PHẦN PHÊ BÌNH:
Thái Quốc Mưu
Trong bộ LÝ THƯỜNG KỆT.
Phần Lý Thường Kiệt Đánh Tống:
Hoàng
Xuân Hãn, viết: “Một nơi quan trọng thuộc
trại Vĩnh Bình. Sách Lãnh Ngoại Đại Đáp chép: “Trại
Vĩnh Bình kề Giao-chỉ, chỉ cách bằng một con sông mà thôi. Phía Bắc sông có
trạm Giao-chỉ (ở đất Tống). Phía Nam sông có đình Nghi-hòa. Đều là chỗ để buôn
bán trao đổi, do chúa trại Vĩnh Bình cai quản”.
Trong khi sách “Lãnh Ngoại Đại Đáp” Chư Khứ
Phi chép như sau:
- “Ung
châu Hữu giang Vĩnh Bình Trại dữ Giao Chỉ vi cảnh, cách nhất giản nhĩ! Kỳ Bắc
hữu Giao Chỉ dịch, kỳ Nam hữu Tuyên Hòa đình, tựu vi bác dịch trường”.
(Dịch: Trại Vĩnh Bình ở vùng sông Hữu
giang, thuộc Ung châu, tiếp giới với Giao Chỉ, cách một khe suối thôi! Phía Bắc
khe suối có trạm (tên gọi là) Giao Chỉ, phía Nam suối có đình Tuyên Hòa, là nơi
buôn bán giao dịch).”
(Tham khảo: Lãnh Ngoại Đại Đáp, Qu. V. Tài Kế môn. Ung châu Vĩnh
Bình Trại bác dịch trường)
Hoàng
Xuân Hãn đã sai lầm khi dịch đường ranh giới giữa Giao Chỉ và Trại Vĩnh Bình
cách nhau “một con sông”. Trong khi,
“Lãnh Ngoại Đại Đáp” của Chư Khứ Phi chép rõ là “một KHE suối”. Sông và Khe Suối hoàn toàn khác nhau. Giả sử, nếu
Hoàng Xuân Hãn dịch “cách nhau một con suối cũng sai!” Vì Khe Suối chỉ là một
nhánh nhỏ của một con suối. Cụm từ trong nguyên tác: “cách nhất giản nhĩ!”
“Giản nhĩ = KHE SUỐI”.
Ở phần các địa danh:
Hoàng
Xuân Hãn không biết, nghĩ sai, tách các địa danh ra sai. Trong nguyên tác
có
16 địa danh Hoàng Xuân Hãn tách thành 18 địa danh:
* 16 địa danh trong nguyên tác:
1.
Điện / 2. Hạ Lôi / 3. Ôn / 4. Nhuận / 5. Anh / 6. Dao / 7. Vật Dương / 8. Vật Ác / 9. Kế / 10. Thành / 11. Cống / 12. Lục / 13. Tần / 14. Nhiệm động / 15. Cảnh Tư / 16. Hà Kỷ.
* 18 địa danh do Hoàng Xuân Hãn nghĩ sai
và tách chữ sai:
1.
Thượng- điện / 2. Hạ-lôi / 3. Ôn-nhuận / 4. Anh / 5. Dao / 6. Vật-dương / 7. Vật-ác / 8. Kế-thành / 9. Cống / 10. Lục / 11. Tần / 12. Nhậm / 13. Động / 14. Cảnh / 15. Tư / 16. Kỳ / 17. Kỷ / 18. Huyện.
Sau
đây là những chỗ SAI của Hoàng Xuân Hãn, khi ông nghĩ sai, tách chữ sai, nên
phân chia thêm hai địa danh:
1). Kế tức là Kế động: Ông Hoàng Xuân Hãn lại nhập chữ Kế với chữ Thành liền
ở sau, để trở thành “Kế-thành”.
2). Nhiệm động: (Nhiệm cũng đọc âm Nhậm). Hoàng Xuân Hãn lại ngắt ra
thành 2 địa danh là “Nhậm” và “Động” mà không biết rằng chữ “động” ở
đây chỉ là cấp số hành chánh đi liền với chữ “Nhiệm” (hay “Nhậm”). (“Động” ở
đây giống như, Xã, Quận, Tỉnh... là cấp số hành chánh).
3). Cảnh Tư: Hoàng Xuân Hãn cũng ngắt ra thành 2 địa danh “Cảnh” và “Tư”.
4)-
Địa danh “Kỳ” trong nguyên tác không
có.
5). Hà Kỷ huyện: Hoàng Xuân Hãn thiếu mất chữ “Hà”. Còn, chữ “huyện”
đứng sau tên “Hà Kỷ” để chỉ cấp số
hành chánh, ông lại tự tách chữ “Huyện”
ra và cho nó thành một địa danh khác. (Hà Kỷ huyện, tức là huyện Hà Kỷ. Giống như
Kinh Châu, tức là Châu kinh,...)
Trong
câu “tiền hậu bị thủ thổ nhân bạn khứ, ủy thân qui minh”. Hoàng Xuân Hãn, dịch:
“trước sau bị các tù trưởng làm loạn, rồi bỏ đi, mà đem vào quy thuận”. Hoàng Xuân Hãn dịch câu nầy chẳng những sai,
mà còn rất lủng củng, tối nghĩa, khó hiểu.
Chữ
“BẠN” trong nguyên tác “tiền hậu bị
thủ thổ nhân BẠN khứ, ủy thân qui
minh”. BẠN trong câu nghĩa là “PHẢN BỘI”,
Hoàng Xuân Hãn dịch là làm “LÀM LOẠN”. Sai!
“LÀM LOẠN” là tổ chức bộc phát quy tụ những kẻ cùng phe cánh,
dấy lên gây rối trật tự, an ninh, đốt phá nhà cửa, cướp giựt đất đai, tài sản
đồng bào,...
Còn
PHẢN TẶC, PHẢN LOẠN, PHẢN BỘI là tổ
chức quân sự hoặc hành chánh được chánh quyền giao cho điều khiển (hay cai trị)
một địa phương, rồi đem lực lượng đó đánh lại lực lượng của chánh quyền (hay
chủ cũ).
Những
kẻ được Lý triều giao cho cai quản 2 động: (động) Vật Dương và (động) Vật Ác
nổi dậy đánh Lý triều không thể gọi là LÀM
LOẠN, mà là PHẢN TẶC, PHẢN LOẠN
vì đã bỏ vua / bỏ chủ cũ để chạy theo giặc Tàu (Tống triều). “LÀM loạn” hoàn
toàn khác xa với “PHẢN loạn”.
Trong
câu: “Tuy thử đẳng đạn hoàn chi địa”. Hoàng Xuân Hãn dịch là: “Tuy
đất ấy là nhỏ nhen”.
Hai
chữ “ĐẠN HOÀN” trong nguyên tác, có nghĩa “viên đạn bắn ná”, dùng để ẩn dụ mảnh
đất nhỏ. (hàm ý, cục đạn do ná bắn không thể đi xa, mảnh đất không đủ lớn, khi
dùng ná bắn viên đạn sẽ vượt qua đất kẻ khác ở gần bên). Còn “đạn hoàn chi địa” nghĩa là “đất nhỏ, hoặc đất nhỏ hẹp”. Hoàng Xuân
Hãn dịch: “Tuy đất ấy là nhỏ nhen”.
Thật không hiểu nổi!
Trong
tiếng Việt, hai tiếng “nhỏ nhen” là
tính từ phi vật thể, thuộc khái niệm trừu tượng, chỉ dùng để chỉ những gì thuộc
về tinh thần mà thôi, như nói “tâm địa
nhỏ nhen” “tính tình nhỏ nhen”, “lòng dạ nhỏ nhen”, “sự việc nhỏ nhen”...
không thể dùng để chỉ những gì thuộc vật chất, như đất đai, nhà cửa, vật
dụng...
Chúng
ta, không ai có thể nói “một căn nhà nhỏ
nhen”, một “khu vườn nhỏ nhen”.
Trong
“Từ điển Từ Nguyên” giảng 2 tiếng “THỦ THỔ” như sau:
- “Thủ thổ” là rút ngắn câu: “Thủ vệ cương thổ”. Trọn nghĩa là: “Giữ và bảo vệ lãnh thổ”.
-
Thư Thuấn Điển: “Tuế nhị nguyệt, Đông tuần thủ”. Dịch: Kinh Thư, thiên Thuấn Điển: “Một năm 2 tháng, vua đi tuần tra ở
phương Đông”.
Truyện:
“Chư hầu vi thiên tử thủ thổ, cố xưng thủ”.
Dịch: “Chư hầu là người giữ đất cho
thiên tử, do đó gọi là thủ (thổ) = giữ đất (nước)”.
Theo
Học giả Minh Di: Phần Truyện kể trên là của Khổng An Quốc (? - ?) thời Tây Hán
(206 tr. Cn - 25 Cn).
- “Tần ký giải Hàn Đan vi nhi Triệu vương
nhập triều, sử Triệu Thích ước sự ư Tần, cát lục huyện nhi cấu.” Dịch: “Sau khi Tần rút quân, không vây Thành Hàn
Đan nữa, thì Triệu vương vào triều, liền sai Triệu Thích giao ước việc thần
phục Tần, cắt 6 huyện cho Tần để giảng hòa.”
-
Ngu Khanh vị Triệu vương viết: “Tần chi
công vương dã quyện nhi qui hồ? vương dĩ kỳ lực thượng năng tiến, ái vương nhi
phất công hồ? Dịch: “Ngu Khanh nói
với Triệu vương: “Tần tới tấn công nhà vua có phải vì quân mệt mỏi mà rút về
chăng? Nhà vua có cho rằng lực của Tần còn có thể tiếp tục tấn công, thế nhưng
vì thương nhà vua mà không tấn công nữa hay không?”
-
Ngu Khanh viết: “Tần dĩ kỳ lực công kỳ
sở bất năng thủ, quyện nhi qui. Vương hựu dĩ kỳ lực chi sở bất năng thủ dĩ tống
chi, thị trợ Tần tự công dã! Lai niên Tần phục công vương, vương vô cứu hĩ!”
Dịch: “Ngu Khanh nói: Tần thấy lực của
mình đánh chiếm cái không thể chiếm được, bởi lẽ đó, khi thấy quân mệt mỏi mà
rút về, bây giờ nếu nhà vua nghĩ là quân lực của Tần không thể đánh chiếm được
Thành của Triệu mà lại cắt đất nhượng cho Tần thì đây là nhà vua giúp Tần để tự
đánh mình! Năm sau Tần lại tới tấn công nhà vua thì chừng đó nhà vua không cứu
được mình nữa!”
-
Vương viết: “Tần chi công ngã dã bất di
dư lực hĩ, tất dĩ quyện nhi qui dã!” Dịch: Triệu vương nói, “Quân Tần đánh ta không còn sức nữa, đây chắc chắn vì
mệt mỏi mà rút về!”
Câu:
“Vương dĩ Ngu Khanh chi ngôn cáo Triệu
Thích.” Dịch: “Triệu vương đem lời
của Ngu Khanh nói với Triệu Thích.”
-
Triệu Thích viết: “Thử đẳng đạn hoàn chi
địa phất dữ, lệnh Tần lai niên phục công vương”. Dịch: Triệu Thích nói: “vùng đất nhỏ này mà không cho thì năm sau Tần lại tới
tấn công nhà vua nữa.” / Sử Ký. Qu. LXXVI. Ngu Khanh truyện.
Còn,
2 chữ thử đẳng trong “Tuy THỬ ĐẲNG đạn
hoàn chi địa”, để chỉ địa danh của
hai Động: (động) Vật Dương và (động) Vật Ác, Hoàng Xuân Hạn dịch, “Tuy ĐẤT
ẤY là nhỏ nhen”, Hai chữ “Đất Ấy” là Số Ít. Trong khi câu “Tuy THỬ ĐẲNG đạn hoàn chi địa”, nghĩa
là để chỉ hai động Vật Dương và Vật Ác Số
Nhiều, do đó phải dịch là: “Những vùng” đất ấy mới đúng!
* Phụ chú: Về tiếng “đạn hoàn chi địa”, tham khảo thêm: “Chiến
Quốc Sách. Qu. XX. Triệu Sách 3. Tần công Triệu ư Trường Bình”.
- Nguyên tác: “tru cầm tiếm nghịch”. Hoàng Xuân Hãn dịch là “đánh
dẹp những kẻ chiếm lĩnh”.
Hai
chữ “TRU CẦM”
trên đây, nghĩa là “Tru = “giết”, Cầm =
“bắt” (giữ), “giam” (giữ).
Chữ
“TIẾM” nghĩa là “(vượt) quá phận,
nghĩa là vượt quá vai trò trong nhiệm vụ được giao, tức là việc làm không đúng
quy định, vượt ra ngoài trách nhiệm”. Chữ “NGHỊCH” nghĩa là
“phản loạn, phản nghịch,...”.
Hoàng
Xuân Hãn dịch “những kẻ chiếm lĩnh” thì không nói hết ý của nguyên tác, tức
thiếu các ý “PHẢN NGHỊCH” và “KHÔNG CHÁNH ĐÁNG”.
-
Câu “tru cầm tiếm nghịch” phải dịch là: “Diệt trừ, bắt giữ những kẻ phản nghịch
chiếm cứ đất đai không chính đáng”.
-
Câu “Dự vào hàng thiên thần”. Trong
nguyên tác không câu nào có ý nghĩa như Hoàng Xuân Hãn viết câu nầy. Người viết
không rõ Hoàng Xuân Hãn lấy từ đâu viết ra?
Đối
chiếu từng câu một so với nguyên tác, thì có vẻ như Hoàng Xuân Hãn đã dựa vào
câu “khởi cảm bị số ư phiên viên” mà
dịch (hay viết) ra.
Nếu
dự đoán của chúng tôi đúng, thì Hoàng Xuân Hãn đã dịch sai!
Tiếng
“bị số”
(trong câu “khởi cảm BỊ SỐ ư phiên viên”)
tức là “sung số”. Trong từ điển Từ
Nguyên giải nghĩa 2 chữ “SUNG SỐ”
như sau:
a. “Sung số”. Miễn cưỡng thấu số”.
b. “Sung số”. Miễn cưỡng gom lại cho đủ số”.
Nghĩa
là “vùng đất ở giáp với ranh giới 2
nước”.
PHIÊN là hàng rào, VIÊN là bờ tường thấp. Rào, tường đây chính là
hàng rào hay bức tường xây dựng dọc theo biên giới để làm ranh giới giữa hai
nước - Trong bài, là để chỉ lằn ranh giới giữa 2 nước.
Ngoài
ra, hai tiếng “phiên viên” còn dùng
để chỉ quan chức trấn giữ biên cương bảo vệ đất nước. Chẳng hạn, Phiên tướng là tướng trấn giữ biên
giới.
Trong
nguyên tác: “thâu
sinh ư khoảnh khắc”. Hoàng Xuân Hãn dịch là “sống trong chốc lát.” -
tức đã dịch thiếu mất chữ “THÂU”. THÂU có nghĩa là “trái đạo nghĩa”. Tiếng “thâu sinh” ở đây có nghĩa là “sống trái với đạo nghĩa”.
Chữ
“THÂU” ở đây, còn có nghĩa là
“trộm”, nên có người đã dịch là “sống trộm”. Sai!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét