Lá Daffodil Thắt
Bím
Truyện ngắn của Nguyễn Âu Hồng
Mùa xuân năm ấy đã đến với vùng hạ lưu
sông Columbia một cách lặng lẽ nhưng vô cùng thắm thiết (*) và rạo rực đến
không chịu nổi. Mới giữa tháng hai, những tia nắng hiếm quý đã xuyên thủng
sương mù sưởi ấm lớp đất mùn mà mới cách đó một tuần tuyết còn phủ trắng xóa. Rồi
một buổi sáng, người đưa thư bỗng ngập ngừng không muốn cho xe rời khỏi nhà bà
Barbara nhanh như mọi ngày : quanh chân thùng thư hoa crocus đã đâm những nụ mầm
như những búp măng non với màu trắng tinh khôi, màu vàng ấm áp và màu tím diệu
vợi. Phải vài hôm nữa hoa mới nở. Mà nở vào buổi sáng sớm, gần trưa hay đợi đến
quá giữa trưa là tùy vào thời tiết. Tuy
còn e ấp, nhưng những búp hoa crocus là những sắc mầu đầu tiên báo hiệu mùa
xuân đang đến với vùng hạ lưu sôngColumbia tươi xanh này.
Trồng hoa quanh chân thùng thư là một tập
quán văn hóa của cư dân trong vùng. Đó là một món quà tặng người đưa thư, mong
làm dịu bớt phần nào sự mệt mỏi vì phải lái xe liên tục sáu ngày trong tuần.
Khi hoa crocus bắt đầu nở, người đưa thư ngừng xe lâu hơn một chút, kịp lúc bà
chủ nhà Barbara ra nhận thư và hai người chào hỏi nhau thân thiện. Như vậy hoa
crocus không chỉ báo hiệu mùa xuân mà còn giúp con người xích lại gần nhau hơn.
Tiếc thay niềm vui của họ chỉ kéo dài vỏn vẹn một tuần. Khi hoa đã nở mãn khai
thì lá mầm bắt đầu mọc, những chiếc lá như lá cỏ cứ chen giữa đám hoa, đâm thẳng
lên. Lá dafodil là rau xanh ngon tuyệt với lũ sóc đang rượn tình đầu xuân. Sóc
chỉ ăn lá crocus, không ăn hoa. Nhưng chúng nó vừa ăn vừa trững giỡn giẫm cả
lên hoa. Những đóa hoa nhỏ nhắn yếu ớt lại không cuống không cọng, không nơi
nương tựa, bị đạp ngã là nằm mẹp luôn. Công bằng mà nói, hình ảnh lũ sóc động cỡn
rượt đuổi nhau rần rật cũng là tín hiệu sinh động của mùa xuân. Con người ta
kia, lúc mù quán với ái tình còn quên cả khuôn phép, nói chi đến con vật là lũ
sóc. Không phải vì lũ sóc làm “đầu cầu” giúp Tân tiếp cận rồi trở thành người
làm vườn thường xuyên của bà Barbara mà ông bênh vực, nhưng việc rậm rật động
tình trong thời tiết còn giá lạnh bộc lộ một sức khỏe sung mãn, sự khát khao
truyền giống và khí xuân hừng hực đang đến khiến chúng nó không thể chờ đợi
thêm một phút giây nào nữa.
Bà Barbara vừa vẫy tay chào người đưa
thư vừa bước qua đường, xăm xăm đi ra sân sau nhà ông Dorn tìm gặp người làm vườn.
Ông Tân, người làm vườn, vừa dọn xong mớ cành cây bị bão tuyết làm gãyvà tắt máy cưa thì cũng vừa lúc bà bước đến.
-Chào anh Tân, tôi là Barbara. Xin lỗi về
sự đường đột- ông Dorn cho tôi biết tên anh. Nhà tôi bên kia đường. Anh có thể
dành chút thời giờ bước qua xem thử có thể cứu đám hoa crocus của tôi được
không? -Vậy chớ bị sao mà sao mà phải cứu
? -Bị
sóc giẫm đạp . -Bà nên gọi cho Đời sống hoang dã,
tôi có số điện thoại đây. -Tôi
gọi rồi. Họ bảo gọi cho cơ quan kiểm soát động vật đô thị . Lại bảo gọi cho
công ty kiểm soát dán mối . Công ty dán mối lại bảo gọi cho chim chuột, cóc
nhái, mô v.v...Gọi chim chuột nói sóc
phá hoa crocus thì họ hẹn ba hôm nữa, mà tôi thì cần có giải pháp tức khắc. Bộ
anh không thể bước qua một chút được sao? -Được
chứ. Nhưng giải pháp tức khắc thì không dám hứa . Bà nói “cứ thử xem” rồi xăng xái bước về, hai tay “đánh đàng xa” như
những phụ nữ lao động Việt Nam, dễ thương đến lạ lùng. Tân
bước theo sau, nhìn hai mông đít khổng lồ của bà ngoe nguẩy phía trước mà cười
thầm trong bụng. Cũng may, sóc chỉ mới giẫm nát mấy vạt hoa quanh chân thùng
thư còn những vạt hoa phía bên kia bãi đậu xe và phía trước hiên nhà hầu như còn nguyên vẹn. Tân đề nghị giải pháp : -Tôi
không có giấy phép về động vật nên không dám đụng tới lũ sóc. Nhưng tôi biết có
một loại bình xịt bán rộng rãi ở Home
Depot . Khi đã xịt quanh đám hoa rồi thì chuột, sóc, cóc nhái gì cũng tránh xa
. -Thế thỏ có vào được không ? -Thỏ cũng tránh xa . -Như vậy thì tội
nghiệp cho mấy con thỏ quá. Thỏ cũng ăn lá crocus như sóc, nhưng chúng chỉ đứng
bên ngoài hoặc đi loanh quanh, không đạp lên hoa. Để
cho “giải pháp tức khắc” được trọn vẹn, Tân đưa cho bà nhãn hiệu của bình xịt rồi
dặn bà sẵn đường mua ít cây xà lách, năm bảy củ cà rốt và một bịch đậu phụng. Bà biết xà lách, cà rốt và đậu phụng dùng để
làm gì nên trước khi lái xe đi cònnói “anh chu đáo lắm”. Tân
trở lại nhà ông Dorn thu dọn máy móc, dụng cụ. Chưa vào mùa nên cứ nhẩn nha
không gì phải vội. Ông Dorn ra đưa check trả tiền cũng không vào nhà ngay. Hai
người đang đứng nói chuyện thời tiết mưa nắng, chuyện câu cá-hẹn tới mùa cá hồi
sẽ gặp nhau tại bến cũ trên sông Columbia..thì bà Barbara lại xăm xăm bước tới. Bà chào ông Dorn rồi bất ngờ giơ cao bình thuốc,
cười ha hả, cười lớn hết cỡ và cũng hết cỡ tươi tắn, tươi tắn đến bất ngờ so với
độ tuổi đã ngoài bảy mươi của bà. (Tuổi tác là ông Tân đoán mò mà thôi).Cười
thoải mái xong, tưởng sao, bà ấn bình xịt vào tay Tân, không nói không rằng, quay
lưng xăng xái bước về, hai tay “đánh đàng xa” như những phụ nữ lao động Việt
Nam, dễ thương đến lạ lùng. Tân đành phải đi theo. Nhìn hai mông đit khổng lồ của bà ngoe nguẩy
phía trước, lần này, ngoài việc cười thầm trong bụng,ông còn miên mannghĩ về những
trái chín cuối mùa trên xứ sở Hoa Kỳ.
Tân chỉ hướng dẫn cách xịt, buộc bà phải
tự làm. Barbara vừa cầm bình xịt vừa nguýt háy trách Tân quá cứng nhắt trong việc
chấp hành luật lệ. Trông bà cao to dềnh dàng, vậy chớ khi cúi xuống quơ bình xịt,
thao tác dịu dàng như múa. Bà còn định xịt quanh các khóm daffodil và tulip
nhưng Tân cản lại. Daffodil đã lên cao hơn một gang tay còn tulip thì chỉ mới
nhú khỏi mặt đất. Tân nói: -Sóc
và thỏ chỉ ăn lá crocus và mầm non lily, không ăn lá và mầm non daffodil,
tulip. Nghe Tân nói vậy,
Barbara cứ gật gù như đang ngẫm nghĩ một điều gì, rồi bất chợt hỏi : -Anh
uống gì không, Tân? Trà nóng hay cà phê nóng ? -Cám ơn bà. Tôi chỉ uống trà và cà
phê một lần trong ngày vào buổi sáng sớm. À mà Barbara này, bà có mua rau và đậu
phụng không? - Tôi đã mua. Anh chu đáo lắm, Tân. Barbara
mở cóp xe lôi ra một bịch giấy xi-măng. Tân đón lấy rồi đi thẳng tới cổng ra
sân sau, thò tay mở chốt, nhưng cổng đã bị khóa. Tânđịnh quay ra gọi thì
Barbara xuất hiện đúng lúc vừa mở khóa vừa cười ha hả, cười lớn hết cỡ và cũng
hết cỡ tươi tắn, tươi tắn đến nỗi Tân bị bất ngờ thêm một lần nữa. Sân
sau nhà Barbara không rộng lắm,nhưng nhờ mặt lưng giáp với khu rừng thông đại
thụ chưa bị đô thị hóa lấn chiếm nên trông như một góc của công viên quốc gia,
tràn ngập thiên nhiên. Tân rải rau và đậu phụng dưới gốc bờ dậu arbervitae, một
bờ dậu dài và khá cao nhưng không được chăm sóc đúng mức rồi bước ra tận góc xa
giáp với khu rừng. Khu rừng này đã làm Tân chú ý ngay từ lúc mới vừa bước qua
khỏi cánh cổng. Chỉ cách nhau không quá một trăm bước chân mà không khí ở đây lạnh
hơn hẳn còn không gian thì như chìm đắm trong mộng ảo. Nắng trưa mà sao xiên xiên xuyên qua lớp sương mù đọng giữa những
tàn cây, một màu nắng huyền hoặc, không vàng không thắm cũng không trắng không
hồng, một màu nắng phơn phớt tím hoa càliên tục chuyển động,lung linh kỳ ảo lạ
thường.
***
Mặc dù đang chìm đắm trong mộng ảo ông
Tân vẫn nghe được tiếng bước chân đạp lên lá mục rồi ông ngửi được hơi thở và
mùi đàn bà phát ra từ cơ thể Barbara. Đứng yên một chặp, ông quay sang, nói: - Barbara, bà không nên ra đây. Ngoài
này lạnh lắm. Barbara
không trả lời, chỉ lặng lẽ nhìn người đứng cạnh. Ông Tân hơi ngạc nhiên, ông
nhìn Barbara kỹ hơn và thấy những nét đẹp của thời thanh xuân như vẫn còn lưu lại
trên khuôn mặt người đàn bà đã cao tuổi với sóng mũi thẳng, hai cánh mũi túm gọn
tao nhã, đôi mày cong diễm lệ và đẹp nhất
là đôi mắt, đôi mắt huyền thoại phơn phớt màu tím hoa cà. (Tất nhiên những nếp
nhăn của thời gian xuất hiện đây đó trên khuôn mặt là không tránh khỏi). Barbara
cứ đứng một chỗ hết nhìn ông Tân lại nhìn ra khu rừng. Rồi bà nói nhỏ như thì
thầm: - Gọi
tên tôi một lần nữa đi Tân. - Barbara, bà có
sao không ? -
Xin gọi tên tôi... - Barbara, tôi nghĩ chúng ta nên
đi vào. Ở ngoài này lâu sẽ bị cảm lạnh mất. -
Xin goi tên tôi, dù... - Barbara... -
Tiếng anh gọi tên tôi nghe sao dịu ngọt
như anhJack yêu quí của tôi gọi tôi lúc chúng tôi còn tuổi trẻ. Ông
Tân tưởng Barbara bị mộng du nên đặt hai tay lên vai lay cho bà tỉnh. Barbara
nói, giọng mơ màng : - Tân
ơi, anh ôm tôi đi. Xin vui lòng cho tôi một vòng tay ôm. Ông Tân hơi ngập ngừng, nhưng giọng nói
và ánh mắt của Barbara van nài tha thiết
quá khiến ông không dừng được. Ông bước tới một bước, vòng tay quanh người
Barbara, một vòng tay Á Đông nhưng nhờ thường xuyên tập tạ nên cũng không đến nỗi
quá nhỏ bé so với thân hình to lớn của người đàn bà, rồi với tất cả sức mạnh của
một người làm vườn chuyên nghiệp, anh siết thật mạnh và giữ chặt thật lâu.
Đâychắc là một vòng tay ôm nhớ đời. Họ đứng yên một chặp, có cảm giác như quả đất
cũng đứng yên. Bỗng ông Tân đâm hoảng : tấm thân đồ sộ chắc nịch của Barbara trong
vòng tay ông như tan chảy, mềm dần rồi nhũn xuống như cọng bún. Ông xiểng liểng
phải dựa vào một góc thông ponderosa gần đó mới không bị ngã...
Phần Barbara, trong phút giây đó, trong
vòng tay của người đàn ông Á Đông nhỏ bé đó, bà như sống lại toàn bộ tuổi trẻ,
đầu tiên là tiếng gọi Barbara dịu ngọt thân thươngcủa anh Jack yêu quí,tiếp
theo là những ngày thanh xuân mê đắm trong tình yêu và tràn đầy nhiệt huyết với
đất nước- trận Trân Châu Cảng nổ ra lúc Barbara mười tám tuổi, đã tình nguyện
vào xưởng đóng tàu chiến bên bờ sông Columbia làm việc hai ca một ngày- muốn sống
một giây bằng một ngày, muốn sống một ngày bằng trọn cả một đời, muốn ôm hết vẻ
đẹp của quả đất vào lòng... Khi
Barbara cứng cáp trở lại thì ông Tân bắt đầu chìm vào cơn mê, ôngkhởi sự thăm
dò những trái chín cuối mùa của xứ sở Hoa Kỳ...Qủa đất như ngừng quay...Trong
mê đắm hai người há hốc miệng như đang
ăn sương giá, như đang uống nắng trời. Ông Tân mơ màng như đã uống vào người
cái màu nắng trùng với màu mắt barbara, màu mắthuyền thoại phơn phớt tím hoa
cà. Hai người sẽchìm đắm mãi trong cơn mê nếu lũ quạ không kêu quan quác gây ồn
ào náo động vì đang họp đàn và đang đánh đuổi một con chim lạ. Trước đó, lũ sóc
tha đậu phụng cứ xồng xộc phóng lên cây thông ponderosa nơi hai ngưới đang đứng,
nhưng cả sóc và người không bên nào thấy khó chịu, cứ điềm nhiên như nhiên.
***
Mùa xuân vẫn đang ngự trị, bầu trời xanh
trong và nắng ấm chan hòa khắp vùng hạ lưu sông Columbia. Khi hoa crocus bắt đầu
giảm sắc rồi ngã rạp xuống như những xác bong bóng vỡ cũng là lúc hoa daffodil
bắt đầu bung nở . Không e dè khiêm tốn như crocus, hoa daffodil một khi tới mùa
là nở đồng loạt, bung nở hết cỡ, nghạo nghễ khoe sắc vàng rực rỡ với nắng xuân.
Hoa daffodil vừa xuống sắc thì hoa tulip lại đua nở cùng với lily, peony, cúc, vạn thọ, đồng tiền...ở dưới thấp;hoa
hồng, hoa azelea (đỗ quyên), forsythia (hoàng
hạc), dâm bụt, phù dung, rhododendron (sơn lựu), dogwood đỏ...ở tầng giữa
và hoa dogwood trắng, hoa mận, hoa anh đào, hoa magnolea (mộc lan)...nở rợp trên
tầng cao. Hoa xuân càng nở rộ, lòng khát khao mùa xuân của bà Barbara càng phơi
phới. Bà mặc quần áo lao động, làm việc ngoài trời hầu như suốt ngày, khi thì
nhổ cỏ dại ở sân trước, lúc cào lá mục ở sân sau...Một hôm, khi ra khu rừng để
đổ rác, không hiểu do tiềm thức nào dẫn dắt, Barbara đã đến đứng dựa lưng vào gốc
thông, nơi bà đã rơi vào vòng tay của người làm vườn... Barbara
đứng nhìn ra rừng thông rồi bỗng dưng bà há hốc miệng như đang ăn nắng sớm, như
đang uống sương chiều, như sống lại toàn bộ tuổi trẻ, sống lại những ngày lồng
lộng thanh xuân- muốn sống một giây bằng một ngày, muốn sống một ngày bằng trọn
cả một đời, muốn ôm hết vẻ đẹp của quả đất
vào lòng . Ôi tuổi trẻ, tuổi trẻ, những ngày mê đắm trong tình yêu với anh Jack
yêu quí và tràn đầy nhiệt huyết với đất nước. Hai người cùng làm việc ở xưởng
đóng tàu chiến, có khi làm hai ca một ngày, có khi làm bảy ngày một tuần, tiền
lương chỉ giữ một phần nhỏ đủ tran trải cho cuộc sống đạm bạc, cònbao nhiêu
đóng góp hết cho cuộc chiến. Không riêng cặp Barbara-Jack mà nửa triệu công
nhân của xưởng đóng tàu ai cũng làm việc cật lực, ai cũng thắt lưng buộc bụng,
cùng với đất nước dồn hết tài nguyên vật lực nhằm chiến thắng phát-xít. Tin hay
không ? Con gái mới lớn cần ít son phấn làm duyên, mà khi mua một cây son môi,
một lọ kem thoa mặtloại rẻ tiền-chỉ năm bảy đô thời đó- còn cân nhắc tới lui, vậy
chớ đóng góp trăm này ngàn nọ cho đất nước thì luôn sẵn sàng. Đến kẹo cao su
thôi mà ông Davis, thợ cả của phân xưởng
mộc, tuổi đã ngoài năm mươi, còn cho là xa xỉ . Và điều quan trọng là con người
luôn yêu thương gắn bó, luôn quan tâm lẫn nhau... Rồi thế chiến kết thúc. Những
xưởng đóng tàu dọc bờ sông ngưng hoạt động. Nửa triệu công nhân tứ tán đi khắp
nước Mỹ và thế giới. Thế nhưng, khi tới tuổi về hưu, nhiều công nhân của xưởng
đóng tàu năm xưa đã quay về mảnh đất cũ, mảnh đất bên bờ hạ lưu sông Columbia hiền
hòa tươi xanh in dấu những kỷ niệm của một thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và mê
đắm...Barbara và Jack là một trong những cặp đã quay về. Nhưng Jack không có số
an hưởng điền viên. Sau hai năm về hưu, anh Jack yêu quí đã bị tai nạn xe hơi
và ra đi...
Mùa xuân vẫn đang ngự trị,
nhưng hoa daffodil đã tàn úa. Thông thường người ta túm cả lá và cuống hoa bẻ
quắp rồi cột lại, từ xa trông như những bó mạ. Bà Barbara không làm như vậy. Từ
tiềm thức văn hóa đầy thơ mộng, Barbara đã ngồi xuống bên khóm hoa tàn, tẩn mẩn
vuốt từng chiếc lá rồi thắt thành bím như người ta thắt bím tóc con rít. Hết
khóm này đến khóm khác, bà vuốt những chiếc lá với một cảm xúc càng lúc càng
ngây ngất. Thắt bím xong khóm cuối cùng, khi đứng lên Barbara thấy mặt mày xây
xẩm và ngã quỵ xuống. Bà không bao giờ còn đứng lên được nữa. Barbara vừa tổ chức
mừng sinh nhật hôm qua, ôngTân được mời tham dự. Mới hôm qua đây, khi thổi tắt
hết tám mươi cây đèn cầy, bà bước lùi một bước tránh khói, ưỡn người hít thở một
hơi thật sâu rồi cười ha hả, cười lớn hết cỡ và cũng hết cỡ tươi tắn, tươi tắn
đến nỗi những người có mặt phải ngạc nhiên. Ông Tântuy đã quen với với lối cười
ấy của Barbara, vẫn thấy thích thú. Ông càng thích thú hơn khi nhìn vào mắt
Barbara : trong đêm, dưới ánh đèn chùm, đôi mắt có màu tím hoa cà trông càng
liêu trai huyễn hoặc và diễm lệ lạ thường. Đôi mắt ấy, lẽ nào đã vinh viễn khép
lại ?
***
Mùa xuân kế tiếp và nhiều mùa xuân sau
này, cứ đến cuối tháng hai đầu tháng ba, ông Tân lại ra đứng nơi góc xa giáp với
khu rừng chỗ ông đã từng ôm siết Barbara, để ôn lại kỷ niệm và cũng có ý muốn
tìm ra khởi thủy của cái nắng có màu tím hoa cà lung linh huyền ảo của năm xưa.
Một hôm, nhờ sương mù tan hết, trời trong đến mức có thể nhìn rõ khe suối có
dòng nước nhỏ xíu như một khóe mắt lấp lánh dưới lũng sâu, ông Tân thấy mấy cây
bạch dương với những lá mầm màu huyết dụ dày đặc. Nhưng ông không tin, ông
không tin cái màu tím huyền ảo đã xuất phát từ đó. Biết đâu cái nắng có màu tím
năm xưa là màu thời gian, từ vàng tươi chuyển sang đỏ nhạt, đỏ thắm rồi phơn phớt
tím hoa cà trước khi trở nên tím ngắt rồi lịm tắt như màu hoàng hôn.
Ông Tân đứng nơi góc xa ấy để tìm lại
màu nắng của năm xưa, một màu nắng huyền diệu, không vàng không thắm cũng không
trắng không hồng, một màu nắng phơn phớt tím hoa cà liên tục chuyển động, lung
linh kỳ ảo , nhưng ông không tìm được. Làm sao ông tìm lại được cái màu nắng ấy
khi mà đôi mắt có màu tím huyền thoại của Barbara, đôi mắt lần cuối cùng ông
nhìn ngắm, trong đêm sinh nhật định mệnh, trông liêu trai huyễn hoặc và diễm lệ
lạ thường, đã khép lại.
Mùa xuân kế tiếp và nhiều mùa xuân
sau này, cứ đúng ngày giỗ của Barbara-một ngày sau ngày sinh nhật- ông Tân lại
ngồi xuống bên khóm hoa daffodil tàn úa, thận trọng vuốt những chiếc lá và những
cuống hoa tàn rồi thắt thành bím, những bím lá con rít trông khá ngộ nghĩnh. Ông muốn gởi tới Barbara yêu quí một món quà,
vậy thôi...Rồi với thời gian, ông Tân già yếu không làm việc nặng được nữa,
doanh nghiêp làm vườn cũng đã sang cho đứa cháu. Nhưng đúng hẹn, ông vẫn nài
xin đứa cháu cho ông được đến nhà cũ của Barbara. Năm rồi, khi ông ngồi xuống
vuốt những chiếc lá daffodil để thắt bím, ông có cảm giác như đang chạm vào người
Barbara. Hết khóm này đến khóm khác, ông vuốt những chiếc lá với cảm xúc càng
lúccàng ngây ngất, ngây ngất đến mức tuổi tác không khứng nổi . Về đến nhà ông
Tân tiếp tục thăng hoa và ngủ một giấc ngủ êm đềm...
(*) Mượn
câu mở đầu Sông Đông Êm Đềm.
Jan 4-2014
Nguyễn
Âu Hồng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét