*TUỆ CHƯƠNG
Bây giờ là mùa thu, mùa
thu mà không nói đến thi ca thì sao được?! Dù sao thì ta cũng nên để cho lòng
ta lắng đọng một chút, để cho lòng xúc động một chút, dù chỉ là một chút thôi
vì cuộc đời nơi đất khách lắm khi tất bật, để ru hồn mình vào cảnh thu ở quê người và nhớ lại đôi chút cảnh thu ở quê nhà qua những vần thơ cũ.
Hồi mới đến đây, vùng
Đông-Bắc Hoa Kỳ, tôi thấy xứ Mỹ nầy lạ lắm. Hết thành phố lâu đài cao rộng thì
đến những núi đồi trùng điệp, có chỗ giống như đường lên Đà Lạt, cao nguyên ở
quê mình, dù không “Đường lên núi rừng sao hãi hùng” thì cũng làm ta bâng
khuâng, lòng vẫn còn mơ tưởng đến những con đường cũ.
Nhà tôi ở Barre, một
town nhỏ, cách Worcester, thành phố lớn thứ nhì của Massachusetts những 22 dặm.
Ngôi nhà nằm lưng chừng một ngọn đồi nhỏ, sau nhà là một rừng thông bao la, chỉ thấy nhà hàng xóm thấp thoáng trong bóng cây, và trước mặt cũng là một rừng thông trùng điệp, thoai thoải xuống chân đồi, dưới đó có một hồ nước rộng mà nước bao giờ cũng xanh biếc, tưởng như sâu thăm thẳm. Mùa hạ vừa qua, phấn thông vàng bay lã tả, rụng
đầy hiên nhà, mui xe, kính xe... làm tôi nhớ “Phấn thông vàng” của Xuân Diệu.
Tôi không biết Xuân Diệu thấy phấn thông vàng ấy ở đâu, ở Đà Lạt hay ở những
ngọn thông trên núi Ngự Bình. Rừng thông nầy, sau khi Pháp chiếm lại thành phố
Huế năm 1946, đã bị chặt trụi, làm cho núi Ngự Bình thành ra hòn núi trọc,
khiến cụ Ưng Bình Thúc Giạ
thị phải than:
Núi Ngự không cây chim ngủ đất
Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời.
Bây giờ là mùa thu ở
đây, lá sồi màu xanh non đang chuyển qua màu xanh già, bắt đầu úa để chuyển qua
màu đỏ nâu, rụng đầy trên những con đường lớn, nhỏ trong các cụm rừng trên các
con đường vùng tôi ở. Những cành cây khẳng khiu giơ lên giữa bầu trời thu xanh, như cánh tay gầy guộc của ai đó, không khỏi làm cho lòng người xao xuyến, tiếc một mùa hạ qua nhanh.
Mỗi ngày đi từ Barre tới
Worcester một hai bận, tôi thấy cảnh sắc khác đi từng chút, từng ngày. Lớp lá
rụng bên đường hôm nay hình như dày hơn hôm qua, những cành khô giơ lên trời cao nhiều hơn, màu lá thông đen thẫm hơn. Trời xanh ngăn ngắt nhưng lại thêm nhiều đám mây vần vũ, báo hiệu một mùa đông giá gần kề. Vài khi tơ trời vương trên kính xe; hay mỗi chiều khi tôi ngồi trước sân nhà, vướng nhằm những sợi tơ mỏng manh, trắng muốt, nhẹ nhàng bay qua, tôi không khỏi nhớ đến những câu thơ của Nguyễn Bính tả một cảnh thu ở đồng bằng Bắc bộ:
Tơ gạo phương xa tản mạn về
Gió vào đồng lúa chín vàng hoe
Một con diều giấy không ăn gió
Ỏng ẹo chao mình xuống vệ đê
Con đường đi về mỗi ngày
gần năm mươi dặm, ngồi một mình trong xe, đóng kín cửa, đừng mở hơi nóng hay
hơi lạnh để khỏi nghe tiếng quạt máy kêu vù vù mà nghe cho rõ “Buồn Tàn Thu”
của Văn Cao, nghe Họa Mi hát “Em Ra Đi Mùa Thu” của Phạm Trọng, nghe “Mùa Thu
Paris” của Phạm Duy... Ôi! nỗi buồn nơi xứ người sao thấm thía làm vậy!?
Mùa thu, cái gì trông
cũng có vẽ lãng đãng, mơ màng và vô cùng gợi nhớ, từ những ngày còn niên thiếu, bước vào tuổi mộng mơ, cho đến bây giờ tóc ngã màu sương muối, lưu lạc nơi xứ người. Nhìn
đâu đâu cũng nhuốm vẻ thu; thu ở mầu trời, mầu đất, màu hoa lá, màu cây, màu
không gian và cả “màu thời gian... tím ngắt” trong lòng mỗi chúng ta nữa. “Màu
thời gian” ấy, Đoàn Phú Tứ thấy trong lòng “Tần phi” và Tương Phố thì thấy trong Giọt Lệ Thu:
Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng thu bóng ngã bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng
(Giọt Lệ Thu- Tương Phố)
Quả thật mùa thu không
có gì vui, không tươi thắm như mùa xuân mới, không rực rỡ như hè sang. Trăng bao giờ cũng mơ màng, ảm đạm, gió thu hiu hắt lạnh lẽo và tình thu
thì... cô đơn. Thế mà ai cũng thích mùa thu!?
Khi còn trẻ, tôi cứ nghĩ
chỉ những ai chịu ảnh hưởng thi ca lãng mạn mới yêu thu tha thiết, đậm đà. Không phải vậy đâu!
Thu là mùa cảnh vật thay đổi nên gây nhiều xúc cảm trong lòng người. Xúc cảm đó là gì? Là nỗi
chia ly. Mùa thu là mùa chia ly, xa cách, một chút lạnh đã về cũng đủ làm cho
người ta thấy lạnh lẽo; cô đơn và nhung nhớ cũng theo về, làm cho kẻ cô đơn thêm đợi chờ khắc khoải.
Hãy đơn cử một ví dụ
trong truyện Kiều. Trong đời cô Kiều có biết bao nhiêu lần ly biệt: Kim Trọng
chia tay Kiều về Liêu Dương, Kiều bán mình chuộc cha,
ra đi theo Mã Giám Sinh. Nhưng lần Thúc sinh chia tay Kiều để về thăm nhà là lần chia tay đẹp nhứt trong đời cô kỹ nữ:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Người đi đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm
đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
(Chinh Phụ Ngâm- Đoàn Thị Điểm)
Nguyễn Du vẽ một cảnh
chia ly giữa Kiều và Thúc Sinh vào mùa thu, chắc hẵn có chủ ý. Nguyễn Du muốn
nói lên cảnh chia ly trong lòng người sao cho phù hợp với cảnh chia ly của thiên nhiên. Người đi xa xôi lạnh lẽo được trao chiếc áo ngự hàn (chia bào). Rừng phong cũng nhuốm màu chia cách (quan san), Kiều và Thúc sinh ai cũng cảm thấy cô đơn. Tuy nhiên, nếu hiểu hoàn cảnh Kiều và Thúc sinh, ta thấy cách tả của Nguyễn Du không hợp. Những chữ như “lên ngựa”, “chia bào”, nghe có vẻ như chinh phu mặc áo giáp, lên ngựa ra biên ải, phảng phất hình ảnh chinh
phu trong Chinh Phụ Ngâm. Những chữ như “chinh an” (Kẻ lên ngựa đi xa), “quan san” (Cửa ải trên núi), cũng na ná hình ảnh chia
tay của người đi lính thú.
Nếu nói đoạn trên có vẽ
như tả một chinh phu ra trận thì đoạn thơ sau
đây đúng hơn, cũng mùa thu, chia ly:
Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về ước nẽo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió
đông
Phù dung lại nở bên sông bơ thờ
(Chinh Phụ Ngâm- Đoàn Thị Điểm)
Lúc ra đi (lâm hành)
chim oanh chưa về đậu trên cành liễu (xuân chưa về), chàng hẹn mùa hạ sẽ về (ước nẽo quyên ca), nay đã mùa thu rồi
(quyên giục oanh già). Lúc ra đi, mai chưa dạn gió (mai chưa nở, xuân chưa về),
chàng hẹn xuân sẽ về (độ đào bông, bông đào nở), nay xuân đã tàn (quyến gió
đông, “đông phong” là gió xuân). Trong Chinh Phụ Ngâm cũng có câu:
Xót người lần lữa ải xa
Xót người nương chốn hoàng hoa dặm dài
(Chinh Phụ Ngâm- Đoàn Thị Điểm)
Hoàng hoa là hoa cúc
vàng, mùa thu hoa cúc nở (“Mùa thu hoa cúc vàng lưng dậu”, Nguyễn Bính). Đó là mùa đi thú. Ngày xưa đi lính thú (lên mạn ngược để canh phòng
biên ải, cứ ba năm đổi phiên một lần) vào mùa thu.
Mùa thu là mùa chia ly,
gió tây (gió thu, theo “ngũ hành”, mùa thu thuộc phương tây) lạnh, làm cho người vợ nhớ chồng đang xông pha ngoài biên ải, thương chồng chịu cảnh lạnh lùng:
Gió tây nổi không đường hồng tiện
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.
(Chinh Phụ Ngâm – Đoàn Thị Điểm)
Khi gió thu nổi lên,
chim hồng không bay ra biên ải để đưa thư được. Trong Cung Oán Ngâm Khúc, dù
không có cảnh chia ly vợ chồng như trong Chinh Phụ Ngâm, nhưng cũng có tâm trạng cô đơn lạnh lẽo của cung nữ vì bị vua bỏ
bê:
Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc
Gác thừa lương thức ngủ thu phong
(Cung Oán Ngâm Khúc – Ôn Như Hầu)
(nền vũ tạ: nhà để múa hát,
gác thừa lương: nhà để hóng mát)
Nơi cung nữ múa hát ngày trước, nay vắng vẻ (nhện giăng cửa mốc). Nơi hóng mát cùng nhà vua thì nay
gió thu thổi lạnh lùng (thức ngủ thu phong).
Đi xa hơn chút, với thơ
Đường, thời đại thi ca cực thịnh của Trung Hoa thì cái ý thu trong thơ Tàu và thơ ta không khác nhau bao nhiêu (dĩ nhiên là thơ ta chịu ảnh hưởng thơ Tàu). Rõ nhất là
trong Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, Phan Huy Vịnh dịch:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty.
(Tỳ Bà Hành
- Bạch Cư Dị)
Tiễn bạn canh khuya ở
bến Tầm Dương, hơi thu lạnh, lau lách đìu hiu. Kẻ xuống
ngựa, kẻ dừng chèo, chào nhau ly biệt, mời nhau chén rượu nhớ một chiều nào nghe tiếng sáo thổi. (trúc ty).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét