MÙA THU TRONG THI CA
hoàng long hải
Mùa thu trong Đường Thi
Trong Cổ Thi Việt Nam
Và trong Thơ Mới với Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Hàn Mặc Tử ...
Giới thiệu:
Tôi có điều may mắn là
trong mười năm làm giáo sư trung học (1958-1968), dạy môn văn chương Việt Nam, tôi thường phải tìm tòi cổ văn
lẫn kim văn nước ta để làm tròn cái chức năng “gạch nối” giữa thế hệ đã qua và
thế hệ đang tới, đem cái tinh hoa của người xưa mà truyền thụ lại cho người đời nay, với niềm hy vọng tha thiết là cái gì người xưa sáng tạo thì người sau cảm nhận nó, đau với cái đau, vui với cái vui của người xưa, cảm thông tâm sự của họ, để khỏi như Nguyễn Du phải trách đời rằng, ba trăm năm về sau nữa có ai nhỏ xuống cho ông đôi dòng lệ tiếc thương một kiếp người tài hoa bạc phận:
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Thế hệ ngày nay và mai
sau sẽ nâng niu trân trọng nó và phát triển thêm ra vì văn hóa Việt Nam không
chỉ của riêng người Việt.
Bên cạnh đó, phong cảnh
hữu tình thơ mộng của Huế đã khắc đậm vào lòng
tôi những cảm xúc bồi hồi, nhung nhớ khó phai, cùng với bao nhiêu kỷ niệm của
một thời trẻ dại. Những hàng phượng đỏ hai bên bờ sông Hương cùng với thành quách đền đài miếu mạo, những con đường rợp bóng mù u, những ngày nắng xuân le lói, những đêm mưa âm thầm trong đại nội, trong tử cấm thành như phảng phất đâu đó linh hồn vua chúa, cung phi mỹ nữ đã quá vãng lâu rồi,
làm cho lòng tôi càng thêm hoài cổ, dẫn dắt người ta tới chỗ mộng mơ mà mộng mơlà chất liệu của thi ca, đặc biệt thi ca lãng mạn
tiền chiến, một nền thi ca sung mãn và đặc sắc, mới lạ của Việt Nam, kể từ
1925, khi Phan Khôi thổi hồi kèn tiên phong với bài “Tình già” cho tới cuộc
“Cách Mạng Mùa Thu” năm 1945, cuộc cách mạng mở ra một thời kỳ thi ca đấu tranh
cho nền độc lập dân tộc.
Mặc dầu đã xa môi trường văn học ấy hơn ba chục năm, mà đời tôi thì lắm cảnh
thăng trầm, từ một anh lính mới tò te ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cho
tới những bước chân phiêu bạt của người làm phóng viên phát thanh chiến trường ở những bến sông ở chỗ tận cùng của đất nước, qua nhiều năm
trong cảnh tận cùng địa ngục trong nhà tù Cọng sản, hay một bến bờ xa lạ nơi hoang đảo tỵ nạn Pulau Bidong, lòng
yêu mến thi ca của tôi chẳng bao giờ phai lạt. Nay trôi giạt về nơi xứ người, nhìn cảnh thu
màu sắc vô cùng đẹp đẽ nơi vùng Đông Bắc nước Mỹ, lòng tôi thêm nung nấu nhớ
nhung những mùa thu cũ, cả trong thi ca cũng như ở cảnh sắc quê nhà, viết lại đôi dòng để tỏ bày
cùng tri âm, cùng cố nhân và cả những ai lớn lên ở quê người, chưa từng nghe “Tiếng thu” quê hương nức nở, chưa từng cảm “Ý thu” Việt Nam rạt
rào trong trái tim nóng bỏng của cha ông đã viết nên những trang thơ tuyệt vời làm say đắm biết bao nhiêu người!
Viết tại Barre, Mass thu
năm Dậu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét