TUỆ CHƯƠNG
Nói chung, cách làm thơ, mô tả khung cảnh thiên nhiên cũng như lòng người, trong cổ thi thường có tính ước lệ. Chẳng hạn như khi nói tới mùa thì mùa nào thức
nấy. Mùa xuân thì có hoa mai, đào để đón tết; hạ thì có hoa lan, thu thì có hoa
cúc, đông thì có trúc. Mai Lan Cúc Trúc là hoa (trúc không phải hoa) của bốn
mùa Xuân Hạ Thu Đông. Ngoài ra, trong thi ca, về các mùa còn có những ước lệ khác nữa. Mùa thu, ngoài hoa cúc, còn có lá ngô
đồng (rụng):
Ngô đồng nhất diệp lạc
Thiên hạ cộng tri thu
(Một lá ngô đồng rụng,
Ai cũng biết thu về).
Theo Kinh Dịch: Kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ là ngũ hành, mùa thu ở hướng tây, thuộc kim. Cho nên gió thu còn gọi là “gió tây”, là “kim phong”.
Bên Tàu như thế mà ta cũng vậy. Gió thu thổi theo “Gió mùa” (mousson),
theo hình thể địa lý của ta là từ hướng bắc xuống, mang theo cái lạnh của Tây Bá Lợi Á, nên gọi là gió Bấc (đọc trại của bắc). Ca dao có câu:
Ra về để áo lại đây,
Để khuya em đắp (ngọn) gió Tây lạnh lùng.
Mùa thu cái gì cũng
riêng. Trăng riêng, gió riêng, hoa riêng, lá cũng riêng, chim chóc cũng riêng,
đó là chim di thê. Mùa thu gió bắt đầu lạnh, chim bay từng đoàn về phương nam trốn tuyết. Thời thơ ấu, tôi từng thấy trên bầu trời sông Thạch Hãn hay thời
niên thiếu tôi thấy trên bầu trời sông Hương, những đàn chim bay thành hình tam giác, con đầu đàn đi trước, bay ngang khung trời
xanh. Tôi thường xao xuyến vì cảnh thu ở quê nhà, mơ ước những chuyến đi xa. Nay ở bên nầy cũng vậy. Mùa thu, vài khi chợt thấy những con thiên nga dừng chân bên các hồ nước rộng trong các công viên. Chúng dừng “chân” nghỉ trên con đường trốn tuyết bay về Nam Bán Cầu.
Trên là nói về thơ cổ; còn thơ nửa cổ nửa kim thì có Tản
Đà. Ông là cái gạch nối giữa những “linh hồn cũ” của thế hệ làm thơ văn bằng “chữ vuông” và thế hệ làm thơ văn bằng chữ quốc ngữ. Thu của Tản Đà cũng buồn lắm:
Đêm
thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần
thế em nay chán nữa rồi
Cung
quế đã ai ngồi đấy chửa?
Cành
đa xin chị nhắc lên chơi
Có
bầu có bạn can chi tủi
Cùng
gió cùng trăng thế mới vui
Rồi
cứ mỗi năm rằm tháng tám
Cùng
nhau trông xuống thế gian cười.
(Tản-Đà)
Cái cười Tản Đà cũng chỉ cười gượng đó thôi, vì một người đa tình như ông, sống ở cõi đời này
cũng chỉ để buồn vì những cái rất bâng quơ:
Ngọn gió
thu phong rụng lá vàng
Lá
bay hàng xóm lá bay sang
Vàng
bay mấy lá năm già nửa
Hờ
hững ai xui thiếp phụ chàng
Ngọn
gió thu phong rụng lá hồng
Lá
bay tường bắc lá sang đông
Hồng
bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng
trông
(Tản-Đà)
Lá vàng là lá đầu thu:
mới quá nửa năm; lá hồng là lá cuối thu: năm gần hết. Lá từ bắc sang đông, lá
từ hàng xóm bay sang, lá rụng khắp mọi nơi, làm tác giả nhớ cảnh chia ly, nhớ chuyện thiếp phụ chàng, nhớ
cảnh cô đơn, là ai đó vẫn chờ ai trong tuyệt vọng. Người Việt Nam thường giữ
tình xóm làng, kể cả lòng yêu trộm nhớ thầm một cô hàng xóm, chờ đến khi người
ta đã đi lấy chồng về thăm nhà mới dám nói ra thì đã quá trễ:
Nụ
tầm xuân nở ra xanh biếc
Em
có chồng anh tiếc lắm thay!
(ca
dao)
Hay hoàn toàn im lặng như Nguyễn Bính:
Từ
độ mồng tơi thôi trổ lá
Thì
cô hàng xóm cũng thôi sang
(Nguyễn
Bính)
Mồng tơi trổ lá vào mùa hạ. Khi thu lạnh tới thì cây mồng tơi cũng tàn, còn nữa đâu mà
trổ lá, và cô hàng xóm đã đi lấy chồng. Ngồi đó mà tiếc ngẫn tiếc ngơ!
Tản Đà là thiên tài làm
thơ, xuất thần làm thơ, thơ thần. Đọc thơ ông người đọc cảm nhận cái hay một cách tự nhiên trong mỗi chữ, mỗi câu chứ giải thích thì không giải
thích được, đặc biệt là bài “Thề Non Nước”:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng
non
(Tản-Đà)
Trong những người làm thơ mới, kế cận với Tản Đà nhất có lẽ là bà Tương Phố với bản “Giọt Lệ Thu” khóc chồng là ông Thái Văn Du. Chỉ một tác phẩm nầy, bà để lại cho đời một áng văn vừa xuôi vừa thơ làm “chếtđứng” tâm hồn bao người mê thơ (*):
Trời
thu ảm đạm một màu
Gió
thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng
thu bóng ngã bên thềm
Tình
thu ai để duyên em bẽ bàng
Anh ơi!
Thu
về như gợi mối thương tâm
Mỗi
độ thu sang em lại vò lòng than khóc
Mỗi
năm có một lần thu
Nhưng thu năm nay đi,
năm
sau còn trở lại
Hỏi
ba sinh hương lửa
Thì
ái ân kia dễ mấy kiếp hẹn hò nhau
Chẳng
hay cơ trời dâu bể vì đâu
Xui
nên chăn gối vừa êm
Sắt
cầm dìu dặt ngón đàn
Bỗng
ai xô lộn
Bình
tan gương vỡ
Cho
người dỡ duyên
Anh
đi hồi ấy
Năm
tháng thường về
Người không dấu vết
Năm
tháng bâng khuâng
Sầu
lại nhớ
Thương nhau vò võ khóc
vì nhau...
(Giọt
Lệ Thu – Tương Phố)
Hình ảnh và chữ dùng
trong “Giọt Lệ Thu” không ra khỏi những ước lệ thơ cổ, điều đó đương nhiên vì tác giả là người của đầu thế kỷ 20, lúc phong trào thơ mới vừa lên, chưa mạnh, nhưng cách phô diễn tình cảm nhưcủa bà trong đó thì đã mới mẻ
lắm, mãnh liệt lắm. Bốn câu đầu bà làm theo thể lục bát, một thể thơ dân gian rất phổ cập; phần sau viết theo thể trường đoản, niêm luật không cần nghiêm nhặt lắm nhưng lại là văn “biền ngẫu” (lời văn đối nhau), rất phổ thông trong cổ văn.
Ngay cả
những người làm thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư thường đã phá những khuôn
mẫu, ước lệ thơ cũ nhưng nhiều khi vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của nó. Chẳng hạn như bài “Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu, ngôn ngữ và thi tứ mang rất nhiều âm hưởng Tỳ bà Hành:
Thu
lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn
ghê như nước lạnh trời ơi
Long
lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng
nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
(Nguyệt
Cầm - Xuân Diệu)
Thu lạnh, tiếng đàn lạnh.
Lạnh làm cho trăng càng thêm tỏ. Tiếng sỏi vang dưới bước chân người. “Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”. Rõ ràng Xuân Diệu
tả lại cảnh chia tay một đêm thu trên bến Tầm Dương giữa Bạch Cư Dị và người bạn. Trăng nhớ bến xưa và nhạc nhớ ngón đàn tuyệt vời của kỷ nữ đêm trăng đó đã đàn cho Bạch và
người bạn nghe. Tâm sự người ca kỷ về già đã làm cho Bạch Cư Dị khóc. Cái hay Xuân Diệu có nhưng không có trong Tỳ Bà Hành là tiếng sỏi kêu lên dưới chân người đi. Tiếng sỏi ấy như tiếng hận của cõi lòng ly biệt.
Điều tôi thắc mắc là loại đàn của người kỷ nữ đánh hôm đó là đàn tỳ-bà (Tỳ bà hành), rất phổ cập trong nhạc Tàu, hình bầu ở dưới, phía trên nhỏ lại mà cũng là cần đàn. Hình cây đàn tỳ
bà như quả lê. (Xem bài“Tỳ bà hay Nguyệt cầm?” cùng tác gia đang trong “Viết Về Huế”, tập 1) Xuân Diệu đổi thành Nguyệt cầm (đàn nguyệt), dưới là bầu tròn như mặt trăng, trên là cần đàn.
Nói về thơ mới mà cũ, không thể không nói đến một thi nhân nổi tiếng, một tác phẩm nổi tiếng: Quách Tấn với tập thơ “Mùa Cổ Điển”. Như ông đã nói trong nhan đề
cuốn thơ của ông, mặc dầu thơ ông xuất hiện trong cùng phong trào thi ca lãng
mạn đầu thế kỷ 20, thơ ông là thơ cổ điển, có nghĩa phần nhiều làm theo thể thơĐường Luật, và cả ý thơ, lời thơ đều cổ điển cả. Bài thơ hay nhứt của ông được nhiều người
ưa thích là bài “Đêm Thu Nghe Quạ Kêu”:
Từ
ô y hạng rủ rê sang,
Bóng
lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời
bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu
sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồi
hồi thương kẻ nương sông bạc.
Lặng
lẽ nhà ai rụng giếng vàng
Tiếng
dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình
hoang mang gợi tứ hoang mang.
(Quách
Tấn)
Ông là nhà thơ mới nhưng thơ ông rất nhiều điển tích, là tính cách đặc biệt của thơ cổ: “Ô y hạng” là “Ngõ áo thâm”. Theo
tục xưa, các gia đình làm quan to
nhiều đời ở chung một xóm, ai ai cũng mặc một mầu áo thâm như nhau, để chứng tỏ
thuộc nhà quan. Dòng họ Nguyễn Du ở Hà Tĩnh mấy đời đều làm quan to trong triều
vua Lê chúa Trịnh; dòng họ Phan Đình Phùng, 12 đời, đời nào cũng có người đổ đại khoa (tiến sĩ), họ ở chung trong một “ô y hạng”. Bến Phong Kiều là lấy chữ trong bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” của Trương Kế bên Tàu, bến sông Xích Bích là chỗ Khổng Minh bày mưu cho Tôn Quyền phá quân Tào trên sông Trường Giang, về sau ông Tô Đông Pha có làm bài phú Xích Bích nói tới trận đánh lớn nầy trong lịch sử Tam Quốc. Thụy Khuê thuật lại trên đài RFI rằng khi còn trẻ, một
hôm Quách Tấn qua làng bên bốc thuốc cho mẹ, trên đường về, đi qua một rặng
tre, bỗng một đàn quạ trong tre thức giấc kêu vang lên làm ông kinh hãi. Ban
đầu đề bài thơ là “Nghe quạkêu”, sau Lưu Trọng Lư đề nghị ông thêm vào hai chữ “Đêm thu”
(Đêm Thu Nghe Quạ Kêu) cho bài thơ thêm chút thi vị.
Về thơ mới, Xuân Diệu là một trong những người đi tiên phong. Không như bài trên của Quách Tấn, thêm vào chữ “Đêm Thu” thành ra bài thơ nghe có vẽ tả cảnh mùa thu, bài “Đây Mùa Thu Tới” của XD là chọn ngay đề tài mùa thu để làm thơ:
Rặng
liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc
buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây
mùa thu tới, mùa thu tới,
Với
áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong
vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những
luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi
nhánh khô gầy xương mỏng manh
Thỉnh
thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non
xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã
nghe rét mướt luồn trong gió
Đã
vắng người sang những chuyến đò.
Mây
vẫn từng không chim bay đi
Khí
trời u uất hận chia ly
Ít
nhiều thiếu nữ buồn không
nói,
Tựa
cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
(Đây
Mùa Thu Tới – Xuân Diệu)
Trong thơ cổ, cây liễu tượng trưng cho người đàn bà hoặc sắc đẹp người đàn bà.
Trong Kiều có câu:
Hồn
còn mang nặng lời thề
Nát
thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Giải thích theo thơ Tàu: “Bồ liễu chi tư vọng thu nhi tiên diêu”. Cây bồ cây liễu là thứ cây yếu ớt, hễ trông thấy mùa thu tới thì rụng và héo
rồi, ví như người đàn bà yếu ớt vậy. (Truyện Thúy Kiều, Trần Trọng Kim-Bùi Kỷ chú thích, trang 98).
Trong Kiều cũng có câu:
Khi
về hỏi liễu Chương Đài
Cành
xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
Sách Thái Bình Quang Ký
chép rằng Hàn Hoành đời Đường lấy người kỷ nữ là Liễu thị, đi làm quan xa để
lại tại phố Chương Đài ở kinh đô Trường An, làm bài thơ gởi về có câu: “Chương Đài liễu! Chương Đài liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ, giả ưng phan chiết tha nhân thủ”. Nghĩa là: “Liễu Chương Đài! Liễu ChươngĐài! Ngày nọ xanh xanh nay
còn không, hay là tay khác đã bẻ mất rồi”. Cuối đời Thiên Bảo, Liễu thị bị tướng Phiên cướp mất. Sau Hứa Tuấn cướp lại được, trả lại cho người cũ.
(Theo Tự điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh và truyện Thúy Kiều của Trần
Trọng Kim và Bùi Kỷ)
Tả nhan sắc Dương Quí Phi, Lý Bạch
có câu:
Phù
dung như diện, liễu như mi
(Mặt
như hoa phù dung, mày như lá liễu)
Hoặc ta thấy câu:
Hốt
kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối
giao phu tế mịch phong hầu.
(Chợt thấy cây dương liễu đầu đường, lấy làm hối hận xui chồng ra đi tìm khanh tướng).
Đoàn Thị Điểm diễn ý đó như sau
trong Chinh Phụ Ngâm:
Chợt
ngoảnh lại thấy màu dương liễu
Thà
khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Dù là thơ mới, Xuân Diệu cũng khó thoát ra khỏi những ý cổ. Lá liễu như tóc người con gái với những giọt nước mắt đọng lại trên đó:
Rặng
liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc
buồn buông xuống lệ ngàn hàng
(Xuân
Diệu)
Với Xuân Diệu, lá liễu
còn là tóc quấn khăn tang. Cái buồn và tang tóc đó làm cho Xuân Diệu phải thốt
to lên một tiếng than: “Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!” Áo mùa thu, may bằng lá
vàng. Trước ông, ít khi người ta nói vậy.
Cảnh thu bây giờ buồn:
Hoa rụng. Lá vàng trong vườn chuyển qua sắc đỏ. Những cành khô như xương giơ cao lên, mỏng manh. Gió thổi làm những chiếc lá còn lại trên
cành rung rinh theo gió.
Trăng ngẫn ngơ, nhớ,
buồn và chia ly. Trời nhiều sương khói nên khung cảnh ở xa đã mờ đi. Rét mướt
đã luồn theo gió thu trở về. Mùa thu tới, cuộc sống như chậm lại như cổ nhân nhận xét: Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng (trữ). Thu thâu là cuộc sống chậm lại, nhựa sống trong thân cây chảy chậm lại, dồn nén trong thân, rễ cây. Người ta ít đi ra ngoài hơn nên những chuyến đò ngang vắng khách.
Chim bay về phương nam tìm hơi ấm. Trời, đất, người, chim chóc vạn vật đều nhuốm vẽ chia ly. Truớc cảnh buồn và chia ly đó, các cô gái bỗng thấy lòng bâng khuâng
với một nỗi buồn xa xôi vô cớ, đứng tựa cửa nhìn ra khung trời xa rộng. Hình
ảnh nầy rất mới. Trong thơ cũ, con gái phải kín cổng cao tường, khép kín ở phòng the.
Tư tưởng đã mới, cách diễn đạt của Xuân Diệu không
những mới mà Tây, rất Tây. Không ai nói “Hơn một loài hoa” mà nói “Đã có một loài hoa”.
Chỉ “rủa” (jurer) gốc là tiếng tây; người ta không nói: “Nàng trăng tự ngẫn ngơ” (động từ tự phản hồi) mà nói trăng ngẫn ngơ; sương mờ, khói làm nhạt non ở xa, chứ không nói ngược như Tây: “Non xa khởi sự nhạt sương mờ”. Trong gió đã có rét, không nói
“Rét mướt “luồn” trong gió”. Đặc biệt những chữ rung rinh (lá) diễn tả độ rung chiếc lá khi gió thổi.
Có thể đây là một trong những
bài thơ đầu tay của Xuân Diệu, ý tưởng tuy có mới nhưng kỹ thuật chưa hoàn hảo. Bài “Ý Thu” sau đây hay
hơn nhiều:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét