NHỮNG SAI LẦM CỦA HOÀNG XUÂN HÃN TRONG BỘ SÁCH LÝ THƯỜNG KIỆT – Thái
Quốc Mưu
BÀI 1
Đôi dòng trước khi vào bài:
* Trong lãnh vực văn học, chúng
ta đừng vì học vị của những ông khoa bản mà “BỎ QUÊN” không phê bình những sai
lầm trong các tác phẩm của họ.
* Khi phê bình văn học, chúng
ta phải ra sức tìm tòi, tham khảo, tra cứu, lấy sự trung thực, lòng ngay thẳng
và lương thiện mà nhận định rồi chỉ rõ những chỗ sai lầm. Không nể nang, thiên
vị bất cứ kẻ nào! Nếu không làm được những điều đó, chẳng những chúng ta có tội
với tiền nhân mà còn có lỗi với những thế hệ mai sau.
Thái
Quốc Mưu.
Tiểu
sử Giáo sư, Học giả Hoàng Xuân Hãn (nguồn Internet):
“Học
giả Hoàng Xuân Hãn cùng thời với những tên tuổi lớn như Nguyễn Văn Huyên, Đào
Duy Anh…, cuộc đời học giả Hoàng Xuân Hãn phủ gần trọn thế kỷ XX và sự nghiệp
của ông cũng gần như phủ bóng hầu hết các lĩnh vực khoa học của nước nhà, cả
khoa học tự nhiên và xã hội.
Ông
sinh ngày 18/3/1908, mất ngày 10/3/1996 làng Yên Phúc, thuộc tổng Yên Hồ, nay
là xã Yên Hồ. Có sách viết sanh tại Kẻ Trổ, thuộc làng Nhân Thọ, tổng Yên Hồ,
huyện La Sơn, nay là xã Đức Nhân (Đức Thọ). Ông là hậu duệ của dòng họ Hoàng
Xuân nổi tiếng với Hoàng giáp Hoàng Trừng (đời thứ 5, đậu Hoàng giáp năm 1499).
Thuở nhỏ, ông học chữ Hán với cụ Tú Vạn, phụ thân ông. Về sau học chữ quốc ngữ
tại quê. Khi phong trào Cần vương tan rã, cha mẹ ông lâm cảnh nghèo khó, ra
Vinh nhận thầu nấu cơm cho trường Quốc Học để nuôi con.
Năm
1926, Hoàng Xuân Hãn đỗ bằng Thành Chung, ra Hà Nội thi vào Trường Bưởi, 1 năm
sau thì chuyển sang Khoa Toán, Trường Trung học Albert Sarraut. Năm 1928, sau
khi đỗ Tú Tài toàn phần, ông được nhận học bổng du học tại Pháp. Lần lượt thi
đỗ và theo học tại các trường đại học danh tiếng như: Sư phạm, Bách khoa,
Sorbonne, năm 1934, ông về nước với bằng kỹ sư cầu đường. Tiếp đó, ông trở lại
Pháp và đỗ bằng thạc sĩ Toán của trường Sorbonne năm 1935.”
Học giả
Hoàng Xuân Hãn viết rất nhiều bộ sách. Đáng chú ý và có lẽ nổi danh nhất là Bộ
Lý Thường Kiệt, xuất bản năm 1949. Đáng tiếc, trong bộ Lý Thường Kiệt có thể do
không có bản chánh để tra cứu, nên nội dung bộ sách nầy có rất nhiều chỗ bị sai
lầm cách oan uổng. Làm phí phạm công trình lớn lao của vị học giả đáng kính của
chúng ta.
***
Xin
trích một đoạn trong Phần Lý Thường Kiệt Đánh Tống, Hoàng Xuân Hãn, viết:
– “Một
nơi quan trọng thuộc trại Vĩnh Bình. Sách Lãnh
Ngoại Đại Đáp chép:
“Trại Vĩnh Bình kề Giao-chỉ, chỉ cách bằng một
con song mà thôi. Phía bắc sông có trạm Giao-chỉ (ở đất Tống). Phía
nam sông có đình Nghi-hòa. Đều là chỗ để buôn bán trao đổi, do chúa trại Vĩnh
Bình cai quản”.
Trong
khi “Lãnh Ngoại Đại Đáp” chép như sau:
– “Ung
châu Hữu giang Vĩnh Bình Trại dữ Giao Chỉ vi cảnh, cách nhất giản nhĩ!
Kỳ Bắc hữu Giao Chỉ dịch, kỳ Nam hữu Tuyên Hòa đình, tựu vi bác dịch trường”. (Dịch: Trại Vĩnh Bình ở vùng sông
Hữu giang, thuộc Ung châu, tiếp giới với Giao Chỉ, cách một khe suối thôi! Phía Bắc khe suối có
trạm (tên gọi là) Giao Chỉ, phía Nam suối có đình Tuyên Hòa, là nơi buôn bán
giao dịch).
(Lãnh
Ngoại Đại Đáp, Qu. V. Tài Kế môn. Ung châu Vĩnh Bình Trại bác dịch trường)
Hoàng
Xuân Hãn đã sai lầm khi ghi rằng đường ranh giới giữa Giao Chỉ và Trại Vĩnh
Bình là “một con sông”,
trong khi “Lãnh Ngoại Đại
Đáp” chép rõ là “một
khe suối”. Sông
và Khe Suối hoàn toàn khác nhau.
Ở phần
các địa danh, Hoàng Xuân Hãn viết
và chấm sai, vì thế trong nguyên tác có 16 địa danh trở thành 18 địa
danh:
16
địa danh trong nguyên tác:
– Thượng
Điện / Hạ Lôi / Ôn / Nhuận / Anh / Dao / Vật Dương / Vật Ác / Kế / Thành / Cống
/ Lục / Tần / Nhiệm động / Cảnh Tư / Hà Kỷ.
Dưới
đây là 18 địa danh do Hoàng Xuân Hãn chấm và viết sai:
Thượng-
điện / Hạ-lôi / Ôn-nhuận / Anh / Dao / Vật-dương / Vật-ác / Kế-thành / Cống / Lục / Tần / Nhậm / Động / Cảnh / Tư / Kỳ/ Kỷ / Huyện.
Sau đây
là những cái sai của Hoàng Xuân Hãn khi ngắt câu phân địa danh:
1). Kế tức là Kế động.
Ông
Hoàng Xuân Hãn lại nhập chữ Kế với chữ Thành liền ở sau, để trở thành “Kế-thành”.
2). Nhiệm động. (Nhiệm
cũng đọc âm Nhậm).
Hoàng
Xuân Hãn lại ngắt ra
thành 2 Địa danh là “Nhậm” và“Động” mà không biết rằng chữ “động” ở đây chỉ là cấp số hành chánh đi liền với chữ “Nhiệm” (hay “Nhậm”).
3). Cảnh Tư.
Hoàng
Xuân Hãn cũng ngắt ra
thành 2 địa danh “Cảnh”, “Tư”.
4)- Địa
danh “Kỳ” trong nguyên
tác không có.
5). Hà Kỷ huyện.
Hoàng
Xuân Hãn thiếu mất chữ “Hà”.
Và, Chữ huyện đứng sau tên “Hà Kỷ” để chỉ cấp số hành chánh, ông lại tách chữ Huyện ra và
cho nó thành một địa danh khác.
Những sơ
suất trên đây người viết trích dẫn để chứng minh những sai lầm và, đó là một
trong vô vàn những sai lầm khác trong bộ Lý Thường Kiệt.
***
Dưới
đây, xin nói về phần Việt Sử:
a)-
Về Lý Thái Tổ:
Trong Lãnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi, viết: “Lý Công Uẩn,
tên chữ là Triệu Diễn, con thứ của Lý Thuần An thuộc dòng dõi Lý Tung Tể tướng
nhà Hậu Tấn. Tung bị vu oan rồi bị hại. Con cháu phải đến phương nam tị nạn,
định cư ở Lý gia trang phía đông Loan Hải, quận Mân Châu. Để tránh bị truy nả
bèn đổi sang họ Lê đến
khi làm vua. Mãi đến sau khi thiên đô về Thăng Long mới lấy lại họ
Lý.”
Theo Lý Trang Chử Nội Lý Thị Phòng
Phả, viết: “Lý Công Uẩn, có tên khác là Lý Công Tố, hiệu Triệu Diễn,
giỏi võ công, giỏi văn chương. Từ nhỏ theo cha di cư đến Bắc Giang, Giao Chỉ.
Công Uẩn được Lê Chí Trung dùng làm đại tướng, Năm Canh Tuất Chí Trung chết,
con Chí Trung còn nhỏ, em là Minh Sưởng giành ngôi, Công Uẩn giết Minh Sưởng tự
lập làm vua đất Giao Châu. Vợ họ Trần.”
Ngược
lại, trong Wekipedia, viết: “Dưới triều nhà Tiền Lê, Lý Công
Uẩn làm quan đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ là một chức quan võ chỉ huy quân đội
bảo vệ kinh đô Hoa Lư bấy giờ. Năm 1005, Lê Trung Tông bị em trai là Lê Long
Đĩnh sát hại, ông ôm Trung Tông khóc, Long Đĩnh cho rằng Uẩn là tôi trung, bèn
cho giữ chức quan Cận vệ. Đến năm 1009, Long Đĩnh qua đời, con trai còn nhỏ,
ông được lực lượng của Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh tôn làm Hoàng đế.”
Và, theo
truyền/huyền thuyết, trích từ Wekipedia:
1. “Phạm
Thái Hậu đi chơi núi Tiên Sơn, cùng với thần giao hợp mà sinh ra Lý Công Uẩn.
Lý Khánh Vân nuôi làm con, nhận là họ Lý. Bài ký ở chùa Tiên Sơn có nói:
"Thái Hậu cảm tinh anh của Bạch Hầu mà sinh ra Vua, nhà sư Vạn Hạnh rước
về nuôi."
2. “Mẹ
Lý Thái Tổ năm 20 tuổi nghèo hèn không có chồng, nương tựa người lão Sa môn ở
chùa Ứng Thiên, làm việc thổi nấu, khi lửa tắt và bà đương ngủ lơ mơ, lão Sa
môn ngẫu nhiên chạm phải, giật mình trở dậy rồi có thai mà sinh ra Vua.”
3. “Mẹ
Vua ở quanh quẩn trong rừng Cổ Pháp hốt nhiên chết, kiến, mối xông đất đẩy
thành mả, cao bảy thước được chỗ đất tốt chung linh. Đến bây giờ Vua về yết
lăng, trông thấy cây cối xanh tốt, loài chim bay liệng cảm động rớt nước mắt,
sai đo quanh mộ mỗi bên vài mươi thước làm cấm địa, sau này các triều có phụ
táng ở đó đều gọi là Thọ lăng.”
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư, viết: Lý
“Thái Tổ, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp, Bắc Giang. Mẹ là người họ
Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với thần giao hợp, rồi có chửa, sinh vua ngày
12 tháng 2 năm Giáp Tuất, niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 thời Đinh (974). Lớn
lên làm quan nhà Lê, thăng đến chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ”.
Còn Khâm Định Việt Sử Thông Giám
Cương Mục là bộ chính sử
của nhà Nguyễn do Quốc Sử Quán triều Nguyễn soạn thảo vào khoảng năm 1856-1884,
viết: “Công Uẩn, người Cổ Pháp Bắc Giang. Sinh ra đã thông minh sâu sắc, dung
mạo đẹp đẽ khác thường, khi nhỏ thường thụ nghiệp với sư Vạn Hạnh. Vạn Hạnh
thấy rất lạ mới nói rằng: “đây không phải người thường, ngày sau tất sẽ làm chủ
thiên hạ”.
Đại
Nam Nhất Thống Chí do
Quốc Sử Quán triều Nguyễn thời vua Tự Đức, viết: “Quê hương của Lý Công Uẩn là
Cổ Pháp thuộc Giao châu. Người mẹ họ Phạm ăn ở với “Thần nhân” mà sinh
ra… Nhưng khi lên ngôi Công Uẩn lại truy phong cha làm Hiển Khánh Vương, mẹ làm
Minh Đức Thái hậu. (Đất nước, dân tộc, tôn giáo, triều đại nào cũng tạo cho
mình một huyền thoại “không giống ai” để mê hoặc lòng người.)
Điều lạ
lùng là “lý lịch” của một đấng minh quân của đất nước mình mà sử sách viết cũng
không đồng nhất, thiếu xót quá nhiều, bịa đặt tùm lum… Chợt nghĩ vui, hay là
các nhà sử học nước ta muốn dạy cho hậu duệ của mình cái trò gian gian, trá trá
như “Ai kia” tung hỏa mù tiểu sử để dối lừa tộc Việt?
b)-
Về danh tướng Lý Thường Kiệt:
Hầu hết,
sử Việt chỉ viết Lý Thường Kiệt mà không
ghi rõ Lý Thường Kiệt tên thật là Lý Thượng Cát, nguyên là một Hoạn Quan.
Hai
tiếng Hoạn Quan dùng chỉ những người yêu nước tự cung (tự thiến) để không vướng
bận gia đình, với ý muốn gần gũi vua hầu phục vụ đất nước cách tích cực. Còn
thái giám là thành phần bị cưỡng bức cung hình để ngăn chận mọi quan hệ với
phái nữ cùng phục vụ trong hậu cung. Giới nầy là Hoạn Nô.
Do giới
tự hoạn với lý do cao cả quá ít (Việt Nam chỉ có Lý Thường Kiệt và Lê văn
Duyệt), về sau người ta gọi hoạn nô (thái giám) là hoạn quan.
c)-
Lê Hoàn:
Cũng như
Lý Thường Kiệt phần Lê Hoàn (Lê Đại Hành), sử Việt chỉ viết thuần Lê Hoàn,
không ghi còn một tên khác là Lý Uy.
Sau
cùng, người viết xin thưa: Bài “PHIẾM” được tham khảo, trích dịch từ các sách
đã dẫn trong bài (tên sách được tô đậm). Đặc biệt là các bộ: Hoàng Xuân Hãn,
Lãnh Ngoại Đại Đáp của Chư Khứ Phi và Phê Bình Hoàng Xuân Hãn của Học giả Minh
Di ở Úc Châu (chưa in). Tuy nhiên, chắc chắn vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Vì
vậy, xin quý độc giả xem để giải trí, mua vui hơn là dùng làm tư liệu tra cứu.
Atlanta,
Nov. 4, 2015
Thái
Quốc Mưu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét