MẸ VÀ CA DAO
* Nhân mùa Vu Lan
Mẹ,
xưa nay vẫn là đề tài được mọi người đề cập đến với lòng mến mộ sâu sắc. Với
Việt Nam ta, dù vốn chịu ảnh hưởng nặng nề văn hoá Trung Quốc,
nhưng chữ hiếu lại được nhắc nhở nhiều hơn, phong phú ở Trung Quốc trong lãnh
vực văn chương truyền khẩu.
Ở
quốc gia nào cũng vậy, hễ nói đến mẹ, là
nói đến, sự hi sinh, chịu khổ cực chịu khó trăm bề để nuôi con khôn lớn. Người
Trung Hoa có câu: “ Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu, sanh ngã cù
lao”. Người Tây phương thì nói: “ Trên thế giới có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan
nhất là tái tim của người mẹ”. Việt Nam ta cũng không biết bao nhiêu
văn từ sùng bái tấm lòng người mẹ, mà ca dao là một trong những kho tàng văn
chương ca ngợi công đức người mẹ vô cùng vô tận:
“Công
cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Công cha to như núi lớn, nghĩa mẹ như nước nguồn bất tận!
Đó là lời dạy dỗ đầu tiên cho chúng ta khi còn chưa đến tuổi đến trường, mà ai ai cũng thuộc nằm lòng!
Bởi vậy khi lớn lên, khi có vợ có chồng, không ai lại không
nhớ đến công ơn của mẹ hiền: “Ngồi buồn
nhớ mẹ thuở xưa/Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”. Bởi vậy, khi cha mẹ qua đời, người con mới thấm thía cho
sự bật hạnh của mình: “Còn cha còn mẹ như
tiên/Mất cha mất mẹ như chim lạc đàn”
Với người con gái, chưa lúc nào rời mẹ, nhưng rồi một khi khăn gói theo chồng;
cảm thương phận mình, rồi nhớ phận mẹ mẹ ngày xưa; niềm nhớ ấy càng tha thiết: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau/Trông vế quê
mẹ ruột đau chín chiều”. Hay: “Chiều
chiều chim vịt kêu chiều/Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau!”.
Có lẽ khó kiếm những từ trừu tượng để diễn tả ý tình người
mẹ, nên cần phải cụ thể hoá tấm lòng mẹ cho dễ hiểu: “Mẹ già như chuối ba hương/Như xôi nếp mật, như đường mía lau”
Hy sinh cả cuộc đời cho con, nên thường xuyên vì giấc ngủ
an lành của con mà mẹ phải thức suốt đêm là chuyện thường tình: “Gió mùa thu mẹ ra con ngủ/Năm canh chầy thức đủ năm canh”. Sự
hy sinh của mẹ được khẳng định là một chân lý không chối cãi được: “Chim trời ai dễ đếm lông/Nuôi con ai dễ kể
công tháng ngày”.
Mẹ thường lo cho con từng miếng cơm manh áo; đến khi vì lý
do gì đó mà người con phải xa mẹ, họ mới thấy thế nào là vất vả: “Gió đưa cây cửu lý hương/Giờ con xa mẹ thất thường bữa ăn”. Bởi vậy người con một lần
nữa lại khẳng định công lao của mẹ như núi cao, là một chân lý bất di bất dịch,
nhất là khi đã có con, cực khổ vì con mình: “Lên
cao mới biết non cao/Nuôi con mới biết công lao mẫu từ”
Trong sinh hoạt hằng ngày đâu đâu cũng có bàn tay mẹ, cho
nên khi mẹ mât rồi, việc nhang khói ông bà cũng không người nhắc nhở: “Ngó lên nhang tắt đèn mờ/Mẫu thân mất sớm,
bà thờ quạnh hiu”
Nuôi con mới biết được công lao của cha mẹ; cho nên sự giáo
dục con cái về chữ hiếu, luôn được nhắc nhở đến: “Công cha như núi ngất trời/Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông/Núi cao
biển rộng mênh mông/Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”.
Hay đem sự quả báo trước mắt mà răn đe: “Con mà chẳng kể mẹ cha/chẳng vương hoạ nọ,
cũng là tai kia”
Không những dạy con cháu phải có hiếu với cha mẹ; mà cả
người yêu, vợ chồng cũng thường khuyên bảo, dặn dò nhau: “Anh
đi cách trở sơn hà/Bậu coi cửa nhà,
kính mẹ , dạy con”. Nếu chẳng may gặp ông chồng lêu lổng, thì người vợ,
người yêu, không ngại ngùng gì mà không oán trách: “Mẹ già đầu bạc như bông/Sao anh không phụng dưỡng, mà rong chơi hoái!”
Cũng không tiếc lời mỉa mai cho những người con xem việc
nuôi cha mẹ, như là một ân huệ ban cho đấng sanh thành: “Mẹ nuôi con biển hồ lai láng/Con nuôi mẹ thì tính tháng tính ngày”. Nhưng may mắn thay!, đại đa số
người Việt ta đều xem chữ hiếu là trọng: “Mẹ
già ở túp lều tranh/Sớm thăn tối viếng
mới dàmh dạ con”. Cũng chưa đủ, những người con có hiếu nầy đêm đêm còn cầu
nguyện cho mẹ cha khoẻ mạnh , sống lâu
với con cái: “Mỗi đêm thắp ngọn đèn
trời/Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Với miếng ăn, người con có hiếu cũng cẩn thận, lọc lừa sao
cho mềm, cho ngon, vì mẹ đã già yếu, răng mẹ không còn chắc cứng như xưa: “Đói lòng ăn trái chà là/Để
com nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”. Hoặc là: “Tôm
càng lột vỏ, bỏ đuôi/Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già”. Và cảm động làm
sao, khi mà: “Đói lòng ăn cháo khoai
môn/Để cơm nuôi mẹ cho tròn hiếu trung”.
Rồi nghĩ mà giận cho ai, khi cha mẹ còn sống chẳng chịu
phụng dưởng; đến khi cha mẹ chết, lại bày biện cúng tế linh đình hầu phời bày
cái “hiếu” giả tạo của mình:“Sống thì cơm
chằng cho ăn,Chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi”
Văn chương ca ngợi mẹ là cả kho tàng vô tận. Bài nầy chỉ là
hạt bụi nước trong hàng vô số nước trong đại dương bao la nói về mẹ hiền. Nhưng
cũng kỳ vọng làm mát lòng những ai đã tôn thờ mẹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét