Thứ Bảy, 25 tháng 3, 2017

Tác Phẩm của Thái Quốc Mưu

Phê Bình Văn Học, NÓI CHUYỆN CHỮ NGHĨA MÀ CHƠI:

- “Huynh Đệ Chi Binh” hay “Binh Chi Huynh Đệ”?
- Nói về hai chữ “Tang Thương”
- Hai chữ Lãnh Đạo nghĩa là gì?



Thái Quốc Mưu

Đôi dòng trước khi vào bài:

* Trong lãnh vực văn học, chúng ta đừng vì học vị của những ông khoa bản mà “BỎ QUÊN” không phê bình những sai lầm trong các bài viết hay tác phẩm của họ.

* Khi phê bình văn học, chúng ta phải ra sức tìm tòi, tham khảo, tra cứu, lấy sự trung thực, lòng ngay thẳng và lương thiện mà nhận định rồi chỉ rõ những chỗ sai lầm. Không nể nang, thiên vị bất cứ kẻ nào! Nếu không làm được những điều đó, chẳng những chúng ta có tội với tiền nhân mà còn có lỗi với tác giả và những thế hệ mai sau.
Thái Quốc Mưu


*** 

***
BÀI THỨ NHẤT:
NÓI VỀ TIẾN SĨ VŨ NGỰ CHIÊU NGHĨ SAI, MUỐN CHỈNH CÂU THÀNH NGỮ HUYNH ĐỆ CHI BINH thành “BINH CHI HUYNH ĐỆ.

Do người bạn giới thiệu, tôi vào trang Caroline Thanh Hương, tình cờ đọc được bài viết của ông Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu: “NGÀN NĂM SOI MẶT: Cái Chết Của Một Hàng Tướng: DƯƠNG VĂN MINH: (1916-2001) - NGUYÊN VŨ VŨ NGỰ CHIÊU

Để quý độc giả tiện theo dõi, người viết xin giới thiệu Tiểu sử của Nhà Nghiên Cứu Sử, Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu (trích: Chuyên Luận. net)

“Chính Đạo là một trong hai bút danh của  Vũ Ngự Chiêu. Bút danh kia là Nguyên Vũ, rất nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975. Trước 1975, Vũ Ngự Chiêu phục vụ trong binh chủng Pháo Binh Dù, QLVNCH, và đã có hơn 20 tác phẩm xuất bản. Sau khi ra hải ngoại, ông vừa tiếp tục cầm bút vừa đeo đuổi việc học. Tốt nghiệp Tiến Sĩ Sử tại Đại Học Wisconsin-Madison năm 1984, sau khi cùng gia đình di chuyển về Houston, ông là Giám Đốc nhà xuất bản Văn Hóa và tốt nghiệp Tiến Sĩ Luật tại Đại Học Houston năm 1999. 
  
Những tác phẩm của Vũ Ngự Chiêu xuất hiện trước năm 1975 dưới bút danh Nguyên Vũ gồm có  Đời Pháo Thủ (bút ký), Những Cái Chết Vô Danh (tập truyện), Trở Về Từ Cõi Chết (truyện), Vòng Tay Lửa (trường thiên), Thềm Địa Ngục (truyện), Đêm Hưu Chiến (truyện), Sau Bảy Năm Ở Lính (bút ký), Đêm Da Vàng (trường thiên), v.v.  Tại hải ngoại, Vũ Ngự Chiêu đã in thêm các tập Xuân buồn thảm: Cuộc Sụp Đổ của Nam Việt Nam (bút ký), Trận Chiến Chưa Tàn (truyện), Giặc Cờ Đỏ (trường thiên), cùng hai tâm bút Paris: Xuân 1996, và Ngàn Năm Soi Mặt. 
  
Về nghiên cứu sử học, ông đã in ba tác phẩm bằng tiếng Anh dưới tên thực, và 10 biên khảo bằng Việt ngữ với bút danh Chính Đạo. Biên khảo duy nhất bằng Việt ngữ ký tên thực của ông là bộ Các Vua Cuối Nhà Nguyễn, 1883-1945, gồm ba tập. Những tác phẩm ký tên Chính Đạo thường được viết cho độc giả không chuyên môn, dễ đọc hơn, không quá khô khan như các biên khảo đúng yêu sách bác học...” (ngưng trích).

Xin trích một đoạn ở LỜI MỞ ĐẦU trong bài viết của ông Ts. Vũ Ngự Chiêu. Khi có thời gian chúng tôi sẽ phê bình trọn bài của vị Ts. nầy.

“... Ngay trong hàng ngũ quân đội nhiều người cũng không muốn “huynh đệ chi binh”(đúng ra có lẽ phải là “binh chi huynh đệ”) với Tướng Minh. (ngưng trích).

Đoạn văn trên, khơi gợi cho tôi cảm hứng viết bài nầy, tôi chọn NÓI CHUYỆN CHỮ NGHĨA MÀ CHƠI làm đề bài. Và, nhân đây tôi viết thêm vài câu chuyện nói về chữ nghĩa khác.

Ở đời, không ai biết tất cả, chẳng ai tốt tất cả và ngược lại. Sự hiểu biết của mỗi người trên mỗi lãnh vực đều có giới hạn nhất định; cách sống của mỗi người đều có hai mặt tốt, xấu. Không ai có bộ óc hoặc, có cuộc sống toàn bích. Những vị Tiến sĩ, Học giả, ngay cả các tu sĩ cũng không ngoại lệ. Vì thế, không ai tránh khỏi sai lầm.

Trên Tạp Chí Kiến Thức Phổ Thông Dân Việt và trên nhiều trang nhà trong, ngoài nước, hai tháng 4, 5/2016 có đăng ba (3) bài do tôi viết: Bình Luận Văn Học, nói về những sai lầm của Tiến sĩ, Học Giả, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn trong bộ sách Lý Thường Kiệt.

Hầu hết những bài viết đăng trên những tờ báo ở địa phương chỉ được phổ biến trong phạm vi hạn chế. Trái lại, một bài viết được chọn đăng ở các Website đều được phổ biến trên toàn cầu. Nhờ đó, số người đọc nhiều hơn. Trong số bạn đọc ấy có những Học giả, Tiến sĩ, các Nhà nghiên cứu văn học, giới viết lách và đông đảo độc giả nhiều thuộc thành phần khác ở bốn phương, tám hướng.

Nếu người phê bình văn học mà nghĩ sai, viết sai tất nhiên sẽ bị dư luận cực lực phản đối. Đồng thời kẻ viết phê bình phải chịu tránh nhiệm trước lịch sử, trước tác giả và quần chúng. Đó là lẽ tất nhiên! Không phải chuyện đùa.

Ở đọan văn dẫn trên Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu viết: “… huynh đệ chi binh” (“đúng ra có lẽ phải là “binh chi huynh đệ”). Với câu nói nầy của Vũ Ngự Chiêu cho ta thấy nó vượt ngoài khả năng Hán văn của ông ta.

Có lẽ ông Vũ Ngự Chiêu nghĩ mình là ông tiến sĩ cho nên tự cho mình muốn nói chi thì nói, muốn nhảy vào lãnh vực nào cũng được, không ai dám đụng tới “con người tiến sĩ” của ông ta.

Ts. Vũ Ngự Chiêu không biết khi thành ng Nho Việt dịch sang thuần Việt, thường thì phải theo nguyên tắc, dịch ngược từ sau tới trước. Hoặc, tùy theo ý nghĩa của câu mà áp dụng cách dịch phi nguyên tắc miễn sao cho đúng nghĩa với câu ngoại ngữ và suôn sẻ là được.

“Huynh đệ CHI binh” có nghĩa, là “(trong quân đội) người lính (coi nhau) như anh em.” Nếu Ông Vũ Ngự Chiêu chỉnh lại “Binh CHI huynh đệ”, khi dịch sang thuần Việt sẽ trở thành “Anh em là lính”. Hoặc “Anh em lính.”

Ngoài ra, hai chữ HUYNH ĐỆ trong câu thành ngữ “Huynh đệ chi binh” bao gồm: từ người chỉ huy có cấp bậc cao nhất xuống tận những anh binh nhì, hoặc lính mới “tò te”

Mặt khác, chữ BINH trong câu thành ngữ đã dẫn, còn ngụ ý là QUÂN ĐỘI. Vì thế câu “Huynh đệ chi binh” phải hiểu là, “(trong) Quân Đội mà ở đó binh sĩ cùng các cấp chỉ huy đều coi nhau như anh em – Hàm ý, “(Trong) Quân Đội từ trên xuống dưới đều cùng một lòng (đồng tâm) để tạo nên sức mạnh”.

Trong bài "Bình Ngô Đại Cáo" của Nguyễn Trãi có câu "Phụ tử chi binh nhất tâm", tức "Quân đội và tướng chỉ huy cùng quân sĩ như cha con một lòng".

Chữ "CHI" trong "Huynh đệ CHI binh" trong Văn pháp (Văn phạm) là một trợ từ, nên nghĩa của chữ CHI tùy thuộc vào câu nói và đôi khi, không có nghĩa gì cả. CHI chỉ là tiếng phụ vào câu để khi nói ra cho thuận miệng, êm tai.

Bởi là một trợ từ, nên trong một câu hoặc KHÔNG CÓ chữ (hay tiếng) CHI cũng đầy đủ nghĩa.

Thí dụ 1:

- “Ngô CHI phụ mẫu”, nghĩa “Cha mẹ CỦA tôi” (chữ CHI ở đây được dịch là CỦA). Khi ta bỏ trợ từ CHI ra, ta nói, “Cha mẹ tôi” cũng đủ nghĩa.

- “Đại học CHI đạo” nghĩa: “(cái) đạo CỦA đại học” (chữ CHI trong câu nầy cũng dịch là CỦA). Khi bỏ chữ CỦA (dịch từ chữ CHI) ta chỉ nói, “(cái) Đạo đại học” cũng đúng.

Thí dụ 2:

- “Huynh đệ CHI binh”, nghĩa: “(cùng là) người lính (với nhau, hãy coi) NHƯ anh em (chữ CHI ở đây được “coi là” NHƯ).

- Nếu nói như cách nghĩ của ông Vũ Ngự Chiêu là: “Binh CHI huynh đệ” thì nghĩa, “Anh em LÀ lính” (chữ CHI ở đây lại dịch LÀ). Nghĩa của nó hoàn toàn khác xa nghĩa của câu thành ngữ chính (Huynh đệ chi binh).

Thí dụ 3:

- Trong Bình Ngô Đại Cáo có “Điếu phạt CHI sư (nghĩa: quân đi đánh giặc) / Nhân nghĩa chi cử (nghĩa: cử chỉ nhân nghĩa / Hai câu nầy được Nguyễn Trãi rút ngắn ở hai câu có nguyên văn như sau:

- Điếu phạt CHI sư, mạc tiên khử bạo. (nghĩa: “Quân binh đi dẹp loạn trước tiên là diệt bạo.” Chữ SƯ ở đây nghĩa là binh sĩ, quân đội)

- Nhân nghĩa CHI cử, yếu tại an dân (nghĩa: “Việc nhân nghĩa cốt yếu là để an dân.” Chữ CỬ ở đây là cử chỉ, hành động, việc làm)

Chữ CHI ở hai câu trên đây đều không có nghĩa.

Tóm lại, TRONG CÁC CÂU ĐÃ DẪN, chúng ta có thể bỏ chữ "CHI" cũng không mất ý nghĩa của câu chính, tuy nhiên bỏ đi thì đọc ra nghe trúc trắc, hụt hẫng!

Ngoài ra, trợ từ CHI còn thấy trong tên người, chẳng hạn:

- “Giới CHI Thôi” tức là tên của ông Giới Thôi (chữ CHI ở đây chẳng có nghĩa gì cả). Ông Giới Thôi là một bề tôi của Tấn Văn Công thời Xuân Thu (770 - 403 tr. Cn).

“Giới CHI Thôi” trong thư tịch cổ Trung Hoa viết là Giới TỬ Thôi; chữ “Tử” ở đây cũng là một trợ từ, không có nghĩa.

Tôi nghĩ, về Hán văn, tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu có thể không biết hoặc, chỉ biết lõm bõm, nên không hiểu nghĩa tường tận, đầy đủ, rõ ràng.

***

BÀI THỨ II: NÓI VỀ HAI CHỮ TANG THƯƠNG.

Sau khi làm xong bài thơ CHÓ và NGƯỜI. Tôi email cho người bạn thơ (xin miễn nêu tên) ở Cali. đọc chơi! Bài thơ như sau:

Lũ chó tranh ăn ở giữa đường
Đứng nhìn, nghe, thấy quá thê lương        
Vì mồi cấu xé quên nòi giống
Tham lợi giựt giành bỏ máu xương
Há mỏm cắn nhau gây bát nháo
Cất đầu đọ sức dựng tang thương
Bầy đàn bôi mặt quay lưng đấu
Chó cũng như người lắm nhiễu nhương.
Atlanta, USA, Feb 01, 2016
Thái Quốc Mưu

Lâu sau, người bạn ấy phone hỏi tôi:

- “Bát nháo” là tính từ, sao anh dùng “tang thương” mà đối lại? “Tang là dâu, thương là Biển” hai chữ đều là danh từ mà anh!

Tôi đáp:

- Tang là dâu, Thương là Biển, khi hai chữ dùng riêng thì nó là TỰ (chữ, một tiếng), nên thuộc về danh từ. Nhưng khi ta kết hợp hai chữ “tang + thương” lại thành “tang thương” thì ở đây nó đã cấu tạo thành TỪ (ngôn ngữ), khi đã cấu tạo thành TỪ (ngôn ngữ) thì nó chuyển thành tính từ kép. Bát nháo đối bằng Tang thương rất chính xác đó anh!

Ông bạn tôi vẫn nhất định giữ ý của mình:

- Tang là dâu, Thương là Biển thì không đối với Bát Nháo được!

Tôi làm thinh, “chịu thua”. Chúng tôi cùng cúp phone. Chừng năm, bảy phút sau, anh ấy gọi lại:

- Thái Quốc Mưu ơi! Đúng rồi! Tang Thương có hai nghĩa như anh nói.

Tôi lại hỏi:

- Như vậy anh có hiểu hai chữ tang tương nghĩa là gì không? – Anh ấy đáp:

- Nghĩa là tiều tụy, đau khổ tận cùng. Đúng không?

Tôi cười đáp:

- Anh không nói, nhưng tôi biết chắc chắn anh vừa lật Tự Điển ra xem. Đúng không nè? – Anh ấy cười khì.

Tôi tiếp:

- Tôi xin khuyên anh đừng tin vào Tự Điển một cách máy móc. Đôi khi các nhà ngôn ngữ học viết Tự Điển cũng sai tuốt luốt đó anh! Hai chữ tiều tụy để chỉ thể xác ốm o, còm cõi của con người. Chứ chẳng liên quan gì đến hai chữ tang thương. Trong khi tang thương nói về hoàn cảnh trong cuộc sống của con người.

- Vậy nó nghĩa là gì hả anh?

- Đúng nghĩa là: Tận cùng của thảm cảnh. Hoặc, tận cùng của đau khổ, tận cùng của thê thảm, tận cùng nghèo khó, tận cùng,…

Anh bạn tôi cười, tếu:

- Còn tận cùng của tận cùng nữa. Hahaha!

Tôi ngắt tiếng cười của anh ấy:

- Nghiêm chỉnh một chút đi cha! Nghe nói đây nè! Anh có biết vì sao biển lớn gọi là Dương, biển nhỏ gần thềm lục địa gọi là Hải. Thế thì, tại sao người ta không nói TANG DƯƠNG hay TANG HẢI mà NÓI TANG THƯƠNG? Trong khi chữ THƯƠNG giải nghĩa là Biển, mà có Biển nào mang chữ THƯƠNG đâu?

Bạn tôi, có lẽ đang vò đầu, tiếp theo tôi nghe anh chậc lưỡi:

- Chậc! cái nầy coi bộ khó hiểu nha! Thôi “ông thầy” giải thích luôn đi!

- Nghe nè ông bạn! THƯƠNG có nghĩa là NGOÀI KHƠI của đại dương. Nơi đó có sóng to bảo lớn, có thể nhận chìm tất cả tàu thuyền; tương tự như nỗi đau khổ tận cùng cũng có thể “nhận chìm” cả đời người. Do đó, người ta mới ghép tang với thương để nói về sự tận cùng của thảm cảnh nào đó.

- Nếu THƯƠNG là ngoài khơi của đại dương, sao người ta dịch là biển mà không dịch Tang là Dâu, còn Thương là “ngoài khơi đại dương?”

- Trời! Trời! Ông bạn tôi làm mấy xị đế rồi mà “đầu óc sáng suốt” dữ vậy ta? Nghe nha, khi Tự (dấu nặng) kết thành Từ (dấu huyền) để cấu tạo thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ sau khi chắt lọc kết hợp nhau tạo ra thành ngữ, phương ngữ, ca dao… thì người ta chọn cách nào cho không rườm rà và đơn giản nhất, dễ nhớ nhất, đồng thời còn liên đới với nhau. Thương là ngoài khơi của đại dương, đó là giải thích theo chữ nghĩa. Thực tế, Thương là BIỂN TRONG BIỂN, không có biển thì làm sao có BIỂN (ngoài) KHƠI của đại dương cha nội?

Còn điều nầy nữa, có nhiều Hán văn không thể sử dụng nghĩa chính của Tự (dấu sắc), mà chỉ dùng sau khi nó được kết hợp với một chữ khác để cấu tạo thành Từ (dấu huyền) mà ý nghĩa sau khi kết hợp nó hoàn toàn khác với nghĩa gốc. Thí dụ: Can Đảm nghĩa đen là GAN, MẬT (cả hai chữ đều là danh từ). Tuy nhiên, trong văn học chẳng thấy ai nói hay viết “thằng đó gan mật” mà chỉ nói hay viết: “Thằng đó cam đảm”. Và, khi Can (gan) kết hợp với Đảm (mật) thành Can Đảm, thì hai chữ Can Đảm ở đây được cấu tạo thành tính từ để chỉ tinh thần dũng cảm, hay khí phách hiên ngang của con người.

***

BÀI THỨ III: NÓI VỀ HAI CHỮ LÃNH ĐẠO

Trong ngày giỗ Quốc Tổ Hùng Vương, ở Nhà hàng Viễn Hương, cô Trà My, Chủ tịch Ban Chấp Hành Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia, Georgia. Sau khi đọc diễn văn, với tư cách Chủ tịch Ban Chấp Hành… tuyên bố (đại khái): “Nhân danh Ban LÃNH ĐẠO Cộng Đồng, tôi tuyên bố khai mạc…” Tôi giật mình, tự nghĩ không biết ông “Cố Vấn” nào, hướng dẫn cô Trà Mi tuyên bố như vậy?

Lâu sao, tôi gọi ông một ông bạn:

- Trong ngày giổ tổ Hùng Vương, ai “cố vấn” cho Trà My, xưng là Ban LÃNH ĐẠO Cộng Đồng vậy anh?

Ông bạn tôi đáp (đại khái):

- Khuyến khích được giới trẻ, đứng ra làm thì tốt rồi, anh thắc mắc, bắt bẻ làm chi? Nếu nói là Lãnh Đạo thì to lớn lắm,…

Tôi muốn nói lên ý mình, nhưng ông bạn ấy Dương tỏ vẻ không bằng lòng, bèn viện cớ bận rộn, cúp phone.

Ý tôi muốn nói như viết sau đây, vị nào có nghĩ lời nói của tôi là sai, là bắt bẻ xin mời gặp tôi thảo luận lại.

Tôi nghĩ, các thế hệ thứ hai sau ta, đến Mỹ khi còn quá trẻ. Ở Mỹ chúng được học hành đầy đủ nên dễ dàng tiếp thu ngôn ngữ, cuộc sống của người bản xứ. Về ngôn ngữ địa phương chúng có thể đáng bậc thầy chúng ta. Nhưng với tiếng, chữ từ cố quốc chắc chắn lớp trẻ ấy không thể bằng chúng ta.

Vì vậy, khi chúng ta muốn tôi luyện cho các cháu thuộc thế hệ thứ hai theo gương bậc cha chú hầu duy trì ngôn ngữ, phong tục, tập quán quê nhà, thì, chúng ta phải tận tâm hướng dẫn các cháu bằng những điều mà chúng ta thật sự hiểu biết thông suốt. Chứ đừng truyền đạt sự dốt nát, ngu muội của chúng ta đến các cháu. Đa phần các cháu khi rời tổ quốc chưa thấm nhuần, làu thông ngôn ngữ ông cha. Vì vậy, khi “ai đó” đem sự ngu dốt của mình ra dạy bảo, hướng dẫn,… Các cháu vì tôn trọng và tin tưởng sự hiểu biết của bậc chú bác mà tiếp nhận nhưng không biết những điều hướng dẫn ấy là sai, rồi vô tình đưa vào đầu óc của giới trẻ sự ngu dốt của người đi trước.

Do đó, các cháu cứ nói, cứ làm theo lời dạy ngu dốt ấy, đến một lúc lời lẽ của các cháu sẽ trở thành lố bịch. Trường hợp, điều không tốt đẹp ấy xảy ra, đến ngày nào đó cộng đồng chúng ta sẽ bị thụt lùi. Khi ấy dù có hối hận cũng muộn rồi!

Trên phương diện chữ nghĩa, kẻ nào đầu độc, nhét vào đầu giới trẻ hay người khác bằng sự ngu dốt của họ, khiến cho thế hệ lớn lên ở nước ngoài hiểu sai, nói sai tiếng nói, chữ nghĩa của cha ông, dần dần rời xa cội nguồn dân tộc. Đó là một hành vi tội ác không thể dung thứ.

Tôi nghĩ, có lẽ - có lẽ thôi! Vị “cố vấn” nào đó, trước khi muốn bỏ ba chữ Ban Chấp Hành để thay vào ba chữ Ban Lãnh Đạo cho… oai, rằng thì là đã lật Từ Điển ra tra cứu, rồi mắt nhắm, mắt mở truyền lại cho các cháu trong Ban Chấp Hành Cộng Đồng, mà cô Trà My, với tư cách Chủ Tịch Cộng Đồng đã không biết sai đã đem ra áp dụng.

Trong Từ Điển Tiếng Việt, của Viện Ngôn Ngữ Học, do nhà xuất bản Đà Nẵng – Trung Tâm Từ Điển Học Hà Nội - Đà Nẵng phát hành năm 1997. Với gần hai chục nhà ngôn ngữ học cùng viết, cùng định nghĩa; có thủ bút của Phạm Văn Đồng, Thủ Tướng nước Việt Nam hiện tại hết lời ca ngợi. Như vậy, ta có thể hiểu, đó là cuốn Từ Điển “gồ ghề ghê gớm” lắm.

Tuy nhiên, bộ Từ Điển ấy còn thiếu rất nhiều Tự và Từ, nhiều chỗ giải nghĩa RẤT SAI, mà người viết (TQMưu) đã chứng minh trong một vài bài viết trước đây. Ngay cái tên bộ sách để là TỪ ĐIỂN… cũng sai. Vì, TỪ ĐIỂN là bộ sách giải nghĩa TỪ, tức là ngôn ngữ (có hai chữ trở lên). Trong khi Bộ TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT đã dẫn, giải nghĩa cả TỰ lẫn TỪ thì không thể gọi là TỰ ĐIỂN hay TỪ ĐIỂN. Phải gọi tên bộ sách bằng TỪ THƯ.

Trong cuốn Từ Điển đã dẫn, giải nghĩa hai chữ LÃNH ĐẠO như sau:

LÃNH ĐẠO
1 (động từ): Đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện. Đảng lãnh đạo cách mạng. Lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Lãnh đạo hội nghị.

2 (danh từ): Cơ quan lãnh đạo, trong quan hệ với người được lãnh đạo. Góp ý cho lãnh đạo.

Cụm từ “Góp ý cho lãnh đạo” là động từ, không phải danh từ. Vậy mà những nhà ngôn ngữ học đặt vào mục danh từ.

Thực ra, hai chữ LÃNH ĐẠO phải định nghĩa như sau:

- Tổ chức hay cá nhân có quyền lực tối cao đứng đầu đất nước, đảng phái, tôn giáo. Chẳng hạn như: Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, Tổng Thống, Quốc Trưởng, Quốc Vương / Giáo hội Thiên Chúa Giáo, có Giáo Hoàng / Giáo Hội Phật Giáo, có Tăng Thống / Đảng phái, có Tổng Bí Thư, hay Đảng Trưởng,…

Trong một quốc gia chức năng lãnh đạo của Tổng Thống, Quốc Vương, Quốc Trưởng là người có quyền lực tuyệt đối trong mọi lãnh vực. Còn, các vị như “Đảng trưởng” của các đảng phái, hoặc Tăng Thống của giáo hội Phật giáo… với chức năng lãnh đạo, quyền lực của họ không ngoài phạm vi các tổ chức liên hệ thống thuộc trong một tổ chức hay một đất nước mà thôi. Đặc biệt, tổ chức của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo, chức danh Giáo Hoàng thì vượt qua mọi biên giới, vì, hệ thống tổ chức của giáo hội Thiên Chúa Giáo xuyên suốt hoàn cầu và chỉ thống thuộc dưới sự lãnh đạo duy nhất của Vatican, của Giáo Hoàng.

Còn, Đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện như cách giải thích ở phần 1, chữ tô đậm, có gạch dưới ở trên đây ở cuốn Từ Điển đã dẫn, là vai trò, nhiệm vụ của những kẻ thừa hành được chỉ đạo từ Ban Lãnh Đạo hay của người giữ chức năng Lãnh Đạo cao nhất. Nó không phải là nghĩa của hai chữ Lãnh Đạo.

Không một Ban Lãnh Đạo, hay người giữ chức danh lãnh đạo nào tự bản thân làm ba cái việc lỉnh kỉnh ấy.

Từ sau ngày 30-4-75, một số người Miến Bắc mang theo những ngôn ngữ kệch cỡm, thô thiển,… vào Nam, một số người (không nhỏ) trong Nam ăn phải bã đem vào sử dụng một cách ngô nghê, dốt nát. Người Việt ở ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng không ngoại lệ.

Trong những buổi sinh hoạt cộng đồng, Ban Tổ Chức muốn “nổi” cho xôm trò, ở phần giới thiệu họ hay cường điệu để đánh lừa quan khách rằng tổ chức, đoàn thể của ta quy tụ được những thành phần quan trọng. Chẳng hạn:

Khi giới thiệu về những ông tu sĩ, họ dùng dao to búa lớn để giới thiệu, như: Thượng tọa X, LÃNH ĐẠO TINH THẦN chùa... / Linh mục Z, LÃNH ĐẠO TINH THẦN nhà thờ… Trong khi TINH THẦN là thứ phi vật thể không ai có khả năng lãnh đạo được. Vậy mà, giới thiệu những ông tu sĩ đó LÃNH ĐẠO TINH THẦN thì họ lãnh đạo cái gi? Có chăng bổn phận của giới tu sĩ chỉ hướng dẫn, chăm sóc về đời sống tinh thần của tín đồ, con chiên mà thôi.

Tại sao, không giới thiệu, Thượng tọa Thích (gì đó), tụ trì chùa… Linh Mục A, chánh xứ giáo xứ… như vậy phải rõ ràng, chính xác hơn không? Quý ông tu sĩ, là những bậc tu hành, đời sống thanh bạch, khiêm cung (các vị chân tu), họ đâu cần chúng ta bốc thơm, bợ đỡ,… nếu chúng ta tâng bốc họ thái quá thì chúng ta sẽ trở thành lố bịch.

Trọng tâm của hai chữ LÃNH ĐẠO phải ngầm hiểu bao gồm cả QUYỀN LỰC. Không có quyền lực thì chẳng lãnh đạo được ai. Vậy mà, cuốn TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT “gồ ghề ghê gớm” đã nêu trong bài nầy, khi giải thích hai chữ LÃNH ĐẠO không hề nhắc đến QUYỀN LỰC.

Cộng Đồng Người Việt ở Atlanta, hay các cộng đồng người Việt khác chỉ là một tổ chức trong dạng hội đoàn. Do đó, Ban Chấp Hành là những người nhận sự ủy thác của các thành viên trong cộng đồng của mình và họ phải thực hiện tốt đẹp sự ủy thác ấy, hầu duy trì nền văn hóa dân tộc ở xứ lạ quê người.

Tôi (TQMưu) hoàn toàn tán đồng lời của ông bạn tôi: “Khuyến khích được giới trẻ, đứng ra làm thì tốt rồi…?” Tuy nhiên, khuyến khích thế hệ trẻ, thay thế thế hệ già nua là điều rất tốt. Nhưng, trong sự khuyến khích ấy mà thế hệ trẻ được chúng ta hướng dẫn, tôi luyện, chỉ bảo những điều tốt, hay, đúng,… hầu giúp các cháu tránh được điều dở, điều sai,… để tiến lên, chắc chắn sẽ tốt hơn chỉ bậy, nói càng.

Cuối cùng, tôi yêu cầu ông “cố vấn” ngu dốt nào đó, từ nay đừng đem sự ngu dốt của ông truyền đạt cho giới trẻ nữa, vì sự ngu dốt của ông như là một loại vi khuẩn cực độc sẽ lây nhiễm vào bộ óc minh mẫn, tâm hồn trong trắng cũng như tinh thần dấn thân của các cháu. Mong thay!

Atlanta, June 10, 2016
Thái Quốc Mưu




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét