang ngày một được nâng cao, đồng thời truyền thông điện tử có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc thể hiện những nỗi bất bình, bức xúc mang tính riêng biệt. Không có gì là ngạc nhiên khi khu vực lục địa Á-Âu đang trở nên ngày một phức tạp hơn trước.
Các nhà hoạch định chính sách ở Washington có lẽ tốt hơn hết là nên bắt đầu lên kế hoạch để đối phó với những hỗn loạn tiềm tàng sắp diễn ra : đảo chính ở Kremlin, một bộ phận của nước Nga sẽ tách ra, phong trào khủng bố Hồi giáo cực đoan ở Tây Trung Quốc, cuộc đấu tranh phe phái quyền lực ở Bắc kinh và những lộn xộn về chính trị ở Trung Á, mặc dù hiện nay thì chưa chắc nhưng tất cả đều trở nên ngày càng có thể. Bất kể hình thái hỗn loạn nào xảy ra thì chắc chắn rằng Hoa Kỳ sẽ buộc phải vật lộn khó khăn với các vấn đề mới phát sinh hoặc kiểu này hoặc kiểu kia. Ai sẽ quản lý kho vũ khí hạt nhân của nước Nga nếu như ban lãnh đạo của quốc gia này chia rẽ? Hoa Kỳ sẽ bảo vệ nhân quyền ở Trung Quốc như thế nào khi chế độ này đàn áp sự nổi dậy từ bên trong?
Hoạch định chính sách để đối phó với những điều bất ngờ như thế khác với lên kế hoạch cuộc chiến giải phóng Iraq. (Nếu như Trung Quốc và Nga một khi nào đó có chính phủ dân chủ hơn thì người dân của họ sẽ tự đóng góp vào sự thay đổi). Tuy vậy điều này không có nghĩa là khả năng xảy ra hỗn loạn sẽ được giảm thiểu. Và để ngăn chặn cuộc khủng hoảng về an ninh hãi hùng có khả năng xảy ra đó Washing ton sẽ cần phải đề ra một lằn ranh đỏ rõ ràng. Bất kỳ khi nào cần thiết đều có thể liên lạc theo lằn ranh đó một cách riêng tư mà không mang tính tranh dành quyền lực. Mặc dù những kẻ gây rắc rối ở Quốc hội Hoa Kỳ dường như không thực thi điều này nhưng Hoa Kỳ sẽ chẳng được lợi gì từ việc dùng những lời nhục mạ để chọc tức các chế độ đang lo sợ bị mất mặt ở trong nước.
Trong trường hợp nước Nga, Hoa Kỳ yêu cầu dừng khởi xướng các cuộc” xung đột đóng băng”. Khi mà Putin có ý định phân tán sự chú ý của người dân Nga khỏi các vấn đề kinh tế khó khăn thì ông ta sẽ thấy hấp dẫn hơn việc kích động tình trạng lộn xộn ở các nước láng giềng. Lithuania và Mondova có thể đứng đầu danh sách các mục tiêu tiềm năng được Putin ngắm đến do nạn tham nhũng và sự non yếu của các chính phủ dân chủ nơi đây.(Mondova đã gần tới tình trạng hỗn loạn về chính trị, tham nhũng ở Lithuania tuy vậy còn kém xa Moldova- ND). Cả hai quốc gia này đều có giá trị chiến lược về địa- chính trị: Mondova có thể là cửa ngõ cho Nga tiếp cận vùng Balkan còn Lithuania là cầu nối trên bộ dẫn đến thành phố Kaliningrad thuộc Nga nhưng lại nằm tách biệt. Đối với Putin các cuộc xung đột đóng băng có lợi thế ở chỗ đó là cuộc chiến không tuyên b
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét