NHỮNG SAI LẦM CỦA HOÀNG XUÂN
HÃN TRONG BỘ SÁCH LÝ THƯỜNG KIỆT. - (BÀI 2)
Thái Quốc Mưu
Đôi dòng trước khi vào bài:
* Trong lãnh vực văn học, chúng
ta đừng vì học vị của những ông khoa bản mà “BỎ QUÊN” không phê bình những sai
lầm trong tác phẩm của họ.
* Khi phê bình văn học, chúng
ta phải ra sức tìm tòi, tham khảo, tra cứu, lấy sự trung thực, lòng ngay thẳng
và lương thiện để nhận định rồi chỉ rõ những chỗ sai lầm. Không nể nang, thiên
vị bất cứ kẻ nào! Nếu không làm được những điều đó, chẳng những chúng ta có tội
với tiền nhân mà còn có lỗi với những thế hệ mai sau.
***
TRÍCH CHƯƠNG XII - BỘ LÝ THƯỜNG
KIỆT CỦA HOÀNG XUÂN HÃN
Trong câu “tiền hậu bị thủ thổ
nhân bạn khứ, ủy thân qui minh”. Hoàng Xuân Hãn, dịch: “trước sau bị các tù trưởng làm loạn, rồi bỏ đi, mà đem vào quy thuận”.
Trong khi “Từ điển Từ Nguyên” giảng 2 tiếng “THỦ THỔ” như sau:
- “Thủ thổ” là rút ngắn câu: “Thủ
vệ cương thổ”. Trọn nghĩa là: “Giữ
và bảo vệ lãnh thổ”.
Thư Thuấn Điển: “Tuế nhị nguyệt,
Đông tuần thủ”. Dịch: Kinh Thư, thiên Thuấn Điển: “Một năm 2
tháng, vua đi tuần tra ở phương Đông”.
Truyện: “Chư hầu vi thiên tử thủ
thổ, cố xưng thủ”. Dịch: “Chư hầu là người giữ đất cho thiên tử, do
đó gọi là thủ (thổ) = giữ đất (nước)”.
Theo học giả Minh Di: Phần Truyện kể trên là của Khổng An Quốc (? - ?)
thời Tây Hán (206 tr. Cn - 25 Cn).
Ở phần đầu, Hoàng Xuân Hãn dịch câu “trước
sau bị các tù trưởng LÀM LOẠN, RỒI BỎ
ĐI, MÀ ĐEM THEO QUY THUẬN”. Đoạn sau (CHỮ IN ĐẬM) của câu trên đây Hoàng Xuân Hãn dịch rất lủng củng, tối
nghĩa!
Còn chữ “BẠN” trong nguyên
tác “tiền hậu bị thủ thổ nhân BẠN khứ,
ủy thân qui minh”. nghĩa là “PHẢN
BỘI”, Hoàng Xuân Hãn dịch là làm “LÀM
LOẠN”. Sai!
“LÀM LOẠN” là tổ chức bộc phát quy tụ những kẻ cùng phe cánh, dấy lên
gây rối trật tự, an ninh, đốt phá nhà cửa, cướp giựt đất đai, tài sản đồng
bào,...
Còn PHẢN BỘI, hay PHẢN LOẠN là tổ chức quân sự hoặc hành
chánh được chánh quyền giao cho (ai đó) điều khiển rồi đem lực lượng đó đánh lại
lực lượng của chánh quyền (hay chủ cũ).
Những kẻ được Lý triều giao cho cai quản 2 động: (động) Vật Dương và
(động) Vật Ác nổi dậy đánh Lý triều không thể gọi là LÀM LOẠN, mà là PHẢN BỘI, PHẢN
LOẠN vì đã bỏ vua / bỏ chủ cũ để chạy theo giặc Tàu (Tống triều).
“Làm loạn” hoàn toàn khác xa với “phản bội”.
Trong câu: “Tuy thử đẳng đạn
hoàn chi địa”. Hoàng Xuân Hãn dịch là: “Tuy
đất ấy là nhỏ nhen”.
Tiếng “ĐẠN HOÀN” trong
nguyên tác, có nghĩa “viên đạn bắn ná”, dùng để ẩn dụ cái gì nhỏ. (hàm ý, cục
đạn do ná bắn không thể đi xa). Còn “đạn hoàn chi địa” nghĩa là “đất nhỏ hẹp”.
Hoàng Xuân Hãn dịch: “Tuy đất ấy là nhỏ
nhen”. Không chính xác!
***
- “Tần ký giải Hàn Đan vi nhi
Triệu vương nhập triều, sử Triệu Thích ước sự ư Tần, cát lục huyện nhi cấu.”
Dịch: “Sau khi Tần rút quân, không
vây Thành Hàn Đan nữa, thì Triệu vương vào triều, liền sai Triệu Thích giao ước
việc thần phục Tần, cắt 6 huyện cho Tần để giảng hòa.”
Ngu Khanh vị Triệu vương viết:
- “Tần chi công vương dã quyện
nhi qui hồ? vương dĩ kỳ lực thượng năng tiến, ái vương nhi phất công hồ? Dịch: “Ngu
Khanh nói với Triệu vương: “Tần tới tấn công nhà vua có phải vì quân mệt mỏi mà
rút về chăng? Nhà vua có cho rằng lực của Tần còn có thể tiếp tục tấn công, thế
nhưng vì thương nhà vua mà không tấn công nữa hay không?”
Ngu Khanh viết: “Tần dĩ kỳ lực
công kỳ sở bất năng thủ, quyện nhi qui. Vương hựu dĩ kỳ lực chi sở bất năng thủ
dĩ tống chi, thị trợ Tần tự công dã! Lai niên Tần phục công vương, vương vô cứu
hĩ!” Dịch: “Ngu Khanh nói: “Tần thấy
lực của mình đánh chiếm cái không thể chiếm được, bởi lẽ đó, khi thấy quân mệt
mỏi mà rút về, bây giờ nếu nhà vua nghĩ là quân lực của Tần không thể đánh
chiếm được Thành của Triệu mà lại cắt đất nhượng cho Tần thì đây là nhà vua
giúp Tần để tự đánh mình! Năm sau Tần lại tới tấn công nhà vua thì chừng đó nhà
vua không cứu được mình nữa!”.
Vương viết: Tần chi công ngã dã
bất di dư lực hĩ, tất dĩ quyện nhi qui dã! Dịch: Triệu
vương nói: “Quân Tần đánh ta không còn sức nữa, đây chắc chắn vì mệt mỏi mà rút
về!”
Câu Vương dĩ Ngu Khanh chi ngôn
cáo Triệu Thích. Dịch: “Triệu vương đem lời của Ngu Khanh nói với
Triệu Thích.”
Triệu Thích viết: “Thử đạn hoàn
chi địa phất dữ, lệnh Tần lai niên phục công vương”. Dịch: Triệu
Thích nói: “vùng đất nhỏ này mà không cho thì năm sau Tần lại tới tấn công nhà
vua nữa.” / Sử Ký. Qu. LXXVI. Ngu
Khanh truyện.
* Phụ chú: Về tiếng “đạn hoàn chi địa”, tham khảo thêm:
“Chiến Quốc Sách. Qu. XX. Triệu Sách 3. Tần công Triệu ư Trường Bình”.
Còn, 2 chữ “thử đẳng” “Tuy THỬ
ĐẲNG đạn hoàn chi địa”, để chỉ địa
danh của hai Động: (động) Vật Dương và (động) Vật Ác, chỉ số nhiều, do đó phải
dịch là: “Những (vùng) đất này”, hoặc: “Các (vùng) đất này”. Nhưng,
Hoàng Xuân Hãn dịch là “đất ấy” (số ít) thì không đúng! (trong
câu “Tuy
ĐẤT ẤY là nhỏ nhen”, ở trên).
Trong tiếng Việt, hai tiếng “nhỏ nhen” hoặc “nhỏ nhoi”, là tính từ phi
vật thể, thuộc khái niệm trừu tượng, chỉ dùng để chỉ những gì thuộc về tinh
thần mà thôi, như nói “tâm địa nhỏ nhen (hay nhỏ nhoi)”, “tính tình nhỏ nhen
(hay nhỏ nhoi)”, “lòng dạ nhỏ nhen (hay nhỏ nhoi)”, “sự việc nhỏ nhen (hay nhỏ
nhoi)”,... mà không thể dùng để chỉ những gì thuộc vật chất, như đất đai, nhà
cửa, vật dụng...
Chúng ta, không ai có thể nói “một căn nhà nhỏ nhen”, một “khu vườn nhỏ
nhen”.
Nguyên tác: “tru cầm tiếm
nghịch”. Hoàng Xuân Hãn dịch là “đánh
dẹp những kẻ chiếm lĩnh”.
Hai chữ “TRU CẦM” trên đây,
nghĩa là “Tru = “giết”, Cầm = “bắt”.
Còn “TIẾM” là “(vượt) quá
phận, tức là vượt quá vai trò trong nhiệm vụ được giao, tức là không chính
đáng, không phải lẽ”. Còn chữ “nghịch” nghĩa là “phản loạn, phản nghịch”, do
đó, câu trên phải được dịch là: “Diệt trừ, bắt giữ những kẻ phản nghịch
chiếm cứ (đất đai) không chính đáng”.
Nhưng, Hoàng Xuân Hãn lại dịch “những kẻ chiếm lĩnh” thì không nói
hết ý của nguyên tác, tức thiếu các ý “PHẢN
NGHỊCH” và “KHÔNG CHÁNH ĐÁNG”.
Câu “Dự vào hàng thiên thần”.
Trong nguyên tác không câu nào có ý nghĩa như câu viết nầy của Hoàng Xuân Hãn.
Câu “dự vào hàng thiên thần”, người
viết không rõ Hoàng Xuân Hãn lấy từ đâu viết ra?
Đối chiếu từng câu một so với nguyên tác, thì có vẻ như Hoàng Xuân Hãn
đã dựa vào câu “khởi cảm bị số ư phiên
viên” mà dịch (hay viết) ra.
Nếu dự đoán của chúng tôi đúng thì Hoàng Xuân Hãn đã dịch sai!
Tiếng “bị số” (trong câu “khởi
cảm BỊ SỐ ư phiên viên”) tức là “sung số”. Trong từ điển Từ Nguyên giải
nghĩa tiếng “SUNG SỐ” như sau:
- “Sung số”. Miễn cưỡng thấu số”.
- “Sung số”. Miễn cưỡng gom lại cho đủ số”.
Còn “phiên viên” (trong câu “khởi
cảm bị số ư PHIÊN VIÊN”) nghĩa là “vùng đất ở ranh giới 2 nước”.
PHIÊN là hàng rào, VIÊN là bờ tường thấp. Rào, tường đây chính là hàng rào hay bức
tường xây dựng dọc theo biên giới để làm ranh giới giữa hai nước – Trong bài,
là để chỉ lằn ranh giới giữa 2 nước.
Ngoài ra, hai tiếng “phiên viên” còn dùng để chỉ quan chức trấn giữ
biên cương bảo vệ đất nước.
Trong nguyên tác: “thâu sinh ư
khoảnh khắc”. Hoàng Xuân Hãn dịch là “sống trong chốc lát.” - tức đã dịch
thiếu mất chữ “THÂU”. THÂU có nghĩa là “trái đạo nghĩa”. Tiếng “thâu sinh” ở
đây có nghĩa là “sống trái với đạo
nghĩa”.
Chữ “THÂU” ở đây, còn có nghĩa là “trộm”, nên có người đã dịch là “sống
trộm”. Sai!
***
DỊCH THIẾU. So với nguyên tác Hoàng Xuân Hãn đã dịch
thiếu những câu sau đây:
1). Nguyên tác: “Thường bất li
mộng mị giả”. Học giả Minh Di đã dịch là: “thường chẳng lìa giấc mộng của thần” - ý nói là sự nghĩ nhớ về
việc đòi lại 2 Động Vật Dương và Vật Ác thường hằng canh cánh bên lòng của vua
Lý Nhân tông (1072 - 1127; tại vị: 1072 - 1127) đến đỗi trong giấc ngủ sự nghĩ
nhớ này vẫn thường hiện trong giấc mộng của vua, tức Lý Nhân Tông vẫn thường
chiêm bao về việc mất 2 Động Vật Dương, Vật Ác này.
Dưới đây là nguyên tác bài Biểu:
Phiên âm Việt Nho: THỈNH HOÀN
VẬT DƯƠNG, VẬT ÁC NHỊ ĐỘNG BIỂU.
Hạ ấp hữu Vật Dương, Vật Ác nhị động bát huyện, dữ tỉnh nhưỡng tiêp
liên. Tiền hậu bị thủ thổ nhân bạn khứ, uỷ thân quy minh. Kỳ Vật Dương ư binh
thìn niên mông thu nhập tỉnh; Vật Ác ư Nhâm tuất niên mông thu thiết Thông
Khang ải.
Tuy thử đẳng đại hoàn chi địa, vưu công thống hoài, thường bất ly mông
mị giả. Thành dĩ tiên tổ thần bình tích tru cầm tiếm nghịch, xung gian mạo
hiển, tất mệnh chi sở trí dã. Kim mạt tháo bất năng tự thừa, khởi cảm bị số ư
phiên viên, thâu sinh ư khoảnh khắc dã.
Giáp tý niên, Quảng Tây kinh lược ti thường vị thân tấu. Tiên triều dĩ
Túc, Tăng nhị động lục huyện tứ thần chủ ĩnh. Tiếp Túc, Tang đẳng hiện thuộc hạ
ấp, phi kim chi trần thỉnh chi địa, bất cảm bái mệnh.
Phục ngộ bệ hạ nhất tân vũ nội, cẩn cụ biểu dĩ văn.
Sau đây là bản dịch ra âm Việt của
hai vị THANH BĂNG - HOÀNG LÊ
“Nước tôi có đất Vật Dương, Vật Ác, gồm hai động và tám huyện, vẫn tiếp
liền với phần đất tỉnh (Quảng Tây). (Những đất ấy) trước sau đều bị bọn đầu mục
thổ dân làm phản, bỏ đi, đem theo về với Trung Quốc. Đất Vật Dương thì năm Bính
thìn (1076) bị sát nhập vầo đất quý tỉnh; đất Vật Ác thì năm Nhâm tuất (1082)
cũng bị sát nhập và đặt thành ải Thông Khang.
Mặc dầu đấy chỉ là mảnh đất nhỏ nhưng vẫn khiến lòng tôi đau xót, luôn
luôn nghĩ đến cả trong giấc mộng. Quả thực tổ tiên tôi xưa kia đã phải đánh dẹp
phường tiếm nghịch, xông pha gian nguy, không tiếc tính mạng mới có được đất
ấy. Nay tôi phận con cháu, đã không kế tục được cơ nghiệp được [cha ông] thì
dám đâu dự vào hàng mộ nước phên dậu, cầu lấy cái sống tạm bợ trong chốc lát.
Năm Giáp tý (1084), Ti kinh lược Quảng Tây đã vì nước tôi mà tâu bày về
triều. Tiên triều đã đem đất Túc, Tang gồm hai động và sáu huyện trả lại cho
tôi chủ lĩnh. Các đất Túc, Tang ấy hiện thuộc nước tôi rồi, chẳng phải là đất
mà tôi bày tỏ ở đây. (Bởi vậy), tôi không dám vâng mệnh.
May gặp khi bệ hạ (lên ngôi), khắp bờ cõi thảy đều đổi mới. Vậy kính cẩn [nêu] đầy đủ
trong tờ biểu này để quý quốc nghe biết. (Sử
gia Tư Mã Thiên (145 - 86 tr. Cn) chép trong bộ “Sử Ký”)
(So sánh: Những vị vua ngày xưa tuy thần phục nước
Tàu, nhưng bằng mọi cách vẫn cương quyết giữ đất đai của tiên tổ – dầu phải quỳ
lụy xin xỏ, nhưng quyết liệt khẳng định: “Tiên triều đã đem đất Túc, Tang gồm hai
động và sáu huyện trả lại cho tôi chủ lĩnh. Các đất Túc, Tang ấy hiện thuộc
nước tôi rồi, chẳng phải là đất mà tôi bày tỏ ở đây. (Bởi vậy), tôi không dám
vâng mệnh. (Nghĩa là không thể giao đất cho giặc Tàu)”.
Ngày nay thì sao? Không cần nói nhưng chẳng ai không biết! – Thái Quốc
Mưu)
(Vào thời điểm gởi thư trên (1086) cho Tống triều, Lý Nhân Tông mới có
14 tuổi - còn là một trẻ nít, thì không thể có một sự suy tư, nghĩ ngợi, như
viết trong thư. Dĩ nhiên thư là do văn thần triều Lý viết thay vua nhỏ của
mình. Còn phía bên kia, vua Tống triều, Tống Triết tông (1077 - 1100; tại vị:
1085 - 1100), cũng là một đứa con nít, còn nhỏ hơn vua Lý. Đương thời Tống
Triết tông mới có 9 tuổi).
2). Nguyên tác: “Tất mệnh chi sở
trí dã”.
Từ điển Từ Nguyên giải nghĩa 2 chữ “tất mệnh” như sau:
- “Tất mệnh”. Tận lực hiệu mệnh”.
- “Tất mệnh”. Tận sức đến xả bỏ cả mạng sống”.
Tiếng “tất mệnh” nghĩa cũng như “trí mệnh”, nghĩa là “giao mạng, bỏ
mạng”. Các tiếng này được dùng để chỉ sự dốc hết sức lực để làm một việc gì dầu
có bỏ mạng cũng đành!
Dịch Kinh, Quẻ Khốn (Đoài / Khảm), Đại Tượng từ:
- “Tượng viết: Trạch vô thủy,
Khốn, quân tử dĩ trí mệnh toại chí”. Dịch: “Tượng viết: Đầm không có nước,
là (Tượng = hình ảnh) của Quẻ Khốn, bậc quân tử coi đó mà đến bỏ cả tính mạng
để thực hiện cho được chí hướng của mình”.
Câu này Học giả Minh Di đã dịch: “dốc
hết sức mình, bất kể tính mạng mà cố (giữ thành, hay đất) cho được!”.
3). Nguyên tác: “khởi cảm bị số
ư phiên viên?” nghĩa là “vùng đất ở ranh giới 2 nước”.
Ba câu trên đây, trong bộ Lý Thường Kiệt, Hoàng Xuân Hãn dịch thiếu,
chẳng phải là những câu khó dịch, vậy mà không hiểu tại sao ông lại không dịch?
Sau cùng, về vị trí của 2 Động Vật Dương và Vật Ác ông Hoàng Xuân Hãn
viết:
- “Thường-Kiệt lại mưu sự lấy lại những đất tuy thuộc Quảng-nguyên,
nhưng đã bị các tù-trưởng đem nộp Tống trước khi có cuộc Tống Lý chiến tranh.
Trong những đất ấy, có hai động lớn, là động Vật-dương và động Vật-ác.
Theo học giả Minh Di: “Các sử-sách Tống và Việt đều có chép hai
tên đất ấy, nhưng không chỉ rõ ở vùng nào. Nay góp-lặt những tham-khảo rời-rạc
ta có thể nhận ra rằng hai động ấy ở phía Tây-Bắc Cao-bằng ngày nay”
Thái Quốc Mưu
_______________
Tham khải tài liệu:
- Bộ Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn, NXB Văn học, 1995.
- Tham khảo và trích đoạn từ “Phê Bình Hoàng Xuân Hãn Của Học Giả Minh
Di.
- Lãnh Ngoại Đại Đáp của Chu Khứ Phi.
- Sử Ký của Tư Mã Thiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét